Khế
chua nấu với óc nhồi,
Cái
nước nó xám nhưng mùi nó ngon.
Ca
dao
Ngày
xưa có hai anh em hưởng gia tài cha mẹ, người anh giành hết
tài sản, chỉ để lại cho em một ngôi nhà tranh và một cây
khế. Đến mùa trái chín, một con chim phượng hoàng đến
ăn hết trái. Thấy người em buồn rầu, chim bảo: Ăn một
quả, trả cục vàng, may túi ba gang, mang đi mà đựng. Rồi
một hôm chim chở người em đến một hòn đảo đầy vàng
bạc, đá quý, mặc sức lượm đầy túi đem về trở nên
giàu có. Người anh thấy vậy, đổi nhà với em rồi cũng
được chim chở đi lấy vàng, nhưng tham lam anh lượm quá nhiều,
mang túi quá nặng nên trên đường về bị rơi xuống biển
.... Có một biến dị của đoạn kết là chim phượng hoàng
không chở đi lấy vàng mà chỉ nhả ra vàng bạc. Đến lượt
người anh thì chẳng có chim phượng hoàng mà là một bầy
quạ rủ nhau lại kêu "xấu hổ ! xấu hổ !". Dù với kết
luận nào, chuyện cổ tích nầy thật là một bài học luân
lý quý báu về biển lận, tham lam (1).
Người
ta còn kể chuyện một người được bạn cho mượn vàng nhưng
khi bạn lại thăm, tưởng bạn đòi nợ liền cùng vợ lập
tâm giết đi và đem xác chôn dưới gốc cây khế. Khi trái
chín, có một quả to, người vợ hái ăn, thụ thai và đẻ
ra một đứa con trai khỏe mạnh, khôi ngô nhưng phải cái tật
không biết nói. Thấy hai vợ chồng buồn bực, một hôm đứa
bé bật nói, đòi mời quan huyện qua, rồi khai lại đầu đuôi
câu chuyện. Quan cho đào gốc cây khế, tìm ra xác chết, liền
phê án trị tội hai vợ chồng. Bên phần đứa bé, tức là
người bạn bị giết, khi ra đi vợ mới có thai, bây giờ
về hai mươi năm sau thì con đã có cháu, nên mới có câu cổ
ngữ (2).
Tham
vàng, phụ nghĩa cố nhân,
Oan
hồn, hồn hiện, trời gần chẳng xa.
Sinh
con rồi mới sinh cha,
Sinh
cháu giữ nhà rồi mới sinh ông.
Khế
là một cây có nhiều trong các vườn nước ta. Trái khế chín
thơm ngọt, ăn ngon nhưng cũng có loại chua dùng trong bếp núc.
Trái khế xanh là phần rau sống để ăn với thịt phay, dùng
để nấu canh lươn, canh hến, trong món cua giấm, kho cá để
giảm mùi tanh, tăng khẩu vị, nấu ốc nhồi với cà chua,
thìa là (HTKC). Khế cũng được ngâm muối và ngâm nước đường
thành
khế muốiăn thay chanh muối, hay ngâm nước mắm
đường pha chút gừng, ăn vừa mặn, ngọt, chua lại hơi cay
cay, gọi là
khế giầm (BKT). Trong bửa ăn khế còn góp
phần thẩm mỹ. Hãy đọc một tác giả biết ngắm trước
khi ăn: "Ngày nay, món tôm chua ăn với thịt ba chỉ được
phổ biến khắp nơi nhưng mỗi nơi làm một khác. Có nơi trộn
thêm nhiều đu đủ, con tôm khô và hơi mặn, màu sắc kém
đẹp trong khi tôm chua Huế phải là loại tôm vừa, không quá
nhỏ, không thêm nhiều phụ gia, khi ăn nghe thoảng mùi riềng,
tỏi; thêm vào chút đường, con tôm đỏ ong và bóng mượt
rất bắt màu bên lá rau húng màu lục, lát chuối màu trắng,
lát khế chua màu vàng"(3).
Theo
Đông y, khế vị chua ngọt, chủ trị phong nhiệt (nóng sốt),
sinh tân dịch, chỉ khát (chữa khát). Lá khế giã nhỏ chữa
mẩn ngứa, lở sơn, lở loét, sưng đau do dịứng (ĐTL). Nước
trái khế uống mát, chữa bệnh scorbut. Bên Cao Mên, rễ cây
khế phối hợp với cây kleng pear hay khleng kraham
và vỏ cây băng lăng
Lagerstroemia floribunda Jack. với gạo
làm thuốc chữa ngộ độc, đặc biệt do mã tiền. Trong nhân
dân, lá, hoa hay cành khếđược cho vào nước nấu sôi xông
và tắm; lá đã nấu rồi dùng xát lên nơi lở loét, thường
chỉ điều trị 3-4 ngày là khỏi (ĐTL). Dược sĩ Bùi Kim Tùng
cho biết một tu sĩ bảo nước sắc hoa khế làm giảm cholesterol-huyết
rất hay, đã kiểm tra định kỳ và thấy kết quả thu lượm
được còn hạn chế nhưng cách dùng thuốc an toàn.
Cây
khế còn được gọi khế ta, khế cơm, khế chua, dương đào.
Vì trái khi cắt ngang có năm cạnh nên Trung Quốc có tên ngũ
lãng tử, ngũ liêm tử (liễm là thu lại, tụ lại), còn Hoa
Kỳ thì gọi
starfruit (trái sao) hay golden star (sao
vàng). Cao 5-6 thước, cây khế mọc khắp nơi, từ Đông Nam
Á qua Mỹ châu. Mang tên khoa học
Averrhoa carambola L., nó
thuộc họ Chua me đất hay Me đất Oxalidaceae. Có hai Averrhoa
khác nhau :
A. microphella Tard. (khế lá nhỏ) và
A. bilimbi
(khế
tàu, khế ngọt). Còn có cây khế rừng hay khế cháy, cây quai
xanh
Rourea microphylla Planch, khác giống, thuộc họ Khế
rừng
Connaraceae, dùng làm thuốc bổ cho phụ nữ sau khi
sinh nở, chữa đi tiểu vàng, đỏ, đái láu, mụn nhọt (ĐTL,
BKT).
Trái
khế chín ngọt là nhờ những chất đường: fructose, glucose,
sucrose, số lượng ít thay đổi nếu sau khi hái được giữ
ở 5 độ. Hương thơm tỏa ra là nhờ chứa đựng một số
hóa chất dễ bốc hơi. Trong số nầy gần 200 chất đã được
xác định cấu trúc: bên cạnh số lớn ester, ceton, lacton,
còn có methyl anthranilat, methyl benzoat, nhiều carotenoid (22 microg/g)
cùng các chất phát sinh ra chúng. Trong số các carotenoid, những
caroten, lutein, phytofluen, ionon, theaspiran, cryptoflavin, cryptoxanthin,
cryptochrom, mutatoxanthin, megastigmatrien, megastigmadienon, megastimatrienon,
megastigmatrienol là những chất sắc nhuộm vỏ trái khế màu
vàng tươi dịu. Các chất carotenoid nầy biến hóa ra những
chất thơm methyl heptadienon, dimethyl undecadienon, geranyl aceton,
bêta-ionon, đặc biệt từ bêta-caroten (623 microg/100g), damascenon
đã tìm ra trong trái nho, táo tây, cà chua. Đến lượt ionon
biến hóa ra thành dehydro ionon, ionol, hydroxy ionol. Đặc biệt
trong các chất thơm có 4 chất đồng vị megastigmatrien, thơm
mùi hường và ngấy dâu, 2 chất đồng vị megastigmadienon thơm
mùi hoa, đều từ ionol mà lại. Đến lượt 4 chất đồng
vị megastigmatrien cũng không ổn định và bị acid xúc tác
trong môi trường dưỡng khí để hóa thành trimethyl dihydro
và trimethyl tetrahydro naphtalen. Các nhà khảo cứu nhận thấy
những carotenoid trong cây khế tương tự với những
carotenoid trong cây lạc tiên
Passiflora edulis Sims.
Hương
thơm của trái khế lẽ tất nhiên quyến rũ nhiều sâu bọ,
trong số nầy được bắt gặp nhiều nhất là Anastrepha
suspensa Loew.,
Dacus dorsalis Hendel, Bactrocera dorsalis
Hendel
bên cạnh
D. umbrosus, D. cucurbitae, Pseudomonas syringae, Eucosma
notanthes
Meyrich.Khi cây khế bị sâu A. suspensa phá
hoại thì hiệu nghiệm nhất là dùng thuốc methyl bromid. Chất
methyl eugenol bắt sâu đực D. dorsalis rất hữu hiệu.
D.
umbrosus
cũng được hấp dẫn nhưng thuốc ít có hiệu lực
với
D. cucurbitae.
Trong
khế có nhiều acid. Loại có ích cho ta là ascorbic acid tức
vitamin C (22-30mg/100g)(6). Ta hiểu ngay tại sao khế
được dùng để chữa bệnh scorbut tức là bệnh thiếu vitamin
C : cơ thể suy yếu, khớp tay chân đau, nướu răng, nội tạng
chảy máu,… Trong trái khế còn có protein (0,4-2,7g/ 100g), nhiều
amin acid như alanin, glycin, serin, hydroprolin (5), những
aspartic và glutamic acid ; oxalic acid (0,08-0,73g/100g) (7)
dưới dạng oxalat
(8) ; các acid mỡ như palmitic, oleic,
linoleic, linolenic, stearic acid
(4). Những flavonoid như
lupeol, sitosterol trong vỏ rutin, quercetin glucosid trong hoa, ionon
glucosid trong nước ép, dihydro abscisis alcool cùng hexanal, hexenol,
hexanol và một số rượu terpen như terpinenol, terpinol, nerol,
geraniol, linalool cũng đã được xác định. Cyanidin glucosid
đã được tìm ra trong cả khế A. carambola
và
A. bilimbi.Nhiều
loại enzym xúc tác những phản ứng biến hóa trong khế đã
đuợc chiết xuất và tinh lọc: amylase, catalase, invertase, peroxidase,
pectin esterase, polyphenoloxidase và nhất là polygalacturonase tăng
gia với độ chín của trái. Nhiều khoáng chất, kim loại trong
trái khế : N, P, K, Fe, Mn, Zn, Cu đã được đo lường cặn
kẽ để phác họa một chương trình bón cây (11).
Ngày nay, để lấy giống khế, kỹ thuật cấy mô được thực
hiện hoặc từ lá mầm (10) hoặc từ rễ cây (8).
Một công trình khảo cứu Việt Nam cho biết trong lá khế,
ngoài flavonoid, còn có saponosid, tannin, acid hữu cơ. Những saponosid
và flavonoid chiết xuất với rượu 90 độ có tác dụng chống
vi khuẩn Gram dương nhưng vô hiệu đối với các vi khuẩn
Gram âm và Candida albicans (12). Với tính chất
dược lý nầy, ta hiểu vì sao nhân dân cho lá khế vào nước
tám để chữa lở loét, mẩn ngứa, ....
Những
năm gấn đây, khảo cứu về những tính chất dược liệu
và áp dụng khếđược chú trọng nhiều. Phần chiết với
rượu có những tính chất hạ nhiệt, giảm đau, chống viêm,
chống co giật, chống vi khuẩn (20), đặc biệt trong
số các chất dễ bốc hơi
(19), hạđường trong máu
(22),
giảm cholesterol (24), đồng thời tăng gia thớ sợi
trong đố ăn
(23). Tính chất chống oxy hóa có nhiều
tương liên với những phenol (17) và proanthocyanidin
(21)
hơn là với những flavonoid (22). Dù sao, khế có tính
chất nầy mạnh hơn xoài, chuối nhưng yếu hơn đu đủ, thơm,
cam quật,…
(13). Phần chiết lá với nước hay rượu
được dùng để làm đồăn bổ sức khoẻ chứa đựng những
chất ức chế testosteron-5-reductase, chống androgen hay làm thuốc
xức tóc (15), bảo vệ da chống già
(14).
Cũng nên biết là trái khế có những chất độc thần kinh,
chưa xác định được cấu trúc, tương đối nặng cho những
bệnh nhân có urea, có thể dẫn đến chết, phải chữa với
bằng thấm tách máu (haemodialysis) hàng ngày
(18). Nguyên
do có thể từ oxalat mà lại
(16).
Tôi
còn nhớ hôm nhà tôi về thăm quê chồng lần đầu tiên, tôi
đưa nàng viếng chùa Từ Hiếu ở Huế, tĩnh mịch trong rừng
thông vi vút mà tôi từng quen thuộc thời trẻ tuổi hay lại
cắm trại. Giữa sân chùa có cây khế bách niên vững chắc,
nhiều trái khế chín vàng mượt lóng lánh thật đẹp giữa
cành lá xanh sum suê. Thấy nhà tôi mãi ngắm nghía, một vị
sưđề nghị biếu nàng một trái. Cả nàng lẫn tôi lưỡng
lự vì nghĩ trái khế mỹ miều biết bao trong môi trường
thiên nhiên, lấy nó ra ngoài liệu còn có giữ vẻ đẹp kia
không. Hái nó thì thật là uổng. Nhưng sư thầy cố nài, bảo
còn có những trái khác, cây khác. Miễn cưỡng nhận lời,
tôi xin phép thầy được chụp một cái ảnh trước khi hái
trái khế và cẩn thận trao lại cho nhà tôi. Ngày nay, mỗi
lần nhìn lại cái ảnh ấy, hương vịđậm đà của trái
khế lại hiện ra, ngọt ngào thơm phức, đưa tôi về nơi
miền quê thơ ấu. Và làm sao không xúc động được khi nghe
ca sĩ Trung Đức đầm ấm thổn thức qua những câu đầy tình
thương trong bài hát Quê hương
của Giáp Văn Thạch -
Đỗ Trung Quân :
Quê
hương là chùm khế ngọt
Cho
con trèo hái mỗi ngày....
Thông
tin Khoa học và Công nghệ 2 (32) 2001,
khoahoc.net
04.09.2008
Tham
khảo
1-
Nguyễn Đổng Chi,
Kho tàng truyện cổ tích Việt Nam,
nxb Văn nghệ, Tp Hồ Chí Minh 1993, 135-40
2-
Ôn Như Nguyễn Văn Ngọc,
Truyện cổ nước Nam , quyển
thượng: Người ta, Csxb Sudasie in lại , Paris 1994, 28-31
3-
Tô Kiều Ngân, Chuyện Huế ít người biết trong
Người
Xa Huế-Nhớ Huế2, Tp Hồ Chí Minh 2000, 35
4-
H.E. Nordby, N.T. Hall, Lilip markers in chemotaxonomy of tropical fruits
: preliminary studies with carambola and loquat,
Proc. Fla. State
Hortic. Soc.
92
(1979) 298-300
5-
N.T. Hall, J.M. Smoot, R.J.,Jr. Knight, Protein and amino acid compositions
of ten tropical fruits by gaz-liquid chromatography,
J. Agric. Food.
Chem. (6) 28 (1980) 1217-21
6-
M.R. Baqar,
Vitamin C content of some Papua Naw Guinean fruits,
J. Food Technol
(4)
15
(1980) 459-61
7-
C.W.,III Wilson, P.E. Shaw, R.J.,Jr. Knight,
Analysis of oxalic acid
in carambola (Averrhoa carambola L.) and spinach by high-performance liquid
chromatography,
J. Agric. Food. Chem.
(6) 30 (1982) 1106-8
8-
D.D. Kaushik,
Oxalic acid-hydrazinederivative : synthetic and in plants,
Comp. Physiol. Ecol. (1) 8 (1983) 80
9-
A.S. Kantharajah, G.D. Richards, W.A. Dodd,
Roots as a source of explants
for the successful micropropagation of carambola (Averrhoa carambola L.),
Sci. Hortic. (Amsterdam) (1-2)
51
(1992) 26-7
10-
M.N. Amin, M.A. Razzaqua, Regeration of Averrhoa carambola plants in
vitro from callus cultures of seedling explants,
J. Hort. Sci. (4)
68
(1993) 551-6
11-
P.K. Chattopadhyay, A. Ghosh,
Changes in mineral composition inflorescence
and developing carambola fruit,
Agric. Sci. Dig. (3-4) 14
(1994) 159-61
12-
Lai Quang Long, Vo Van Dien, Nguyen Van Khanh,
Preliminary results on
study on the Averrhoa carambola L. leaves extracts,
Tap chi Duoc
hoc (9) (1996) 14-6
13-
M. A. Murcia, A.M. Jimenez, M. Martinez-Tome,
Evaluation of the antioxydant
properties if Mediterranean and tropical fruits compared with common food
additives,
J. Food Prot.(12)
64 (2001) 2037-46
14-
Y. Ishida, R. Takagaki, N. Kishida, N. Oe, Z. kawashima, Skin-conditionong
Averrhoa carambola extracts and its applications to cosmetics, foods, and
beverages,
Jpn. Kokai Tokkyo Koho JP 2002226323 (2002) 14 tr.
15-
Y. Ishida, R. Takagaki, N. Kishida, Z. Kawashima,
Averrhoa carambola
(star fruit) leaf extract and its applications,
Jpn. Kokai Tokkyo
Koho JP 200241296 (2002) 10 tr.
16-
C.L. Chen, K.J. Chou, J.S. Wang, J.H. Yeh, H.C. Fang, H.M. Chung, Neurotoxic
effects of carambola in rats: the role of oxalate,
J. Formosan Med.
Assoc.
(5)
101
(2002)337-41
17-
P. Luximon-Ramma, T. Bahorun, A. Crozier,
Antioxidant actions and phenolic
and vitamin C of common Mauritian exotic fruits, J. Sci. Food Agric.(5)
83
(2003)
496-502
18-
N.M. Moyses, J.A. Cardeal da Costa, N. Garci âCairasco, J. Coutinho Netto,
B. Nakagawa, M. Dantas,
Intoxication by star (Averrhoa carambola) in
32 uremic patients: treatmant and outcome,
Nephr. Dialysis, Transp.(1)
18 (2003) 120-5
19-
T.S. El Alfy, S.H. Tadros, T.A. Ibrahim, A. A. Sleem, Volatile constituents,
nutritive value and bioactivity of the pericarp of Averrhoa carambola L.
fruits grow in Egypt, Bull. Fac. Phar. (Cairo Univ.) (2) 42
(2004)
20524
20-
S.H. Tadros, A.A. Sleem, Pharmacognostical and biological study of the
leaf of Averrhoa carambola L. grown in Egypt,
Bull. Fac. Phar. (Cairo
Univ.) (2) 42 (2004) 225-46
21-
G. Shui, L.P. Leong, Analysis of polyphenolic antioxydants in star fruit
liquid chromatography and mass spectrometry,
J . Chrom., A (1-2)
1022 (2004) 67-75
22-
C.F. Chau, C.H. Chen, C.Y. Lin,
Insoluble fiber-rich fractions derived
from Averrhoa carambola: hypoglycemic effects determined by in vitro methods,
Lebensm.-Wissens. Techn.(3)
37 (2004) 331-5
23-
C.F. Chau, C.H. Chen, M.H. Lee,
Characterization and physicochemical
properties of some potental fibres from Averrhoa carambola,
Nahrung
(1)
48
(2004) 43-6
24-
C.F. Chau, C.H. Chen, T.Y. Wang,
Effects of a novel pomace fiber on
lipid and cholesterol metabolism in the hamster,
Nutr. Res. (5)
24 (2004) 337-45 |