Bắp
non nay đã trổ cờ
Gặp
người quen biết ngó lơ không chào.
Ca
dao
Tôi
chắc từ nhỏ, trẻ em ở vùng nào trong nước ta cũng đã
từng chạy theo những trái bắp nướng trên than hoặc chỉ
nấu trong nước. Nướng hay nấu, bắp có trạng thái đặc
cứng khác nhau, mùi vị riêng biệt của một thức ăn điền
dã mà chắc lớn lên mấy ai quên được. Có nơi ăn bắp non
với mỡ hành. Có người nghiền thành bột làm bánh tráng,
khi nướng thơm phứt. Tôi thì nhớ mãi chén chè bắp mềm
ngọt mà mỗi khi học xa về, mạ tôi để dành cho một vài
chén bù vào những miếng cơm độn bắp già cứng nhắc những
năm 40, nhai mãi không nuốt được.... Tuy vậy, được mùa
chớ phụ bắp khoai, dân ta đã từng biết đói, đâu có quên
ơn thức ăn những ngày khó khăn.
Chữ
bắp chỉ được thông dụng trong Nam. Ở ngoài Bắc, người
ta thường dùng chữ ngô. Vậy thì bắp hay ngô ? Dược sĩ
Bùi Kim Tùng giải thích : "Vào thế kỷ thứ 16, vua Lê cử
ông Phùng Khắc Khoan (tức Trạng Bùng là tên nôm làng Phùng
Xá) đi sứ sang Trung Quốc (1597, nhà Minh). Ông Trạng Bùng thấy
dân Trung Quốc trồng một loại lương thực lạ có hạt tròn
bóng như ngọc gọi là ngọc mễ. Ông Trạng Bùng bèn ra lệnh
lén lút đem hạt giống về nước. Vì thế ngọc mễ được
gọi là hạt ngô (nước Ngô thuộc Trung Quốc). Tới thời
Ngô Quyền, người ta kiêng chữ ngô nên gọi là bắp" (BKT).
Chắc là có ai trước ông Trạng Bùng đem ngô về nước vì
Ngô Quyền trị vì giữa thế kỷ 10 ! Hay là muốn tránh tên
một ông Ngô nào đó sau thế kỷ 16. Theo Lê Quý Đôn trong
Vân
đài loại ngữ thì "hồi đầu Khang Hy (1662-1762), Trần
Thế Vinh, người huyện Tiên Phong (Sơn Tây, phủ Quảng Oai)
sang sứ nhà Thanh, mới lấy được giống lúa ngô đem về
nước ; suốt cả hạt Sơn Tây, nhờ có lúa ngô thay cho cơm
gạo". Thuyết nầy dời lại ít lâu cuộc nhập tịch ngô vào
Việt Nam nhưng cũng không giải thích tại sao ngô lại được
gọi là bắp. Người Minh thấy cây ngô giống cây thục thử
(cây kê nước Thục) hay cây "cao lương" nên gọi nó là "ngọc
thục thử" vì hạt như hạt ngọc. Sách Bản thảo cương
mục đã tả nó như cây Ý dĩ, có râu trắng trên cái bọng
giữa cây, bọng nứt thi lòi hạt ra, chi chít sắc vàng, trắng,
đen, rang lên ăn điều trung khai vị (hòa ở trong mình, làm
cho muốn ăn). Lê Quý Đôn đặt tên nó là "Ngô hòa" hay "lúa
Ngô". Sách
Đại Nam nhất thống chí nói nó đem từ Tây
Phiên (các nước Phiên ở phương Tây) đến nên có tên "Phiên
mạch", cho biết Trịnh Hoài Đức trong Gia Định thành thông
chí đặt tên "hoàng mạch" hay "hoàng thúc" (thúc là một
loại hạt nhỏ như hạt đậu) và gọi nó "ngọc cao lương"
tục danh "lúa bắp", không nói đến tên "lúa ngô". Có thể
giản tiện giải thích gọi là bắp vì hình trái giống cái
bắp như bắp cày, bắp chuối, bắp cải, bắp tay, bắp chân
....
(5)
Dù
sao có thể hiểu bắp là từ Trung Quốc mà qua nước ta. Nhưng
chưa biết bắp từ đâu được đem sang Trung Quốc. Rất có
thể những người Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha mang nó từ Nam Mỹ
trước về Âu châu, sau qua Phi châu, Á châu. Ngày nay người
ta biết bắp là từ một giống mọc hoang được đem về trồng
và ghép lai từ hàng ngàn năm nay. Nó là thứ ngũ cốc được
chọn lựa, thí nghiệm, thay đổi tính di truyền nhiều nhất.
Sở dĩ nguồn gốc của nó được bàn cãi xôn xao vì một
đằng đó là một dịp cho các nhà di truyền học và thảo
mộc học khảo cứu sự hiện hình hiếm có của một giống
cây mới, đằng kia tìm hiểu cách trồng trọt và chọn giống
là học hỏi sự phát triển của một dân tộc. Đề tài nầy
tất nhiên huy động nhiều giới khảo cứu viên đủ ngành.
Từ cuối thế kỷ 19, nhà thảo mộc Thụy Sĩ Alphonse de Candolle
đã làm bản kê khai những vùng nguyên gốc cây được trồng.
Đầu thế kỷ 20, một nhà thảo mộc khác, Nicolai Ivanovitch
Vavilov, người Nga, chạy tìm khắp thế giới những cây có
ích trồng được. Chính ông đã hiểu nguồn gốc một cây
là nơi có nhiều cây ấy nhất và xác định bắp phải bắt
nguồn từ miền Trung Mỹ. Sau Vavilov, nhiều nhà thảo mộc
Hoa Kỳ lưu tâm đến đề tài nầy và đưa giả thuyết bắp
là từ giống hoang teosinte (từ tiếng Azteque teocentli)
tức Euclania mexicana, một cây rơm mọc ở Mexico, Guatemala,
Honduras mà lại (1). Vào giữa thế kỷ 20, nhà di truyền
học George Beadle, cộng tác với R.A. Emerson ở Viện Đại học
Cornell, cho giao hợp teosinte với bắp và đạt được nhiều
giống lai có khả năng sinh sản. Cũng vào thời ấy, Paul Mangelsdorf,
ở Viện Đại học Chapel Hill (North Carolina), cho bắp quá khác
teosinte
để có thể từ teosinte mà ra (2). Theo ông,
bắp phải bắt nguồn từ một giống hoang có hình thái giống
bắp hơn còn teosinte thì chỉ có thể là một cây lai
giữa bắp và một giống sơ khai gọi là Tropsacum. Lẽ
tất nhiên Beadle không đồng ý. Cuộc tranh luận bắt đầu
từ đây.
Không
bào chữa ngay giả thuyết teosinte, Beadle bỏ công khảo
cứu những quan hệ cơ bản giữa DNA và những protein mà kết
quả đưa ông đến giải Nobel sinh lý và y học năm 1958. Trong
lúc ấy, cộng tác với nhà khảo cổ học Richard McNeish, Mangelsdorf
chạy tìm những bằng chứng cho khẳng định của mình. McNeish
quan tâm đến nguồn gốc canh nông ở châu Mỹ và cuộc thăm
dò đã đưa ông đi lục soát những hang động, những hầm
trú ẩn trong hóc đá. Năm 1963, khám phá đặc sắc nhất của
ông tại Coxcatlan và San Marcos ở hai thung lũng Tehuacan và Oaxaca
là khoảng 100 mảnh bông bắp để lại từ năm 5600 trước
Công nguyên. Cạnh đấy, cũng ở miền Nam Mexico, thung lũng
Balsas thì lại cống hiến những mẫu hoang
teosinte. Theo
họ, rõ ràng bắp ngày xưa tuy nhỏ hơn bắp ngày nay, cả hai
giống nhau về mặt hình thái : trục (rachi) cứng mang
nhiều hàng hột, mày (glume) bao hột thì tương đối
mềm ; trái lại, trục teosinte mềm dẻo, chỉ mang hai
hàng hột, còn mày cứng giữ kỹ hột. Bên phần Beadle, vẫn
luôn trung thành với giả thuyết của mình, năm 1970, cộng
tác với những nhà sinh vật học, khảo cổ học và dân bản
xứ ở Mexico, ông mở chiến dịch "Săn tìm đột biến teosinte"
và thu lượm được 70 kg hột, không chứng minh được gì,
nhưng đem gieo và hợp giống những hột nầy với nhau, ông
phát minh ra chỉ có 5 gen thiết lập khác biệt hình thái giữa
teosinte
và bắp.
Trong
thập niên 80, John Doebley ở Viện Đại học Minnesota, khảo
cứu những biến thể trong bộ gen viên lục (chloroplaste)
của teosinte và bắp cùng những biến dị của hai giống,
xác nhận những kết luận của Beadle : quần thể teosinte
mọc trong thung lũng Balsas không khác gì bắp xứ Mexico. Ông
còn chứng minh
teosinte đem trồng đã cho hột vượt qua
được đấu (cupule) gắn nó vào trục và ra thoát khỏi
mày cứng cấm tù nó. Năm 1989, cộng tác với Austin Long ở
Viện Đại học Arizona, Bruce Benz ở Viện Đại học Wesleyan
(Texas), ông bỏ công tìm kiếm những bằng chứng cho cuộc
thuần dưỡng
teosinte về mặt khảo cổ học : họ chỉ
tìm ra được những mẫu bắp xưa 3500 năm trước Công nguyên,
nghĩa là 2000 năm sau những mẫu của McNeish và nghi hoặc cách
định ngày của ông nầy. Nhưng đầu năm 2001, Dolores Piperno,
ở Viện Smithsonian, và Kent Flannery, ở Viện Đại học Michigan,
xác định được 3 mẫu bắp trong một hang động ở Guila
Naquitz, thung lũng Oaxaca, sống 4250 năm trước Công nguyên. Có
thể xem đây là những mẫu xưa nhất tìm được ở Nam Mỹ
(6).
Cuộc tranh cãi kéo dài rất lâu, hiện chưa ngã ngũ rõ ràng
tuy giả thuyết
teosinte có phần thắng thế. Beadle vượt
ra khỏi những bằng chứng khoa học, còn cống hiến những
luận chứng về ngôn ngữ, tập quán : teocentli
có nghĩa
là "bông bắp của thượng đế" chứng minh người Azteque thấy
có liên quan giữa teosinte và bắp. Đằng khác, ở nhiều
nơi trong nước Mexico, teosinte được gọi là
madre de maiz
nghĩa
là "mẹ của bắp", nói lên ký ức văn hóa của ngưới dân
bản xứ.
Ngoài
phẩm chất dinh dưỡng, bắp sấy khô dễ chuyên chở và tích
trữ lâu ngày. Nhờ nó mà những dân tộc Asteque, Maya, Inca,....
lập nên được sự nghiệp to lớn vào những thế kỷ XIV,
XV trước khi người Tây Ban Nha bước chân lên đất Nam Mỹ.
Những kim tự tháp của người Maya ở Yucatan, những bức tường
khổng lồ của dân Inca ở thành Cuzco,.... đang còn đó để
chứng minh bắp thịt cứng rắn của những người ăn bắp.
Trong danh sách triều cống dâng cho vị vua Azteque cuối cùng
Montezuma, thấy có quy định số bắp hằng năm 20 tỉnh trong
vương quốc phải nộp là 300.000 thưng. Thổ dân có thể nhập
cảng bắp từ miền Nam Mexico rồi cho thích nghi vào thủy thổ
những vùng ôn đới, nhiệt đới ở Nam Mỹ. Vẫn biết những
phương pháp chọn lựa, ghép lai hiện đại ngày nay đã tạo
ra những loại bắp với năng suất vô cùng cao, thích hợp
với đủ loại khí hậu, chống chỏi được nhiều bệnh tật
cũng như sâu bọ, cuộc sáng tạo những mẫu bắp trồng với
những kỹ thuật thô sơ của thổ dân châu Mỹ trước đây
quả là một thành công xuất chúng của con người trong công
cuộc thích ứng đời sống với thiên nhiên. Chọn cây hoang
đem về trồng rồi cải tạo cho nó đem lại nhiều năng suất
chứng minh lương tri con người : từ cuộc sống săn-hái qua
canh nông có tổ chức là một bước lớn của nhân loại,
m†i nơi trên hoàn cầu.
Trên
thế giới ngày nay, với số lượng sản xuất hằng năm khoảng
600 triệu tấn, trị giá trên 50 tỷ USD/Euro, bắp là tài nguyên
canh nông sắp hạng nhì sau lúa mì. Trực tiếp hay gián tiếp
nuôi 15-20% nhân loại, nó được trồng trong 70 nước, chiếm
hơn 120 triệu ha, từ những nơi cao độ thấp như quanh biển
Caspienne đến những vùng đồi núi vượt quá 4.000m trong dãy
núi Andes, từ những nơi bán-khô (lượng mưa dưới 400mm) như
Trung Mỹ đến những vùng ẩm ướt (lượng mưa trên 2.000mm)
như Đông Nam Á. Sau cách thức thô sơ chọn lựa bông bắp
theo những chỉ tiêu hình thái hay sinh vật học, dễ thực
hiện nhưng ít có hiệu quả, ngày nay nhiều phương pháp tối
tân hơn đã được sử dụng. Chẳng hạn phương pháp "bông
gieo theo hàng" (épi à la ligne) dựa lên kết quả cây
bắp thế hệ sau, sau hơn một thế kỷ thực nghiệm đã làm
tăng dầu trong bắp từ 4,5 lên 16,6%, protein từ 10,9 lên 26,6%.
Tiếp sau là các cuộc chọn lựa "quặc ngược lũy tích" (récurrente
cumulative) nhắm đạt một giống lai ưu thế (heterosis),
những phương pháp "tạp giao đỉnh ngọn" (top-cross),
"tạp giao thuận nghịch" (croisement diallèle) cho giao phối
nhiều mẫu hòng cải thiện với những tính chất hay ho ở
các mẫu khác, đưa đến những loại bắp dễ thích nghi với
khí hậu hay biết chống lại được bệnh tật như chứng
làm khô lá (minthosporiose).... Sau 20 thế hệ, nhiều phối
hợp đã cho đạt đến 15.000 bắp lai đơn, đôi hay ba tùy
theo đã dùng hai, ba hay bốn giống. Trong tương lai dần dần
những cuộc hợp lai đều được thực nghiệm trong phòng thí
nghiệm. Muốn đạt được một mẫu có có đủ điều kiện
đem ra trồng, phải thử nghiệm khoảng 10.000 cuộc hợp lai.
Có điều là ngày nay, người ta không chỉ bằng lòng với
một cuộc chọn lọc hay hợp lai. Để hạ bớt số thực nghiệm,
nhiều phương hướng mới đang được khảo sát : sớm dò
giống lai ưu thế để hướng dẫn các mẫu, nuôi trồng viên
lục nhiều loài để cho hợp với nhau như táo với lê hay
cà chua với khoai...., lai giống khác loài như với bắp khác
xứ hay teosinte với bắp, phát sinh đột biến với hoá chất
hay tia gamma,.... và vận động di truyền (4) .
Trong
mục đích chống sâu bọ, tăng năng suất, người ta thực
hiện những cuộc chuyển đổi di truyền. Loại bắp Novartis
chẳng hạn mang thêm trong cây một gen lấy từ vi khuẩn Bacillus
thuringiensis, có khả năng sản sinh một độc tố. Độc
tố nầy là một chất sát trùng sinh hóa học, có khả năng
tiêu diệt bướm ống (pyrale) thuộc một loại sâu cánh
phấn (lepidoptere) mà ấu trùng ăn hại bắp. Lợi ích
loại bắp nầy là tự nó chống lại sâu bọ, không cần dùng
thuốc trừ sâu hóa học. Mới xem thì thấy phương pháp thần
hiệu nầy thật là sạch sẽ đối với môi trường sinh thái.
Trong thực tế, cây có gen mới nầy có thể ghép lai với những
loại cỏ hoang dại cùng loại và cho phát sinh những cỏ hoang
biết chống lại sâu bọ. Điển hình là trường hợp cây
cải dầu (colza) mang gen khử trùng, nó bất thường ghép lai
với cỏ hoang như củ cải dại (ravenelle), truyền cho cỏ nầy
tính chất khử trùng và cỏ mặc sức mọc, lấn áp cả cải
dầu ! Vẫn biết bắp không ghép lai với bất cứ một loại
cây nào khác mà chọn những cây có bộ gen gần giống nó.
Đây là lời cảnh cáo cho hội đồng ban giấy phép vì hiện
có bốn mẫu ngoài Novartis đang chờ đợi được khai thác.
Ngày nay ở Pháp, cây cải dầu mang gen chưa được ban giấy
phép cũng như cây củ cải đường mang gen vì thấy nó phối
hợp với một loại củ cải đường hoang gọi là củ cải
đường biển. Câu hỏi là liệu những dữ kiện khoa học,
kỹ thuật có vượt trội lên trên những lợi tức kinh tế
không ?
Bắp
hay ngô còn được gọi má khẩu lý (Thái), hờ bo
(Ba Na), mang tên khoa học Zea mays L., thuộc họ Lúa
Poaceae
hay
Gramineae. Anh, Pháp thường gọi nó là mais từ danh
từ xưa maiz, người Mỹ có tên corn. Nó là một
cây trồng khắp nơi, chỉ sống một năm, cao 1-2 m, lá mọc
so le, hình dải, dài, hoa đơn tính cùng gốc : hoa đực nhỏ,
mọc thành bông ở ngọn, hoa cái mọc sít nhau, được nhiều
lá bắc to bao, vòi nhụy dài, quả dĩnh, hạt nhiều, xếp thành
hàng. Mùa hoa quả nằm vào tháng 4-6, hoặc tùy thuộc vào mùa
gieo trồng trong năm (VDL). Ở Việt Nam ta, bắp là một cây
lương thực trồng rất phổ biến, nhiều nhất ở miền núi.
Hột bắp nếu không nướng, nấu để ăn, thì dùng để nấu
rượu, làm tương, thân lá tươi làm thức ăn cho súc vật
(LTĐ). Có nhiều loại bắp, thường được xếp theo hạng
bắp tè (trắng, mềm), bắp nhỏ (ít tinh bột, ăn cả lõi
như rau), bắp nếp (dẻo hạt), bắp vàng (hạt cứng nhưng
sản lượng cao nên dùng cho gia súc). Hột bắp nấu lâu thì
bung ra nên gọi là bắp bung. Bắp bung, xôi nếp, hành phi, bột
đậu xanh hấp hợp nhau lại thành xôi lúa là một thức ăn
bình dân, thông dụng mà thơm ngon, hấp dẫn lại thêm bổ
sức vì chứa đựng nhiều glucid và protein. Nung hột bắp trong
hộp kín lên nhiệt độ cao rồi mở nắp lanh khiến áp suất
thay đổi đột ngột, nó vừa bung vừa nổ nên gọi là bắp
nổ, còn có tên bỏng bắp tức popcorn của người Mỹ
(BKT).
Hột
bắp chứa flagellat, abscisin, (%) protein (7-12) cùng lysin (1,8-4,45)
và tryptophan (0,4-1,0). Phần chính protein-polysaccharid trong vỏ
hột là hydroxyprolin và những amin acid : serin, threonin. Lá và
hột bắp nẩy mầm chứa indol butyric acid nội sinh ở dạng
tự do hay ester. Octenol là chất được tìm ra trước nhất
trong số những chất dễ bốc hơi của bắp dự trữ. Phấn
hoa chứa những flavonoid như isohamnetin, quercetin và quercetin-3-glycosid,
một trong những flavonol có nhiều nhất trong các tổ chức
cây cỏ. Phần chiết đầu nhụy chứa đựng mazenic acid (2-2,5%)
bên cạnh hai phytosterol là sitosterol và stigmasterol dưới dạng
acetat. Đầu nhụy và vòi nhụy đem chiết rượu thì có được
2,05-2,97% flavonoid, dưới dạng glycosid, hai sapogenin là sitosterol,
oleanic acid và chất đường trong phần saponin là rhamnose. Thân
bắp ủ chứa (g/kg) cellulose (193-238), lignin (8-29), protein và
amin acid : lysin, arginin, leucin, proilin, glutamic acid. Đường trong
hemicellulose nhiều nhất là (g/g) xylose bên cạnh arabinose (0,17),
galactose (0,06) và mannose (0,01). Cám bắp chứa đựng (%) nhiều
phenolic acid (4), gồm có phần lớn ferulic và diferulic acid, heteroxylan
(50) bên cạnh cellulose (20). Dầu hột bắp chứa tocopherol, sitosterol
và propyl gallat. Trong mầm bắp thì chỉ có tocopherol. Carotenoid
trong bắp là zeaxanthin, thành phần điểm vàng ở võng mạc,
có nhiệm vụ che chở chống những gốc tự do của oxy phát
xuất từ ánh sáng. Phần chiết ether dầu hỏa phát hiện provitamin
A. Khoáng chất, kim loại trong bắp là Na, K, Mg, Ca, Fe, P, S và
Cl.
Nhờ
tính chất ức chế protease, bắp cũng như đậu, gạo, có khả
năng ngăn chận ung thư vú, da, ruột kết ở thú vật và một
cuộc khảo cứu dịch tể học cho thấy thức ăn gồm nhiều
loại ngũ cốc nầy giảm hạ ung thư vú, tiền liệt, ruột
kết con người
(9). Phần chiết hột bắp với ethanol
có tính chất chống vi khuẩn, kháng cự Staphylococcus aureus(10).
Người Tàu ngâm hột bắp (cũng như gạo, đậu, lúa miến,
khoai lang,....) trong nước cây (táo, đào, thơm,....) và cho lên
men để chế rượu bổ và thơm (16) hay giấm (14).
Họ cũng dùng vòi nhụy cho trộn với bột bầu bí, dâu tằm,
sinh địa, kỷ tử, cám mì, đại mạch, sơn dược, cỏ ngọt
cùng nhiều loại ngũ cốc.... để làm thuốc giảm đuờng
trong máu (12). Để chữa chứng viêm gan B và C, người
Nga đề nghị một hỗn hợp nhiều cây thuốc chứa lectin :
đầu nhụy bắp, lá hoa xôn, lá liễu rủ, lá hương phong,
lá bạc hà, hoa xu xi, bạc hà mèo (17). Ở Nam Mỹ,
vòi nhụy và đầu nhụy bắp, thường được gọi "pelos
de choclo" hay "barba de choclo", được đem sắc uống
làm thuốc thông tiểu tiện và chữa áp suất trước kinh nguyệt
(13).
Bên Iran, rau bắp được trộn với nhiều cây khác để uống
thải sỏi thận (18). Bột bắp được cho trộn với
đào gai, gừng khô, vỏ cam khô, kỷ tử thành thuốc cho vào
thức ăn bổ sức (15). Từ lâu, hột bắp cũng như
gạo, khoai, đã được dùng làm giấy vấn thuốc
(7).
Người ta cũng lấy dầu bắp chứa đựng chất diệt khuẩn
để dùng trong mỹ phẩm xà phòng cạo râu (8).
Trong
Đông y, râu bắp và ruột cây bắp vị ngọt, tính bình, có
tác dụng lợi tiểu, tiêu thủng, thông mật, cầm máu. Chữa
huyết áp cao : uống nước luộc bắp hằng ngày, mỗi ngày
2-3 lần, mỗi lần vài bát, uống liền 2-3 tháng. Chữa đái
đường : uống mỗi ngày 20-30g bột mầm bắp khô trong nước
sắc đọt khoai lang đỏ hay hằng ngày ăn chè bắp sữa nấu
với củ mài, đồng thời ăn rau lang đỏ nấu canh. Chữa phù
thũng, viêm thận cấp, đái đỏ hay viêm gan tắc mật, đái
vàng và da vàng : 40g râu bắp, hay 150g ruột cây bắp sắc uống
(VDL). Mầm bắp sấy khô, tán bột, chứa đựng nhiều enzym
tiêu hóa, được dùng để trị các bệnh chậm tiêu, đầy
bụng, đi tiêu phân sống (BKT). Ngoài sitosterol, stigmasterol,
saponin, K (0,028g và 0,532g/20g), vitamin C, râu bắp chứa tới
1600 đơn vị sinh lý vitamin K nên có thể phối hợp nó với
sinh tố nầy để làm thuốc cầm máu. Để chữa những bệnh
về tim, đau thận, tê thấp, sỏi thận, viêm túi mật, viêm
gan với hiện tượng trở ngại bài tiết mật, có thể dùng
bắp dưới hình thức thuốc pha hoặc nấu sôi, hay chế thành
cao lỏng, mỗi ngày uống 2-3 lần, mỗi lần 30-40 giọt trước
bửa ăn (ĐTL). Không phải tình cờ mà Trường Đại học Tổng
hợp Hà Nội đã có đo lường protein và amin acid 16 loại bắp
để xác định giá trị sinh vật học của chúng
(11).
Bắp
không chỉ là cây lương thực ở nước ta mà còn lẫn lộn
với chuyện thần linh. Ai mà không biết sự tích cây nêu ngày
Tết. Thuở ma quỷ chiếm toàn mặt đất, dân chúng chạy cầu
cứu đức Phật. Ngài khuyên dân chúng thương lượng với
ma quỷ đổi một gánh bắp lấy một mảnh đất to bằng một
bóng áo. Thấy đòi hỏi không có gì lớn lao, ma quỷ đồng
ý. Phật liền bảo gài một cái áo trên đầu một cây tre
rồi vận thần thông cho tre vươn lên trên trời cao. Bóng áo
đổ xuống chiếm toàn mặt đất. Từ đấy ma quỷ hết còn
làm chủ trên mặt đất. Và cũng từ đấy, mỗi khi Tết đến,
dân chúng dựng cây nêu để cho ma quỷ khỏi về. Qua phần
văn nghệ, trong câu hò giả gạo ở Huế, bắp cũng là đề
tài để phe nữ thử tài phái nam : Trong trăm thứ bắp có
bắp chi là bắp không rang ? Và câu trả lời cũng láu lỉnh
không kém : Trong trăm thứ bắp, lắp bắp mồm, lắp bắp
miệng là bắp không rang.... Nhưng đối với người Huế
hay, nói chung, những người yêu Huế, hoa bắp là một trong
những hình ảnh Huế mà chàng thi sĩ đa tình Hàn Mặc Tử
đã gợi lên trong bài thơ Đây thôn Vỹ Dạ bất hủ
từ thuở tiền chiến :
Gió
theo lối gió, mây đường mây,
Dòng
nước buồn thiu, hoa bắp lay....
Nghiên
cứu và Phát triển 3(46)2004,
khoahoc.net
06.01.2005
Tham
khảo
1-
H.G. Wilkes, Teosinte : the closest relative of maize, The Bussey
Institution Of Harvard University (1967)
2-P.C.
Mangelsdorf,
Corn, its origin, evolution and improvement, Press
of Harvard University (1974)
3-G.
Beadle, L'origine du maïs, Pour la Science (3) (1980)
59-71
4-J.P.
Gay, Le mais, La Recherche 18 (1987) 459-66
5-
TÓ Am NguyÍn Toåi,
Cây lúa b¡p hay lúa ngô, Thông tin Khoa
h†c và Công nghŒ
22(4) (1998) 162-6
6-
Bruce Benz, La domestication du mais, La Recherche 348
(12) (2001) 25-29
7-
O.P. Kohre, Cigaret paper, DE 598550 19340613 (1934)
6-
Standard Branchs,Inc.,
Antiseptics, GB 423354 19350122 (1935)
9-
W. Troll, R. Wer,
Protease inhibitors : possible anticarcinogens inedible
seeds, Prostate4(4) (1983) 345-9
10-
C. Perez, C. Anesini,
Antibacterial activity of alimentary plants against
Staphylococcus aureus growth,
J. Chin. Med. 22(2) (1994)
169-74
11-
Khoi Bui Huy, M. Hidvegi, R. Lasztity, A. Salgo, L. Sarkadi, Biological
nutritive value of protein of Vietnamese maize varieties, Per. Polyt.
Chem. Eng.
38 (3-4) (1994) 209-17
12-
Y. Zhu, L. Zhou,
Hypoglycemic granules, Faming Zhuanli Shenqing
Gongkai Shuomingshu CN 1154857 A 19970723 (1997) 12tr.
13-
A. Sosa, R. de Ruiz, E.L. Rosa, M.del.R. Fusco, S.O. Ruiz, Flavonoids
and saponins from styles and stigmas of Zea mays L. (Gramineae), Acta
Farm. Bonaerense16(4) (1997) 215-8
14-
X. Li, Preparation of fruit vinegar, Faming Zhuanli Shenqing
Gongkai Shuomingshu CN 1180743 A 19980506 (1998) 9tr.
15-
K. Tang, Preparation of health food, Faming Zhuanli Shenqing
Gongkai Shuomingshu CN 1180495 A 19980506 (1998) 3tr.
16-
F. Sun, Fruit-grain wine, Faming Zhuanli Shenqing Gongkai Shuomingshu
CN 1267717 A 20000927 (2000) 3tr.
17-
A.A. Korsun, E.V. Korsun, E.N. Yagovdik-Telezhnaya, Agent for treatment
of viral hepatitis B and C and method of treatment, RUXXE7 RU
2185185 Cl 20020720 (2002)
18-
M. Al-Ali, S. Wahbi, H. Twaij, A. Al-Badr, Tribulus terrestris : preliminary
study of its diuretic and contractile effects and comparison with Zea mays,
J.
Ethnophar. 85(2-3) (2003) 257-60 |