Vườn
ai nắng ấm chan hoà
Hồn
tôi chợt nở nụ hoa bình thường
Chẳng
trà mi chẳng hải đường
Nửa
gần gũi lắm nửa đuờng rất xa.
Nguyễn
Đăng Trình
Trà
mi hay hải đường? Nếu ở trong nhiều nhà, đặc biệt ngoài
Bắc, trà mi và hải đường là hai cây hoàn toàn khác nhau,
ở nhiều nơi khác, hai cây nầy chưa được phân biệt rõ
ràng. Nói cho đúng, cây thường được trồng làm cây cảnh
gọi trà mi là "một cây gỗ nhỏ, dạng bùi, cành nhánh nhiều,
dài, xum xê. Lá mọc cách, nhẵn bóng, màu xanh đậm, mép có
răng nhỏ. Hoa đơn độc hay 2-3 chiếc ở đầu cành. Cánh hoa
chuyển tiếp từ cánh đài đến cánh tràng, mềm, xếp sát
nhau, từ màu trắng, hồng đến đỏ. Nhị rất nhiều. Hoa
nở vào dịp đầu xuân...." (TH). Lẫn lộn là tên các cây
nầy mặc dầu cánh hoa hải đường có phần dày mập hơn
cánh hoa trà mi. Thắc mắc, Giáo sư Vĩnh Sính (1),
nay đã mất, ở viện Đại học Alberta bên Canada, lục lọi
những câu trong Truyện Kiều phân biệt được hải đường
tức haitang của Trung Quốc, kaido của Nhật Bản
Hải
đường lả ngọn đông lân
Giọt
sương gieo nặng cành xuân la đà. (hàng 175-176)
Hải
đường mơn mởn cành tơ,
Ngày
xuân càng gió càng mưa càng nồng. (hàng 1283-1284)
và
trà mi tức shancha (sơn trà) của Trung Quốc, tsutaki
của
Nhật Bản
Tiếc
thay một đóa trà mi,
Con
ong đã tỏ đường đi lối về. (hàng 845-846)
Chim
hôm thoi thót về rừng,
Đóa
trà mi đã ngậm gương nửa vành. (hàng 1091-1092)
Theo
anh Sính, hoa trà mi của ta là camellia/camélia mà Tiên
Điền tiên sinh mượn hình tượng nhằm nói lên kiếp hồng
nhan trước những thử thách quá ư nghiệt ngã của số phận
khi định mệnh đã đưa đẩy Kiều vào tay của Mã Giám Sinh
và Sở Khanh - những kẻ "thương gì đến ngọc tiếc gì
đến hương". Còn hoa hải đường qua lời của Đường
Minh Hoàng hỏi Dương Quý Phi: "Hải đường thụy vị túc
da?" (Hải đường ngủ chưa đủ sao?) tiên sinh mượn nhằm
nói lên những nét yểu điệu gợi cảm của nàng Kiều qua
bóng dáng một Dương Quý Phi kiều diễm. Cũng theo anh, tên
khoa học của cây hải đường là
Malus spectabilis, tiếng
Anh gọi là flowering cherry-apple (hay
Chinese flowering apple,
hay Japanese flowering crab-apple và nhiều tên khác), tiếng
Pháp gọi là pommier sauvage. Gần đây những nhà khảo
cứu Trung Quốc đề nghị một số tên : Camellia sasanqua
là
Flowering
cherry, C. hiemalis là Small rose,
C. japonica là
Autumn peony, và một giống mới từ C. sasanqua là Mosaic
peony.
Trong
sách báo, tên cây hải đường có mặt trong cuốn Cây cỏ
miền Nam Việt Nam của Giáo sư Phạm Hoàng Hộ. Có thể
đã dựa theo pho Flore générale de l’Indochine, Giáo sư
đã gán tên khoa học Thea amplexicaulis Pitard cho hải đường,
nhưng trong bộ Cây cỏ Việt Nam, cũng cùng hình vẽ và
mô tả gần giống nhau, cây có tên khoa học Camellia amplexicaulis
(Pit.)
Coh-Swart (gần đây danh từ Camellia thường được dùng
thế Thea) không mang tên hải đường nữa mà là trà
hoa lá ôm và trong suốt bộ sách 6 cuốn không còn tìm ra tên
hải đường đâu nữa (PHH). Đằng khác, trong sách báo khoa
học thế giới mà tôi tìm đọc được, không thấy có khảo
cứu ba cây Malus spectabilis, Thea amplexicaulis và
Camellia
amplexicaulis. Dù sao, chắc chắn một điều là trà mi phải
mang tên chi khoa học Camellia
như Giáo sư Vĩnh Sính đã
đề nghị. Nhà vạn vật học Thụy Điển Carl von Linné (1707-1778)
đặt tên nầy năm 1753 để tỏ lòng biết ơn vị giáo sĩ
giòng Tên George Joseph Kamel đã có công mang hột từ Trung Quốc
về Âu châu cuối thế kỷ XVII.
Chi
Camellia
chắc
chắn rồi, bây giờ câu hỏi là loài Camellia
nào? Về
cây chè hay trà, Giáo sư Đỗ Tất Lợi chỉ kể một vài
Camellia
thuộc họ Chè
Theaceae : C. sinensis
O. Ktze (hay Thea
chinensis Seem) tức cây chè hay trà ;
C. sasanqua Thunb.
(hay T. sasanqua (Thunb.) Nois.) tức cây sở hay trà mai, trà
mai hoa ; C. oleosa
(Lour) Rehd (hay
Thea oleosa Lour,
C.
drupifera Lour) tức cây du trà, và một vài cây thuộc họ
Hoa hồng Rosaceae : Crataegus pinnatifida Bunge tức sơn
trà hay bắc sơn trà ; C. cuneata
Sieb.et Zucc., tức dã sơn
trà hay nam sơn trà (ĐTL). Giáo sư Phạm Hoàng Hộ kê đến
ít nhất cũng 30 Camellia
phần lớn mang tên hoa trà (gân,
gân có lông, sa, đồng, đuôi, dài, cám, nhụy ngắn, vàng,
vàng vàng, hoa vàng, lá ôm, trái mỏng, hấp trùng, san hô, Phamhoang,
Nhật, Đông Dương, Việt Nam,....) bên cạnh những
C. sasanqua
Thunb.
tức trà mai,C. oleifera
C. Abel tức du trà
còn gọi cây sở (PHH). Theo Nguyễn Duy Chính (2)
thì
một phần các
Camellia là sơn trà : Nhật Bản sơn trà
C. japonica, Vân Nam sơn trà
C. reticulata
Lindl., tây
nam sơn trà C. pitardii Cohen Stuart, Nộ Giang sơn trà
C.
saluenensis
Stapf ex Bean, Çông hồng sơn trà
C. hiemalis
Nakai,
ngoại trừ kim hoa trà C. petelotii Sealy, cúc trà
C. chrysantha
Tuyama,Mông
tự liên nhị trà C. forestii
Cohen Stuart. Không thấy nói
đến trà mi và hải đường. Danh từ trà mi chỉ được thấy
trong cuốn
Cây cảnh, hoa Việt Nam của Trần Hợp (Công
ty Phong lan Tp Hồ Chí Minh) với tên khoa học C. japonica Nois
(hay L.), thuộc họ Chè
Theaceae.
Theo tác giả nầy, chủng
có hoa đẹp hơn cả là var. flore-pleno Hort, cánh hoa kép
nhiều lớp xếp xoắn ốc. Người Nhật Bản gọi nó là tsubaki
và Giáo sư Phạm Hoàng Hộ trà hoa Nhật.
Trong
báo chí khoa học, một số cây Camellia
đã được khảo
cứu. Từ hột cây C. japonica, dùng rượu chiết xuất
được saponin, prosaponin, sapogenol, thủy phân đem lại những
chất đường arabinose, galactose, glucose, cùng tiglic acid, camellin,
những oligoglycosid có tính chất chống hấp thu alcool. Các nhà
dược lý học Nhật Bản còn trích từ hột cây 2 camelliin
cùng 3 camelliatanin và từ lá cây 2 camelliatanin. Nhưng lại các
nhà khảo cứu Hàn QuÓc ở Khoa Tài nguyên Y học Á Đông khám
phá ra camelliatanin H có tính chất ức chế hoạt động của
trùng HIV-1 PR với IC50 : 0,9 microM. Lá cây còn chứa
đựng nhiều catechol và ascorbic acid (mùa đông 127-211, mùa hè
0,29 mg%). Dầu hột cây C. japonica chứa đựng nhiều triterpen
alcool trong ấy 19 chất đã được xác định. Một nhóm khảo
cứu viên cũng ở Trường Khoa học Công nghệ, Viện Đại
học Tokyo, còn tìm ra được 27 triterpen alcool trong dầu hột
hai cây C. japonica và C. sasanqua. Một số lớn các
triperpen alcool nầy có tính chất kháng viêm (13). Từ
hoa cây C. japonica đã được xác định 3 flavonol, quercetin,
kaempferol, sexangularetin, 3 phenolic acid cùng spinasterol, stigmasterol,
một hỗn hợp 2 glucosid và một triterpen. Cánh hoa còn tươi
chứa đựng 2 terpen alcool, 2 sterol, 4 polyphenol, pectin, trisaccharid,
flavandiol trong cellulose, nhiều n-alcan, 2 tanin trong nụ hoa. Màu
sắc trong
C. japonica cũng như trong C. sasanqua là
từ những anthocyanin mà lại, ít nhất cũng 14 chất. Một cây
được sắp với
C. japonica vì mang tên Thea sinensis
japonica
đã được khảo cứu từ lâu.
Như
vừa thấy, cây trà mai, trà mai hoa C. sasanqua,
còn có
tên cây sở, người Nhật gọi C. sasanqua, cũng đã được
khảo cứu nhiều. Lá cây chứa đựng một glycosid là sasanquin
bên cạnh eugenol, glucose, xylose, acscorbic acid cùng một số carotenoid
(20,15 mg/100g) mà 83,6 % đã được xác định. Hai dimeric tanin
được tìm ra trong nụ hoa, theanin trong đọt, rễ, lá, mầm
cây, mất dần khi cây lớn lên như ở
C. japonica. Từ
hột cây đã được chiết xuất 3 sapogenin, 2 sapogenol, 3 theasapogenil,
barrigenol, hydroxyerythrodiol, sasanqua saponin có tác dụng độc
lên thỏ LD50 : 0,25 ppm. Bên phần hột cây C. oleosa
mà
Giáo sư Đỗ Tất Lợi gọi là du trà, thì được chiết xuất
với nhiều dung dịch để lấy saponin : hỗn hợp butanol-nước
(14,7%) tốt hơn nước một mình (7,7%) . Còn cây C. druppifera
mà
Giáo sư Đỗ Tất Lợi cũng gọi du trà nhưng mang tên trà có
nhân theo Giáo sư Phạm Hoàng Hộ, thì được học hỏi từ
cuối thế chiến thứ nhất và kết quả đăng trong báo Kinh
tế Đông Dương : ép hột cây thành dầu trong, vàng, vị ngọt
dễ chịu, chứa đựng acid béo (93,79%) và oleic acid (1,36%),
không có alcaloid và các chất cyanogen nhưng chút ít glucosid
saponin, có thể dùng làm xà phòng và, sau khi loại saponin, làm
dầu ăn ; cặn bả còn lại có thể làm phân bón và nhờ chứa
đựng saponin, nó rất độc cho ấu trùng sâu bọ (TH).
Về
mặt dược liệu, sasanquol, một chất triterpen lấy từ tinh
dầu ra, có tính chất chống viêm (17). Cũng thử trên
chuột, sasanqua saponin có tính chất bảo vệ cơ tim bị thiếu
máu cục bộ nguyên do thiếu oxi-mô/tái oxi hóa (20)
hay isoproterenol (24) gây ra isoproterenol
(24).
Nhiều tannin, đặc biệt camelliin, có khả năng ức chế hiệu
ứng bệnh học tế bào do trùng HIV gây ra (EC50 : 4,8-11,8
microg/ml). Còn gemin thì tỏ ra có hoạt động kháng VIH (EC50
: 2,0 g/ml ) (10). Lá cây đã được nghiền thành bột,
chiết xuất với nhiều dung dịch hữu cơ để dùng làm thuốc
khử mùi trong nhà. Dầu sasanqua được dùng làm thuốc tẩy
(8)
hay trong các hỗn hợp bảo vệ da (7). Sasanqua saponin
(25%) đem trộn với nicotin (2%) thuốc lá thành hỗn hợp dùng
để trừ rệp (LD50 : 13,16 microg/ml ; LD90
: 62,25 microg/ml), hiệu nghiệm trên 85% (11). Saponin
được dùng làm thuốc khử trùng (25). Từ saponin
nầy lại trích ra được camelliagenin dùng để loại cá bống
trắng, cá vây gai trong các ao nuôi tôm hay để đuổi ruồi
cùng nhiều loại sâu bọ trong nhà (15). Ở Việt Nam,
hột cây đã được khảo cứu để tìm protein và amin acid
(5),
acid béo trong hột cây hoang
(6). Lá cây bên ta cũng
được xem như là một nguồn eugenol (95-97% tinh dầu), nhưng
kết quả khảo sát qua ba mùa thu, đông, xuân là số lượng
khá nhỏ (0,0026%) và eugenol không được tìm ra trong thời gian
cây lớn lên, trái lại hoá chất chính là linalool (37,12-48,82%)
(I2).
Hai
cây sơn trà không thuộc chi Camellia, thường được gọi
là hawthorn, cũng đã được khảo cứu : cây nam sơn trà
Crataegus
cuneata Sieb. et Zucc., còn được gọi red haws,
thorn
apple hay Japanese hawthorn, được thấy nhiều hơn cây
bắc sơn trà C. pinnatifada Bunge, còn được gọi
Chinese
hawthorn trong các bản báo cáo. Lấy ether chiết xuất C.
cuneata thì được ursulic acid. Trái cây chứa đựng một
triterpenoid: cuneatol. Trong lá cây non có một glycosid loại prunasin.
Ba flavonoid (vitaxin, rutin, hyperosid) đã được xác định trong
cả hai cây Crataegus
bên cạnh 4 acid hữu cơ : tartaric,
malic, citric và succinic acid. Cả hai cây, nhất là C. pinnatifada,
nhờ
vậy, được dùng để phòng ngừa và chữa những chứng tim
mạch. Một phương pháp phân tách dựa lên sắc phân với nhựa
Amberlite XAD-2 và một hệ thống dung dịch tách rửa ethanol-nước
phát hiện đến 56 flavonoid. Cây C. cuneata giàu ascorbic
acid lại chứa đựng một enzym ức chế hoạt động khử oxi
của acid ấy. Nó cũng là một cây thuốc rất hiệu nghiệm:
dùng nước nóng pha NaOH chiết xuất thì được một dung dịch
nồng độ lớn natri ascorbat rất độc cho ung thư biểu mô
có vảy da tế bào khối u tuyến nước bọt con người vì
có khả năng phá hủy những superoxid anion và những gốc hydroxyl.
Môn học cổ truyền Trung Quốc còn dùng nó sắc uống chữa
bệnh tăng lipid huyết. Hai văn bằng sáng chế dùng trái cây
trong một hỗn hợp đễ chữa bệnh nghiện ma túy (4)
hay để làm giấm (19). Trái cây cũng đã được dùng
làm chất lợi tiểu, làm tiêu hoá, chữa những chứng ở ruột
(18).
Trong đời sống hằng ngày, C. cuneata được dùng trong
mỹ phẩm bảo vệ da (9,11,16,23), kích thích tóc mọc
(21,22)
cũng như C. pinnatifida
(26). Cây bắc sơn trà
nầy chứa đựng (%) flavon (3,12-3,43), ursulic acid (0,470-0,563),
đường (17,38-21,43) và (ppm) Cu (16,04), Na (11,54), Zn (12,01), Fe
(126,0) và P (695,2).
Bên
ta, trong dân gian, cây sở hay trà mai cũng có công dụng. Dầu
sở được dùng làm thực phẩm, nấu xà phòng, thắp đèn,
chữa ghẻ lở. Khô sở dùng làm phân bón, thuốc trừ sán,
trừ giun đất; không thể dùng cho súc vật ăn đuợc vì có
độc. Bó gảy xương : lá sở 50g, lá náng 50g, hai thứ giã
nhỏ, đắp và bó. Bên phần cây sơn trà (hoa, quả, lá) Tây
y coi là một vị thuốc chủ yếu tác dụng trên tuần hoàn
(tim và mạch máu) và giảm đau an thần. Đông y lại coi sơn
trà là một vị thuốc chủ yếu trên bộ máy tiêu hóa. Theo
tài liệu cổ, sơn trà có vị chua, ngọt, tính ôn hòa vào
ba vị kinh tỳ và can, tiêu được các thứ thịt tích trong
bụng,
phá được hành khí, hành ứ hóa đờm rãi, giải được độc
cá, lở sơn, chữa tả lỵ, trị tích khối, huyết khối, giảm
đau..... Liều dùng trong Đông y: ngày uống 3-10g dưới dạng
thuốc sắc, uống một vị hoặc phối hợp v§i các vị thuốc
khác. Tây y dùng dưới dạng cao lỏng (ngày uống 2-4 lần trước
bửa ăn, mỗi lần 20-30 giọt) hoặc cồn thuốc (ngày uống
3-4 lần, mỗi lần 20-30 giọt) để chữa các bệnh về tim
mạch, cao huyết áp và giảm đau (ĐTL). Thì ra ông cha ta, tuy
không khảo cứu khoa học tuờng tận, đã có nhiều kiến thức
về các cây thuốc nầy.
Ở
Paris, mùa xuân năm nay, tôi đã cố ý đi khắp các vườn hoa,
công viên tìm xem các loại mà người Pháp gọi là camélia.
Hoa nở màu hồng, màu đỏ, màu trắng lẫn lộn, có nhụy
vàng lớn hay nhỏ hay không có nhụy, cánh hoa nhiều lớp xếp
sát nhau hay xếp xoắn ốc. Một điều đáng chú ý là các
cánh hoa đều mỏng, đặc tính của hoa trà mi. Thành thử tôi
không tìm ra được một loại hoa có thể cho là hải đường.
Về Huế thì không đúng mùa, tôi chỉ được ngắm hoa hải
đường còn búp. Sau nầy còn phải tìm biết cho được cây
kim ty hải đường, không biết hình dáng ra sao? Nếu bạn ghé
Paris, có thể lên nghĩa địa Montmartre thắp một nén hương
trên mồ bà Alphonsine Plessis (1824-1847) đã từng được nhà
văn hào Alexandre Dumas fils (1824-1895) dùng làm mẫu cho người
kỹ nữ trong cuốn sách truyện La dame aux camélias (1848).
Tác giả giải thích đặt tên sách như vậy vì nhân vật bạc
mệnh rất yêu hoa camélia, ngay hôm gặp nhau lần đầu
nàng Marguerite đã tặng chàng Armand một đóa và bắt hứa
ngày mai phải đem trả lại khi hoa tàn, nên một đóa hoa camélia
trắng đã được cài lên hình bà Alphonsine Plessis đính trước
thành mộ, mong ký ức hồng nhan được tồn tại đời đời.
Nghiên
cứu và Phát triển 2 (55) 2006, khoahoc.net 12.2007
Tham
khảo
1- Vïnh Sính,
Hải
đường là ngọn đông lân, Diễn Đàn,
Paris
133(10)
(2003) 45-6
2- Nguyễn
Duy Chính, Sơn trà, Nghiên cứu và Phát triển, Huế
4-5 (52-53) (2005) 100-12
3- Bouvelot,
Contribution
to the chemical study of the fruit of Camellia drupifera,
Bull.
Econ. Indochine 21 (1918) 232-4
4- B.W. Wu,
S.P. Lee, Anti-narcotic medicine, Brit GB 1096708 (1967)
3 tr.
5- Duong Tan
Phuoc, H. Meier, W. Wiesemueller, Protein and amino acid content in
some extracted oilmeals of the Vietnam Democratic Republic,
Wissenschaftliche
Zeitschrift der Univ. Rostock, Math.-Naturw. Reihe
18(1/2) (Pt1)
(1969) 151-3
6- Cl. Franzke,
Duong Tan Phuoc, E. Hollstein, Fatty acid composition of seeds of wild-growing
oil plants of Vietnam, Fette, Seifen, Anstrichmittel
73(10)
(1971) 639-42
7- M. Aizawa,
K. Senoo, K. Uehara, Skin preparation containing drying-semidrying oils,
Jpn.
Kokai Tokkyo Koho JP 61207313 (1986) 8 tr.
8- J. Liu,
et al., Household synthetic detergent and its production,
Faming
Zhuanli Shenqing Gongkai Shuomingshu CN 1048884 (1991) 6 tr.
9- C. Wananabe,
T. Kondo, Skin cosmetics containing kojic acid and plant extracts,
Jpn.
Kokai Tokkyo Koho JP 03193712 (1991) 7 tr.
10- T. Hatano,
L. Han, S. Taniguchi, T. Chou, T. Shingu, H. Sakagami, M. Takeda, H. Nakashima,
T. Murayama, et al., Anti-HIV tannins from Camellia japonica and related
plant species, Tennen Yuki Kagobutsu Toronkai Koen Yoshishu 34
(1992)
510-7
11- A. Asano,
A. Hayashi, S. Kuribayashi, K. Kaizu, Skin-lightening cosmetics containing
N,N’-diacetylcystinedimethyl and plant extracts,
Jpn. Kokai Tokkyo
Koho JP 06065045 (1994) 14 tr.
12- Nguyen
Thi Tam, Nguyen Trong Duong, Determination of eugenol from Camellia
leaves collected in some provinces of northern Vietnam,
Tap chi
Duoc hoc (5) (1994) 16-7
13- T. Akihisa,
K. Yasukawa, Y. Kimura, S.I. Takase, S. Yamanouchi, T. Tamura, Triterpene
alcohols from camellia and sasanqua oils and their anti-inflammatory effects,
Chem.
Pharm. Bull. 45(12) (1997) 2016-23
14- S. Hu,
W. Hu, K. Wang, Effectiveness of using 27% sasanqua saponin nicotine
soluble aquae concentrate as insecticide to control aphids,
Hunan
Shifan Daxue Ziran Kexue Xuebao 20(1) (1997) 63-7
15- X. Hou,
Q. Sun, S. You, G. Wang, J. Zhang, B. Su, S. Wang, Application of Camellia
oleosa seeds saponin, Faming Zhuanli Shenqing Gongkai Shuomingshu
CN
1191069 (1998) 7 tr.
16- M. Hayase,
Skin
conditioners containing urea, Jpn. Kokai Tokkyo Koho JP 10152428
(1998) 4 tr.
17- T. Akihisa,
K. Yasukawa, Y. Kimura, S. Yamanouchi, T. Tamura, Sasanquol, a 3,4-seco-triterpene
alcohol from sasanqua oil, and its anti-inflammatory effect, Phytochem.48(2)
(1998) 301-5
18- T. Okamura,
R. Akino, Y. Ohfuka, Induction of callus from Crataegus cuneata stems,
Mukogawa
Joshi Daigaku Kiyo, Shizen Kagaku-hen 47 (1999) 43-5
19- S. Wu,
Wild
haw vinegar and ist making process, Faming Zhuanli Shenqing Gongkai
Shuomingshu CN 1274749 (2000) 4 tr
20- P. Li,
M. He, Q. Huang, W. Peng, Protective effect of sasanquasaponin on anoxia/reoxygenation
injured rat myocardium and its mechanism of action, Zhoncaoyao 31(11)
(2000) 841-3
21- K. Suzuki,
K. Imamura, T. Okajima, F. Kimura, Hair growth stimulating compositions
containing minoxidil and plant extracts, Jpn. Kokai Tokkyo Koho
JP
2000204022 (2000) 5 tr.
22- H. Nishizawa,
T. Kono, Hair tonics containing hair growth stimulants and plant extracts,
Jpn.
Kokai Tokkyo Koho JP 20011089331 (2001) 15 tr
23- K. Hasegawa,
K. Sato, O. Ifuku, I. Yamamoto, Skin compositions having improved skin-whitening
effects and storage stability, Jpn. Kokai Tokkyo Koho JP 2001302525
(2001) 17 tr
24- Q. Huang,
S. Cao, M. He, P. Li, W. Peng, Protective effect and pharmacological
ischemic preconditioning of sasanqua saponin mediated by NO on intact rat
heart, Zhoncaoyao 32(1) (2001) 44-6
25- W. Cao,
L. Wu, X. Shi, B. Xei, Extraction and rafinement of Camellia oleosa
saponin with ultrafiltration membrane, Zhongguo Yopuzhi27(3)
(2002) 55-7
26- H. Kurita,
M. Nishito, H. Shimogaki, Gray hair-preventive agents and screening
method for hair-active ingredients, Jpn. Kokai Tokkyo Koho JP
200277531 (2003) 21 tr |