Sầu
riêng ai khéo đặt tên
Ai
sầu không biết, riêng em không sầu.
Ca
dao
Tục
truyền ngày xưa ở miền Đồng Nai, Bến Nghé có một chàng
trai bỏ xứ ra đi kiếm cách sinh sống nơi xa chốn lạ. Lần
lữa qua đến vùng Chùa Tháp, Cao Mên, tình cờ chàng gặp một
cô gái đang lên cơn sốt. Nhờ biết vài ba lá thuốc, chàng
chữa cô nàng lành bệnh. Nấn ná lâu ngày ở quê người đẹp,
chàng cùng nàng thành vợ nên chồng. Nhưng rủi ro cho cặp
uyên ương, không hưởng hạnh phúc được bao lâu thì nàng
lại mắc bệnh, lần nầy cây lá chàng biết chẳng còn công
hiệu, nàng từ bỏ cỏi trần. Nặng trong tim một mối tình
tuyệt vọng, chàng trở về làng cũ, đem theo hạt "tu ren" của
quê nàng, trồng lên thành cây để tưởng nhớ người yêu.
Đến mùa trái chín, ăn thấy ngon ngọt, chàng mời láng giềng
thưởng thức. Ngào ngạt hương thơm, lại thêm mùi vị độc
đáo, ai nấy đều ưa thích. Tuy vậy nỗi đau buồn của chàng
vẫn không nguôi ngoai và hết mùa trái chín thì chàng cũng
lìa trần theo dấu vợ hiền. Dân làng cảm kích cuộc tình
duyên sâu đậm, lại thương mến chàng trai chung thủy nên
đặt tên
sầu riêng cho trái cây nầy. Trong Nam có câu
hát chọc ghẹo anh học trò đi qua Lái Thiêu
Ghe
anh nhỏ mũi tráng lườn
Ở
trên Gia định xuống vườn thăm em.
Cùng
em ăn trái sầu riêng
Ăn
rồi cảm thấy một niềm vui chung.
Ngày
nay trái sầu riêng rất được ưa chuộng ở miền Nam nước
ta. Trái cây béo bở, nghe nói người ham mê thì như nghiện
ngập, mất bao nhiêu tiền cũng mua cho được . Thật ra sầu
riêng không chỉ có ở nước ta. Được quốc tế gọi durian,
từ danh từ djoerian bên quần đảo Indonesia, với
tên khoa học Durio zibethinus Murr., thuộc
họ Gạo
Bombacaceae, nó mọc khắp vùng Đông Nam Á và
được trồng từ Thái Lan qua Mã Lai, từ Việt Nam xuống quần
đảo Nam Dương. Ngoài vị ngọt bùi, đặc diểm của sầu
riêng là mùi hương của nó: người thích bảo thơm, kẻ không
quen thì cho thúi. Trước một chuyến bay cất cánh từ Tân
Sơn Nhất cách đây mấy năm, một hành khách người Việt
có mang theo một, hai trái, gói ghém cẩn thận, bao bọc kỹ
lưỡng, vậy mà hương bay nồng nặc, người ngoại quốc bịt
mủi phàn nàn và rút cuộc gói sầu riêng phải đưa xuống
gầm máy bay. Gần đây hơn, trong bầu không khí chiến tranh
sinh vật học, chuyến bay Brisbane-Adelaide bên Úc trễ mất 4
tiếng đồng hồ vì cảnh sát mất công tìm kiếm nguồn gốc
một mùi hôi và tìm hiểu chất thuốc trắng rải trên ghế,
thật ra chỉ là bột hương để át mùi sầu riêng. Hôm ghé
qua Jakarta, vợ chồng chúng tôi trầm ngâm trước bản căn
dặn khách hàng ở khách sạn chớ đem sầu riêng vào phòng
! Một anh bạn Pháp đã từng sống ở Sài Gòn bảo mùi sầu
riêng nhắc anh nhớ tới mùi phó mát Camembert để chảy lâu
ngày, vấn vương đôi chút các mùi hành, tỏi,...
Lẽ
tất nhiên, người châu Á, đặc biệt người Đông Nam Á,
nhÃt là những phòng thí nghiệm Âu Á, không thể thản nhiên
trước trái cây độc đáo nầy. Công trình khảo cứu nghiêm
chỉnh, sâu sắc trước nhất về cấu tạo trái sầu riêng
được thực hiện ở Viện Đại học Sains Malaysia tại Minden,
Penang bên Mã Lai. Dùng dichloromethan chiết xuất những thành
phần dễ bốc hơi (66-69mg/kg) từ tử y ba mẫu cấy mô mọc
ở Penang rồi đem phân tích qua phép sắc ký khí kết hợp
với máy lượng phổ ký GC-MS, hai nhà khảo cứu K.C. Wong và
D.Y. Tie xác định được 63 cấu chất gồm có những hoá chất
không có lưu huỳnh (ester, alcool, ceton, aldehyd, hydrocarbon) và
những hoá chất có lưu huỳnh (ester, thioalcool, hydrocarbon và
đặc biệt hydrosulfid) (16). Ở Trung tâm Sinh học Công
nghệ Thức ăn ở Singapore, các hóa sư xác định được đến
108 cấu chất
(19). Các ester chiếm tỷ số lớn nhất
thành phần bốc hơi (49,23-57,88%) trong ấy phần lớn là ethylpropanoat
và ethylbutanoat (16) được xem là hóa chất nặng mùi
nhất trong số những chất không chứa lưu huỳnh (18).
Những ester không bảo hoà là ethyl E-butenoat, ethyl E-methylbutenoat
(16)
và những chất hiếm thấy : ethyl Z,Z-, E,Z-, E,E-decadienoat, ethyl
E,Z,Z- và E,E,Z- decatrienonat
(17) (E = entgengen = trans
; Z = zusammen = cis). Mùi hương đậm đà, ngào ngạt của sầu
riêng phát xuất từ các ester ấy. Các chất số lượng đứng
hạng nhì thuộc loại hydroxy ceton, nhiều nhất là hydroxy butanon
(20).
Còn có 2 chất số lượng ít hơn nữa là hai chất đồng phân
hydroxy pentanon
(16), cấu chất của hương thơm cà
phê, da ua, phó mát Gruyère và gan heo nấu chín.
Nguyên
do mùi thúi sầu riêng là những chất có lưu huỳnh, 4 ester
: S-ethyl thioacetat, S-propyl thioacetat, S-propyl thiopropionat và ethyl
methylthio acetat ; 4 thioalcool : methan thiol, ethan thiol, propan thiol
và ethylthio ethan thiol ; 3 hydrocarbon : 2 đồng vị dimethyl trithiolan
và trimethyl trithian ; 10 sulfid : dimethyl, diethyl, ethylpropyl sulfid,
methylethyl, methylpropyl, ethylhydro disulfid, diethyl, methylethyl, ethylpropyl
trisulphid và diethyltetrasulfid (8,16). Hai tác giả Wong
và Tie bảo không xác định được những chất methan thiol,
diethyl và dimethyl disulphid, triethyltrisulfid đã được J. Baldry,
J. Dougan, G.E. Howard ở Viện Nhiệt đới London bên Anh (3)
tìm ra trong sầu riêng Singapore và Kuala Lumpur, cũng như ethyl
methyl disulfid, diethyl tetrasulphid và ethyl hydrodisulfid mà R. Moser,
D. Düvel, R. Greve ở các Viện Khoa học, Kỹ thuật và Thực
vật Ứng dụng Hamburg bên Đức (8)đã phát hiện
trong sầu riêng hái ở Chandburi (vụ mùa xuân) và Prajeen Rayong
(vụ mùa hè) bên Thái Lan. Cũng theo Wong và Tie (16),
các mùi hành, kiệu, tỏi tây trong sầu riêng phát xuất từ
các chất có lưu huỳnh ấy vì chúng cũng được tìm ra trong
kiệu, hành, tỏi tây. Đặc biệt mùi tỏi là do các thioglycosid
phân tán
(1). Ngoại trừ ethyl hydro disulfid, các chất
hydro sulfid và thiol không có hay có ít trong trái còn xanh, tăng
gia với độ chín của trái và không có chút nào trong hột
và vỏ trái cây (8).
Ngoài
các chất dễ bốc hơi, một số các acid mỡ có vòng cyclopropen
trong hột được khảo sát vì dầu chiết xuất ra (65,4%) có
khả năng ngăn gây vô sinh (1) hay hỗn loạn sinh lý
ở thú vật
(1,7), bắt nguồn từ sự chuyển hóa
các acid mỡ, như tăng lớn gan, phồng bóng đái. Giả thuyết
được đưa ra là tính độc do vòng cyclopropen liên kết với
sulfydryl của protein tạo nên (1). Về mặt amin acid,
dầu sầu riêng chứa nhiều nhất (%) steraric (45,84), sau đó
những là palmitic (26,75) và ít hơn là những oleic (14,95) và
linolenic (12,46) acid (21. Đặc biệt arachidic acid có
nhiều trong vỏ trái hái mùa hè (8). Trong tử y và
hột trái thì (%) sterculic acid (38,53) có nhiều nhất, nhiều
hơn malvalic acid (15,72), còn dihydro sterculic acid (2,52) thì chỉ
có chút ít. Số lượng các acid nầy giảm sụt khi đem nấu
hột
(6). Trong một công trình khảo cứu trên 4 mẫu
cấy mô, S.K. Berry nhận thấy hễ tỷ lệ lipid càng lớn so
với acid mỡ không bảo hòa thì sốđiểm gây cảm giác càng
lớn, cũng như khi tỷ lệ palmitic acid so với palmitoleic acid
càng nhỏ(9). Nên biết thêm là trong trái sầu riêng
còn có vitamin (8), flavanol, caffeic acid (1)đồng
thời những nhân tố antihistamin bền nhiệt cũng đã được
tìm ra (5).
Một
vài công tác nhắm tìm quan hệ giữa tính độc giảđịnh
của sầu riêng và rượu. Trong một cơ thể chuột đã tẩm
ethanol, sầu riêng có khả năng thức tỉnh con thú, rút ngắn
thời gian ngủ (12), đồng thời giảm hạ sức gây
chết của rượu
(4). Sựđối vận sầu riêng với
rượu có thể là do có hiện tượng giao thoa với sự hấp
thu rượu vào ruột hay với sự xâm nhập rượu vào các tế
bào mục tiêu
(4). Có nhiều tác giả không tin rượu
trở nên độc khi cùng dùng với sầu riêng
(2). Khảo
sát nhiều tổ chức sầu riêng, từ lá cây qua vỏ trái, từ
tử y qua lá mầm, người ta đã dùng hiện tượng điện chuyển
để xác định cấu tạo các amin acid. Một phản ứng giao
phôi với kháng huyết thanh dấy lên chống nhiều loại hột
đã biết đem lại một sự tích lũy dinh dưởng protein, từ
đấy có thể lập thành phương pháp bảo trợ hột (13).
Trái sầu riêng cũng đã được xem xét về mặt chín mở.
Độẩm tương đối nhỏ và ethylen tăng gia độ mở. Cho rải
100ppm gibberellic acid lên trái thì độ mở bị hảm lại nhưng
quá trình trái chín vẫn tiếp tục. Một acid mỡ liên kết
với sucrose bao phủ trái kềm hảm cả độ mở lẫn trái chín.
Tác dụng của ethylen lên độ mở luôn quan trọng hơn sự
hao hụt trọng lượng(14). Về mặt tính chất sinh
vật học, đã được phát giác những polysaccharid (23,24)
chiết xuất từ vỏ trái có khả năng ức chế hoạt động
của hai chủng vi khuẩn Staphylococcus aureus, Escherichia coli
và
hai chủng nấm men Candida albicans, Saccharomyces cerevisiae
(22).
Người
ta cũng có theo dõi quá trình phát triển của cây sầu riêng
ở Sedang bên Mã Lai. Cây lớn lên rất mau đến năm thứ bảy,
khi sản xuất chất khô đạt đến mức tối cao. Vào lúc ấy,
rễ cây chiếm 30% và cây 70%. Các khoáng chất N, P, K, Ca và
Mg trong cây tăng cường song song với chất khô nhưng có rất
ít trong trái những năm đầu. Để thúc đẩy phát triển cây
và sớm sản xuất trái, một loại thuốc Oxisol đã được
dùng và kết quả rất khả quan (10). Để bảo vệ
cây và rễ chống trùng Phytophthora palmivora có thể dùng
thuốc metalaxyl hay gốc cây có sức chịu đựng
(11).
Sau cùng, nhiều mẫu sầu riêng, măng cụt, lê tàu cho tác dụng
trong một cuộc nhiễm trùng giao phối với nhóm di truyền
Colletotrichum
gloeosporioides, phát hiện chúng đều có rDNA giống nhau và
các liên kết trong mtDNA cũng rất tương tự, chứng minh chúng
phát xuất từ một gốc chung nhưng khác nhau ở chỗ phải
thích nghi vào môi trường mỗi nơi
(15).
Đến
nay, so với các cây quả khác, thấy như các tính chất dược
học của sầu riêng chưa được tận dụng hoàn toàn. Ngoài
hương vị đặc biệt đưa sầu riêng lên thành một món ăn
đắt tiền, bên cạnh khả năng đã thấy giảm hạ sức gây
chết của rượu, thức tỉnh khi bị rượu làm cho buồn ngủ(4,12),
còn có những tính chất khác chưa được khảo cứu cặn kẽ
như ngăn cản sinh đẻ(7), đặc tính kích dục
(8),....
Sầu riêng có thể trở thành một loại trái còn quí báu hơn.
Thông
tin Khoa học và Công nghệ2 1996,
khoahoc.net
24.03.2005
Tham
khảo
1-
W.R. Stanton,
The chemical composition of some tropical food plants,
Trop
Sci.
(1)8 (1966) 6-10
2-
C.W. Ogle, Y.F. Tey, Alleged toxicity of durian and alcohol,Far.
East. Med. J. (9)7 (1971) 297
3-
J. Baldry, J. Dougan, G.E. Howard,
Volatile flavoring constituents of
durian,
Phytochem.
(6)
11 (1972) 2081-7
4-
S. Techapaitoon, M.K. Sim, Alleged toxicity of durian and alcohol,
Asian
J. Med.
(5)
9 (1973) 158-9
5-
V. Rattanapanone,
Antithiamin factors in fruits, mushrooms and spices,
Chiang
Mai Med. Bull. (1)
18 (1979) 9-16
6-
S.K. Berry,
Cyclopropene fatty acids in some Malaysian edible seeds
and nuts. I. Durian (Durio zibethinus, Murr.),
Lipids (6) 15
(1980) 452-5
7-
S.K. Berry,
Cyclopreponoid fatty acids in some Malaysian edible seeds
and nuts,
J. Food Sci.Technol.
(5)
17
(1980) 224-7
8-
R. Moser, D. Düvel, R. Greve,
Volatile constituents and fatty acid
composition of lipids in Durio zibethinus,
Phytochem.
19
(1980) 79-81
9-
S.K. Berry,
Fatty acid composition and organoleptic quality of four
clones of durion (Durio zibethinus, Murr.),
J. Am. Oil. Chem. Soc.
(6)
58 (1981) 716-7
10-
O. Yaacob,
The growth pattern and nutrient uptake of durian (Durio zibethinus,
Murr.) on an Oxisol,
Commun. Soil. Sci. Plant Anal.(8) 14
(1983)
689-98
11-
U. Pupipat,
Control of some soilborne diseases in Thailand, FFTC
Book. Ser.
26 (Soilborne Crop Dis. Asia) (1984) 49-58
12-
N. Nilvises, C. Saengsirinavin,
Effet of durian on sleep in alcohol
preteated animals,
Varasarn Paesachasarthara (3) 13 (1986)
67-75
13-
M.R. Charbonneau, M.J. Brown, J.S. Greenwood,
Examination of recalcitrant
seed proteins of Durio zibethinus,
Pertanika (2) 14 (1991)
125-32
14-
S. Sriyook, S. Siriatiwat, S. Siriphanich,
Durian fruit dehiscence-water
status and ethylene,
HortScience
(10)
29 (1994) 1195-8
15-
P.W. Alahakoon, A.E. Brown, S. Sreenivasaprasad,
Cross-infection potential
of genetic groups of Colletotrichum gloeosporioides on tropical fruits,
Physiol. Mol. Plant Pathol.
(2)
44 (1994) 93-103
16-
K.C. Wong, D.Y. Tie, Volatile constituents of durian (Durio zibethinus
Murr.),
Flavour Fragrance J. (2)
10 (1995) 79-83
17-
R. Naef, A. Velluz, Sulfur compounds and some uncommon esters in durian
(Durio zibethinus Murr.),
Flavour Frangrance J. (5) 11
(1996)
295-303
18-
H. Weenen, W.E. Koolhaas, A. Apriyantono,
Sulfur-containing volatiles
of durian fruits (Durio ziberthinus Murr.),
J. Agric. Food Chem.(10)
44
(1996) 3291-3
19-
J. Jiang, S.Y. Choo, N. Omar, N. Ahamad,
GC-MS analysis of volatile
compounds in durian (Durio zibethinus Murr.),
Dev. Food Sci.40
(1998) 345-52
20-
Q. Liu, J. Zhou, Z. Mandan, Y. Zhu, W. Wenyi,
Component analysis of
aroma from durian, Fenxi Ceshi Xuebao (2)
18 (1999) 58-60
21-
S.R. Eni, Summarno, Fatty acid content in durian (Durio zibethinus Murr.)
seed,
Majalah Farmasi Indonesia
(2) 12 (2001) 66-72
22-
V. Lipipun, N. Nantawanit, S. Pongsamart,
Antimicrobial activity (in
vitro) of polysaccaride gel from durian fruit-hulls,
Songklanakarin
J. Sci. Techn .(1)
24 (2002) 31-8
23-
S. Pongsamart,
Polysaccharide products from durian : process for isolation
and purification and their applications,
U.S. Pat. Appl. Publ.US
2003166608 A1 20030904 (2003) 4 tr.
24-
S. Pongsamart et all., Water-soluble polysaccharides with pharmaceutical
importance from durian rinds (Durio Ziberthinus Murr.) UK Carbohydrate
Polymers
(4)56 (2004) 471-8 |