Ai
ơi chớ thấy nhỏ mà khinh
Châm
chích vào ai cũng giật mình.
Trướng
rũ màn che vô cũng lọt,
Năm
canh to nhỏ biết bao tình.
Thảo
Am
Sốt
rét là một trong những chứng bệnh lan tràn nhất thế giới.
Trung bình mỗi phút có hai con trẻ chết vì nó. Tính ra mỗi
năm, trên dưới một triệu người bị tử thần sốt rét
kéo đi. Từ châu Phi qua Nam Mỹ đến châu Á, hơn 2,2 tỷ người
(nghĩa là gần phân nửa nhân loại) luôn bị sốt rét đe dọa
hằng ngày. Tất cả bệnh nhân đều không chết hết nhưng
khoảng 100 triệu người luôn sống vất vưởng, cơ thể kiệt
quệ vì đau lên sốt xuống. Là một trong những chứng bệnh
ra
đời từ thuở tạo thiên lập địa, nó thường quấy nhiễu
ở những vùng đất đai ẩm ướt, bùn lầy (palud) hay
ở những nơi rừng núi chướng khí (mal area) cho nên
Âu Mỹ có những danh từ paludisme, malaria để chỉ chứng
bệnh.
Để
trị bệnh sốt rét, năm 1630 Don Francisco Lopez nghĩ tới dùng
vỏ cây quinquina và phải đợi gần 200 năm sau (1820) mới thấy
hai nhà hóa học Pháp, Joseph Pelletier và Joseph Caventou chiết
xuất hoạt chất quinin từ vỏ cây ấy. Tục truyền có bà
bá tước tên là Cinchon đã sắc vỏ cây làm thuốc chữa trị
thành công nhiều lần các cơn sốt, cho nên sau đó người
ta mới đặt tên Cinchona (họ Cà phê Rubiaceae) cho
cây, quinquina cho vỏ cây và quinin cho thuốc. Có ba loại cây:
cây đỏ C. succirubra Pavon chữa sốt, cây vàng C. calisaya
Wedd.
hay C. ledgeriana Moens để chiết xuất alcaloid, cây xám
C.
officinalis L. dùng chế rượu khai vị. Cùng với quinin, cây
còn chứa nhiều alcaloid (quinidin, cinchonin, cinchonidin,), nhiều
phytosterol (cinchol, cupreol, quebrachol), quinovin là một glucosic,
những quinic, quinotannic acid. Năm 1880, Alphonse Laveran, y sĩ quân
đội Pháp, lại phát hiện ra huyết trùng gây bệnh trong hồng
huyết cầu, sau nầy mang tên hematozoaire de Laveran. Từ 50 năm
nay, Tổ chức Sức khỏe Quốc tế OMS đặt mạnh chương trình
bài trừ sốt rét trên toàn thế giới, huy động nhiều lực
lượng và phương tiện, nhưng đến nay chưa diệt trừ được
chứng bệnh khủng khiếp kia. Ở các nước ôn đới, bệnh
đã thụt lùi rõ ràng, nhưng nó vẫn còn hoành hành dữ dội
ở các xứ nóng ấm, nhiều nhất là ở các nước thiếu vệ
sinh vì điều kiện kinh tế, xã hội trì trệ. Ở Việt Nam
ta, cuộc bài trừ sốt rét đã và đang được đặt ra, cần
thiết, cấp bách.
Đối
với con người, ký sinh sinh bệnh có ba loại chính: nhiều
nhất là Plasmodium vivax, nguy hiểm hơn là Plasmodium
falciparum, còn Plasmodium malariae thi tương đối hiếm
có. Những ký sinh nầy do muỗi chuyển qua cơ thể ta khi nó
chích đốt vào da thịt. Ký sinh chạy thẳng vào máu và sinh
nở trong nhiều hệ thống, cơ quan, đặt biệt ở gan. Một,
hai tuần sau, nó xâm nhập hồng huyết cầu (lúc ấy người
ta gọi nó là schizont) và tiếp tục sinh nở cho đến
lúc hồng huyết cầu vỡ tan. Chính lúc ấy cơ thể thấy ớn
lạnh, lên cơn sốt, toát mồ hôi. Những ký sinh vừa sinh ra
lại xông vào các huyết cầu khác và cứ mỗi chu kỳ hai,
ba ngày, tùy loại ký sinh, hồng huyết cầu lại bị vỡ và
cơn sốt lại nổi dậy. Có khi chu kỳ kéo dài ra, thấy như
bệnh đã thuyên giảm, thật ra nó vẫn còn tiềm tàng trong
cơ thể. ký sinh trong hồng huyết cầu có thể biến hóa thành
gametocyt dưới hai thể đực và cái, không có tác dụng gì.
Nhưng khi muỗi hút máu, gametocyt từ máu chuyển qua muỗi, chạy
thẳng vào dạ dày, biến thành gamet vừa đực vừa cái, cùng
nhau tạo ra trứng và ký sinh. Bắt đầu từ đây, muỗi có
thể truyền nhiễm.
Có
khoảng 70 loài muỗi có khả năng truyền bệnh, trong ấy nguy
hiểm nhất là loài muỗi Anopheles. Trước hết phải
kể hai con A. gambiae và A. funestus bên châu Phi. Ở
châu Á, đặc biệt ở Đông Dương, con A. minimus là một
địch thủ vô cùng ghê gớm. Nó rất yên lặng nhưng đốt
thì rất đau. Chỉ có muỗi cái đốt và nó chỉ đốt ban
đêm. Nếu muỗi đực chỉ biết thích hút ngụy hoa, sống
thảnh thơi với vài ba giọt nhựa thì muỗi cái cần có máu
sinh vật vì nó dùng protein máu đùm bọc ấp trứng. Ta có
thể độ lượng với muỗi cái vì nó lo chuyện bảo tồn
nòi giống! Vòi của nó gồm có hai ống: khi vòi chích vào
da thịt thì một ống thảy nước miếng đầy ký sinh vào
cơ thể con người trong khi ống kia hút máu và hút luôn cả
gametocyt
nếu nạn nhân đã nhiễm bệnh.
Hồi
nhỏ trẻ con nào cũng thường được nghe kể sự tích con
muỗi. Có một cặp vợ chồng rất thương yêu nhau nhưng một
ngày kia người vợ rủi ro từ trần. Người chồng đau đớn,
đưa thây vợ lên một chiếc đò chèo đi tìm thầy cứu chữa.
Lên một ngọn núi nọ, anh may mắn gặp được Nam cực tiên
ông, thấy anh thật thà ngay thẳng liền cho anh biết cách cứu
sống vợ : về chích đầu ngón tay cho giỏ vào miệng vợ
ba giọt tức thì vợ sẽ sống lại, và cũng có khuyên nếu
sau nầy vợ đối xử tàn tệ với anh thì đòi lại ba giọt
máu ấy. Anh về làm đúng lời tiên ông và vợ anh sống lại.
Hai vợ chồng lại vui vẻ sống với nhau nhưng không được
bao lâu thì cô vợ trở nên không đứng đắn, bội bạc bỏ
anh đi theo một ông triệu phú. Một hôm, không giằng lòng
được, anh đến gặp vợ đòi lại ba giọt máu như tiên ông
đã dặn. Cô vợ không còn biết tình nghĩa gì hết, nhanh nhẩu
trả lời: "Tưởng đòi gì chứ chỉ ba giọt máu thì đây
này ! " Nói xong cô vợ chích đầu ngón tay cho giỏ ra ba giọt
máu, tức thì nằm xuống chết ngay, biến thành một con muỗi
ngày đêm bay theo anh chồng để lấy lại cho được ba giọt
máu kia!
Nếu
người chồng kia chỉ bị một con muỗi độc nhất bay theo,
thường muỗi tấn công từng đoàn và việc làm cần thiết
trước tiên là phải kiếm cách diệt trừ chúng. Trong thập
niên 50, chất diệt trùng DDT (dichloro diphenyl trichloroethan) vừa
mới được tìm ra, đem lại cho nhân loại một mối hy vọng
tràn trề. Người ta phun thuốc lên rừng núi, ao hồ, ngay cả
vào nhà cửa, vườn tược, làm ô nhiễm đất đai, ruộng
nương không ít. Nhưng cũng nhờ vậy nhiều triệu người đã
được cứu vớt. Tuy nhiên khó khăn vẫn tồn tại: muỗi khôn
ngoan biết ngẫu biến để kháng cự lại chất thuốc diệt
trùng. Mặt khác, muốn tiêu diệt được nhiều muỗi cần
phải huy động nhiều nguồn lực, tốn kém ngân quỷ lớn
mà như đã thấy, bệnh phát triển ở các xứ nghèo đói,
thêm vào giặc giã, thiên tai thì lại càng thiếu phương tiện
chống đỡ.
Qua
những năm 70, lại xuất hiện một chướng ngại khác như
thể ông trời muốn thách thử con người: những ký sinh, P.
falciparum,
P. vivax, P. malariae, P. ovale đềukháng cự
lại được các thuốc thường được dùng nhiều nhất, loại
amino quinolein, đứng hàng đầu là chloroquin (tên thương mãi
: Nivaquine). Thuốc nầy chỉ còn hiệu nghiệm chống những
ký sinh ở Bắc Phi, Trung Mỹ nhưng hoàn toàn vô hiệu ở châu
Phi, châu Á, Nam Mỹ
(17). Ở những vùng muỗi chỉ
kháng cự ít chloroquin thì có thể dùng amodiaquin hay hỗn hợp
sulfadoxin-pyrimethamin, không thì phải bước qua các thuốc thế
hệ hai như halofantrin hay mefloquin (tên thương mãi Lariam). Được
bắt đầu dùng từ 1984, đắt tiền, liệu thuốc còn hiệu
nghiệm được bao lâu nữa? Rút cuộc, còn lại môn thuốc
cổ điển thời xưa: quinin. Nó luôn vẫn còn là một vị thuốc
mầu nhiệm, thường được dành cho những trường hợp bệnh
nặng. Nhưng quinin cần phải được tiêm vào tĩnh mạch ở
bệnh viện, mà đường sá xa xôi, lắm khi không có thì giờ
chuyên chở bệnh nhân đến nơi. Đó là tình trạng ở các
nước thế giới thứ ba. Vào những năm 1988-1989, bệnh sốt
rét phát triển cực độ. Hoảng hốt trước tình thế nghiêm
trọng, Cơ quan Quốc tế Sức khoẻ OMS triệu tập cấp tốc
hai hội thảo năm 1991 ở Dakar và New Delhi, một cuộc gặp
gỡ tháng tư năm sau ở Brazyl, và gần đây ở Amsterdam để
cùng nhau phát họa một chương trình rộng lớn, hầu mong giới
hạn phá phách của sốt rét, bảo vệ sức khỏe của hàng
triệu nhân sinh.
Chuyên
gia các nước đồng ý với nhau rằng song song với cuộc tìm
kiếm thuốc men mới, cần phải tổ chức những hệ thống
giám sát để kê khai những loại bệnh, xác định cơn dịch
ngay từ lúc đầu. Ở mỗi một địa điểm cần yếu phải
có dụng cụ đặc biệt để chẩn đoán (xem xét hình thể
schizont,
người ta có thể phân biệt được loại sốt rét) trước
khi quyết định một cuộc trị liệu cấp tốc và thích ứng.
Một điều đáng chú ý là phải chẩn đoán trước khi cho
uống bất cứ thuốc gì vì thuốc tạm thời có thể làm biến
mất schizont thì hết còn chẩn đoán được. Ở các nước
có gió mùa, cơn dịch thường bắt đầu vào mùa mưa, vậy
phải phòng ngừa dân cư vùng đó đúng lúc. Ở những nơi
mà bệnh có thể xảy ra thường xuyên, cần phải ngủ trong
mùng, nếu có thể cho tẩm thuốc diệt muỗi như pyrethre, một
hoá chất không độc cho người. Bên Trung Quốc, nhờ kỹ luật
khắt khe, số bệnh nhân từ ba triệu người những năm 80
đã xuống dần 117.000 năm 1990, mặc dầu một khó khăn khác
lại xuất hiện : mùng không thể ngăn chận được loài Anopheles
culcifae hoành hành vào lúc trời chạn vạn, chưa đến giờ
đi ngủ !
Vấn
đề môi sinh cũng rất quan trọng. Ở các đồng ruộng, có
nước tất có muỗi. Mà dân quê thì sống quanh đồng ruộng.
Đã thấy có đề nghị thả vi khuẩn hoặc nuôi cá ở đồng
ruộng để chúng tiêu diệt ấu trùng muỗi. Ở Sri Lanka có
thí nghiệm tát khô đồng ruộng vài giờ mỗi ngày để ấu
trùng chết đi. Điểm yếu là công lao và thời giờ bỏ vào
đó. Dù sao, những sáng kiến loại nầy có tính cách địa
phương và mỗi vùng, mỗi xứ phải kiếm cách chạy chữa
tùy theo khả năng của mình. Thành thử tường lũy cuối cùng
chống cự sốt rét vẫn là thuốc men. Thường thuốc chữa
trị sốt rét gồm có hai loại: hủy schizont hay diệt gametocyt.
Quinin thuộc loại thứ nhất. Tác dụng của nó rất lanh nhưng
chỉ trong thời gian ngắn, cho nên người ta thường dùng amino-4
quinolein hơn. Những chất tương tự amino-8 quinolein thuộc loại
thứ nhì. Khi cơn sốt hạ xuống thì phải kiếm cách chữa
trị làm sao cho cơn bệnh khỏi tái phát. Thường người ta
trở lại loại thứ nhất hay trộn lẫn với loại thứ nhì.
Nếu bệnh nhân vẫn còn ở trong vùng nhiễm bệnh thì cần
phải thường xuyên tiếp tục uống thuốc loại thứ nhất.
Ngay cả bệnh nhân dời đi ở vùng khác, an toàn hơn, cũng
cần tiếp tục uống thuốc phòng ngừa trong ít lâu nữa.
Trước
sự thiếu thốn thuốc men mới lạ, nhiều phòng thí nghiệm,
nhiều cơ quan trên thế giới nỗ lực tìm kiếm một chất
thuốc vừa hiệu nghiệm, vừa rẻ tiền vì dễ chế biến.
Thì đây, một vị thuốc mới đang được nói đến nhiều
những năm gần đây: mới vì cấu tạo khác với các thuốc
khác trước đây, từ đấy cơ chế tác động cũng khác. Đó
là một chất chiết xuất từ cây thanh cao, thanh cao hoa vàng
(LTĐ), thanh hao, thanh hao hoa vàng, thanh hảo (2) hay
thanh thảo tức hoàng hoa cao (LTĐ) , còn gọi
cây ngải (1), ngải hoa vàng (LTĐ) Artemisia annua
L,
thuộc họ Cúc Asteraceae hay Compositae. Người Trung
Quốc đã có ghi chép cây nầy để dùng chữa bệnh trĩ lậu
trong sách y khoa từ năm 168 trước công nguyên. Sau đó, nó
có mặt trong sách chữa bệnh cấp biến Trửu hậu bị cấp
phương xuất bản năm 340 sau công nguyên. Tác giả, Cát
Hồng, chỉ cách uống nước có ngâm lá cây thì làm thuyên
giảm được nhiệt độ trong cơ thể. Tuy vậy, cũng phải
đợi hơn 1000 năm sau (1596) mới thấy nhà chuyên môn về cỏ
thuốc Lý Thời Trân xác định trong cuốn vật liệu y khoa
Bản
thảo cương mục là cây Ginghao bài trừ được cơn nóng
lạnh (3). Năm 1798, trong cuốn
Ôn bệnh điều biện
bắt đầu có đề nghị dùng cây Ginghao sắc uống chữa sốt
rét. Ở Việt Nam cũng có cây thanh hao, lúc trước từng được
gọi cây nhân trầm hay chè nôi. Nó mọc hoang ở các vùng Cao
Bằng, Lạng Sơn, Tuyên Quang, thường được dùng để chữa
các bệnh ngoài da, khó tiêu hóa hay để giúp đàn bà ăn ngon
khi mới nằm nơi dậy. Hồi trước, tên thanh hao cũng còn chỉ
vài cây khác cùng họ : thanh cao rồng A. dracunculus L.,
thanh cao biển A. campestris L. hay A. maritima L., thanh
cao chỉ A. capillaris Thunb., thanh cao ấm lầy A. palustris,
thanh cao tay A. subbdigitata Mattf. Đặc biệt một loại
cỏ mọc hoang và được trồng nhiều ở miền Bắc nước
ta, được dùng để chữa bệnh mệt nhọc, kém ăn, thương
hàn, sốt do bệnh phổi, mồ hôi trộm là cũng được gọi
cây thanh cao, thanh hao hay thảo cao Artemisia apiacea
Hance.
Một cây thanh cao khác nữa khác họ là Baecka frutescens
L.,
mọc ở Phúc Yên, Thái Nguyên hay Nghệ Tĩnh, thường được
cho vào chum vại đựng đậu xanh hay quần áo để tránh sâu
bọ cắn hại ; trong dân gian thân cây được dùng làm chỗi
quét nhà nên nó được gọi cây chỗi xúi (ĐTL).
Thanh
hao là một cây nhỏ, cao vài chục phân, nhưng cũng có khi lên
đến gần hai thước. Năm 1971, các nhà khảo cứu Trung Quốc
dùng ethyl ether chiết xuất từ thân và lá cây (không có trong
rễ) một hóa chất, đem thử thì thấy có tác dụng lên ký
sinh sốt rét Plasmodium berghen. Họ đặt tên cho chất
thuốc là Ginghaosu (QHS) tức là hoạt chất của cây Ginghao
hay, có vẻ hóa học hơn, artemisinin là danh từ nay được quốc
tế dùng. Trong lúc tìm kiếm, họ đã khảo sát trên 30 loài
cây Artemisia khác mà chẳng thấy cây nào chứa đựng
QHS. Những nhà khảo cứu Hoa Kỳ cũng không tìm ra artesiminin
trong các cây A. dracunculus, A. ludoviciana, A. pontica, A. schmidviana,
A. vulgaris (6). Những nhà sinh y học Đức nghiên
cứu trên ba loài A. annua, A. apiacea, A. capillaris,
quê gốc đủ nơi, kết quả chỉ thấy có cây A. apiacea
mọc ở Nhật Bản (bên ta có tên thảo cao hay thanh cao ngò)
là có hoạt động chống sốt rét. Bên Mexico, tuy không tìm
ra được artemisinin trong cây, những nhà vi trùng học cũng
khám phá ra được phần chiết của A. ludoviciana mexicana
có tính chất hạ nhiệt, chống trùng Plasmodium yoelii yoelii,
với
LD50 29,2 mg/kg (20). Mặc dầu ít có chi tiết
về cách thức chế biến từ các phòng thí nghiệm Trung Quốc,
ngày nay người ta biết bên cạnh các dung dịch có thể chiết
xuất artemisinin như rượu, chloroform, aceton, hai dung dịch tương
đối dễ dùng và rẻ tiền là hexan (10) và petrolatum
(30-60 độ)(9). Báo chí gần đây có đưa ra tên hai
dung dịch propylenglycol và ethylenglycol, chất sau nầy có thể
độc cho cơ thể. Hóa chất thô được đưa vào cột sắc
ký silicagel, dùng hỗn hợp chloroform-ethylacetat kéo ra một hóa
chất ròng hơn (8). Lại cho vào cyclohexan hay hay rượu
50% thì artemisinin kết tinh thành hình mũi kim trắng tinh. Năng
suất chiết xuất theo các tác giả Tây phương là 0,06% (7),
trong khi các phòng thí nghiệm Trung Quốc đưa ra con số từ
0,01 đến 0,5%. Thật ra năng suất nầy còn tùy độ ròng của
hóa chất vì artemisinin lẫn lộn trong cây với một số terpen
và dẫn xuất khác như artemisiten, arteannuin, arteannuic acid, và
càng muốn một artemisinin tinh khiết thì năng suất lại càng
sụt xuống. Thấy năng suất thấp, các nhà hóa học ở hãng
Hoffmann la Roche đã kiếm cách tổng hợp QHS. Cuộc chế biến
nhân tạo nầy khá dài dòng (13 đợt phản ứng) với một
năng suất tổng quát tương đối lớn (5%) so với thành tích
các hóa sư Trung Quốc (0,24%) (11-14). Dù sao, cuộc
nhân tạo tổng hợp nầy chưa đưa ra phát triển trong kỹ
nghệ được. Ở Viện Đại học Buenos Aires một phương cách
trồng thanh hao và sinh học tổng hợp artemisinin mới đã được
thực hiện qua phương pháp cấy mô (18).
Cấu
tạo của artemisinin là một sesquiterpen lacton, đặc biệt có
mang bên trong một cầu peroxid. Khảo cứu liên quan cấu tạo
- hoạt động, người ta nhận thấy chính cái cầu nầy đã
là nòng cốt cho tính chất chống sốt rét của artemisinin.
Thật vậy, đem phá cái cầu ấy thành deoxy artemisinin thì hoạt
tính biến mất. Sau nầy, những dẫn xuất của artemisinin như
dihydro ether, ester, carbonat được chế biến luôn còn giữ cầu
peroxid thì đều là những thuốc chống sốt rét mãnh liệt
hơn cả artemisinin thiên nhiên. Nói chung, hoạt tính tăng theo
thứ tự
artemisinin
< dihydro artemisinin < ester < ether < carbonat
Carbonat
ít được dùng vì khó tổng hợp. Các ester thì phải chế
biến ra muối artesunat mới hòa tan được trong nước. Rút
cuộc hai ether được đem thử nhiều nhất là artemether tức
methyl ether (Trung Hoa) và arteether tức ethyl ether (chương trình
Liên Hiệp Quốc UNDP). Dựa vào tính chất hoạt động của
cầu peroxid, có phòng thí nghiệm đã tổng hợp những hoá
chất trioxan (nghĩa là một phân tử artemisinin không có vòng
lacton trong ấy cầu peroxid gồm có hai nguyên tử oxi vẫn còn
nằm trong một vòng đã có mang một oxi khác), nhưng kết quả
là chỉ có một số nhỏ có ít nhiều hoạt tính chống sốt
rét (14,16).
Trong
hầu hết các cuộc khảo cứu, artemisinin và các dẫn xuất
đều là thuốc thuộc loại thứ nhất nghĩa là hủy schizont.
Tuy vậy, cũng có công tác chứng minh QHS là một chất diệt
gametocyt(5),
chống ký sinh Plasmodium cynomolgi B trong muỗi
Anopheles
stephensi. So với chloroquin thì các chất artemisinin, artemether,
arteether có nửa liều gây chết LD50 tuơng đối lớn
hơn. Các thuốc nầy đã được đưa đem thử nghiệm lâm sàng
đầu tiên bên Trung Quốc từ những năm đầu thập niên 80,
sau đó khắp Đông Nam Á : Miến Điện (1987), Ấn Độ (1989),
Thái Lan (1991). Theo bà Vũ Thị Phan trong một bản báo cáo năm
1990 của Chương trình chống Sốt rét, thì Việt Nam đã chiết
xuất artemisinin và chế tạo artemisunat để chữa trị sự
nhiễm trùng của
P. falciparum
và P. vivax kết hợp
với những thuốc kháng sinh như tetracyclin, hay doxycyclin
(26).
Một tài liệu khác (1990) cho biết ở Bệnh viện Chợ Quán,
artemisinin đã được đem so sánh với quinin. Trong khi 30 bệnh
nhân uống quinin, 32 bệnh nhân khác được cho artemisinin đút
vào hậu môn, vì qua hình thức nầy thuốc dễ dùng và hiệu
nghiệm hơn, ngoài ra ít thấy có tác dụng phụ. Kết quả
rất khả quan. Các bác sĩ cộng tác trong chương trình nầy
còn xác nhận nếu được cho dùng phòng ngừa hoặc ngay lúc
bệnh vừa mới phát giác thì thế nào cũng giảm hạ được
bệnh trạng và số tử vong (15). Ba năm sau, trong một
thử nghiệm lâm sàng, với 638 bệnh nhân, dùng thuốc uống
artemisinin cho thấy trong vòng 24 tiếng 98% ký sinh trùng sốt
rét biến mât. Một thử nghiệm khác vào năm 1999 cho thấy
kết quả tốt nhất là dùng artemisinin và sau đó quinin trong
3 hay 5 ngày (2).
Những
năm sau nầy, thanh hao còn được khảo cứu sâu rộng hơn.
Ngoài vấn đề chống sốt rét, thanh hao qua một phấn chiết
với ethylacetat và butyl alcool có tính chất sát trùng với qinghao
acid, chống viêm với scopoletin (17). Tinh dầu thanh
hao gồm có (%) camphor (44), germacren (16), pinocarveol (11), selinen
(9), carophyllen (9), artemisia ceton (3) có tính chất phản oxi hóa,
chống những trùng Enterococcus hirac (27), Schistosoma
japonicum, Toxoplasma gondii
(21). Artemisinin cũng như
deoxy artemisinin, dihydro epideoxy arteannuin ức chế cuộc phát
khởi u khối (25,28). Artesunat, ngoài tính chất miễn
dịch, được đề nghị dùng làm thuốc chống ung thư (23,24).
Đem thử trên chuột cho thấy artemether có khả năng chống
trùng Schistosoma mansoni, ngăn cản nó đột nhập vào da
(22).
Những kết quả ban đầu nầy hé mở một tương lai rộng
lớn của khả năng thanh hao. Rồi đây những khảo cứu cấu
tạo - hoạt động sẽ cống hiến nhiều hoạt chất khác với
những tính chất mới lạ. Những thành phần của cây absinthin,
anabsinthin, thujon đã được tìm ra là đồng thời những tính
chất kháng sinh, kháng nấm, kháng oxy hóa, chống độc tố,
diệt giun ký sinh, kích thích tình dục, làm toát mồ hôi ngoài
việc điều chế các rượu absinthe,
vermuth(1).
Mấy
năm trước, về thăm Việt Nam, tôi có được nghe nói nhiều
đến chuyện sản xuất artemisinin. Nước ta cần thuốc để
chữa trị sốt rét thì sản xuất là chuyện tất nhiên. Muốn
đem bán ra nước ngoài lại là một vấn đề khác. Như đã
thấy, cần phải có một chất thuốc thật ròng nghĩa là phải
bỏ nhiều công của, buộc phải tính lợi hại. Thêm vào đó
phải kể đến những văn bằng sáng chế quốc tế trong số
ấy Trung Quốc chiếm phần lớn. Ngoài ra, cũng phải nghĩ đến
chuyện ngẫu biến của muỗi và không biết artemisinin sẽ
công hiệu đến ngày nào. Cần chăng nên chuẩn bị một chất
thuốc khác, may ra ta có được chút ưu tiên. Bên ta có cây
trường sơn Dichroa febrifuga Lour., thuộc họ Thường sơn
Saxifragaceae,
mà hoạt chất dichroin hay febrifugin có khả năng vượt quá
quinin 100 lần ! Và nhiều cây khác như dây ký ninh Tinospora
crispa (L.) Miers, cây sừng bò
Streptocaulon juventas (Lour.)
Merr., cỏ vườn trầu Eleusine indica (L.) Gaertn, những
cây thăng ma Cimicifugae L.
Thông tin
Khoa học và Công nghê (3) 1995, khoahoc.net 08.2006
Tham
khảo
Tổng luận
(1) Chu Hữu
Tín, Cây ngải (Artemisia annua L.) , Khoahoc@doisong
(13.07.2006)
(2) Nguyễn
Đức Hiệp, Dược thảo huyền diệu : Thanh hảo và bệnh
sốt rét, Diễn Đàn 164 (7.2006) 23-4 ; dẫn Nguyen
D.S., Dao B.H., Nguyen P.D., Nguyen V.H., Le N.B., Mai V.S., Meshnick S.R.,
Treatment
of malaria in Vietnam with oral artemisinin, Am. J. Trop. Med. Hyg.48
(1993)
852-3 ; Peter J. de Vries, Nguyen Ngoc Bich, Huynh Van Thien, Le Ngo Hung,
Trinh Kim Anh, Piet A. Kager, Siem H. Heisterkamp,
Combinations of artemisinin
and quinine for uncomplicated Falcium malaria : efficacity and pharmacodynamics,
Antimicrobial
Agents and Chemotherapy (5) 44 (2000) 1302-8
Đại
cương
3- D.L. Klayman,
Qinghaosu
(artemisinin) : an antimalarial drug from China, Science
(4703)
228
(1985) 1049-55
4- X.D. Luo,
C.C. Shen, The chemistry, pharmacology, and clinical applications of
qinghaosu (artemisinin) and its derivatives, Med. Res. Rev. (1)
7
(1987) 29-52
5- G.P. Dutta,
R. Bajpai, R.A. Vishwakarma, Artemisinin (Qinghaosu) – a new gametocytocidal
drug for malaria, Chemother.35
(1989) 200-7
6- P.I. Trigg,
Qinghaosu
(artemisinin) as an antimalarial drug, Econ. Med. Plant Res. 3
(1989)
20-55
Chiết
xuất
7- D.L. Klayman,
A.J. Lin, N. Action, J.P. Scovill, J.M. Hoch, W.K. Milhous, A.D. Theoharides,
Isolation
of artemisinin (qinghaosu) from Artemisia annua growing in the United States,
J. Nat. Prod. (4)
47 (1984) 715-7
8- N. Action,
D.L. Klayman, I.J. Rollman, Isolation of artemisinin (qinghaosu) and
its preparation from artemisitene using the Ito miltilayer coil separator-extrector
and isolation of arteannuin B, J. Chrom.
355
(1986) 448-50
9- R.J. Roth,
N. Action, The isolation of sesquiterpens from Artemisia annua,
J. Chem. Edu.(4) 66 (1989) 349-50
10- H.N. ElSohly,
E.M. Croom Jr., F.S. El-Feraly, M.M. El-Sherei, A large-scale extraction
technique of artemisinin from Artemisia annua,
J. Nat. Prod. (6)
53
(1990)
1560-4
Nhân tạo
tổng hợp
11- G. Schmid,
W. Hofheinz, Total synthesis of qinghaosu, J. Amer. Chem. Soc.
105
(1983)
624-5
12- X.X. Xu,
J. Zhu, D.Z. Huang, W.S. Wei, Total synthesis of arteannuin and deoxyarteannuin,
Tetrahedron (3) 42 (1986) 819-28
13- M.A. Avery,
C.Jennings-White, W.K.M. Chong, The total synthesis of (+)- artemisinin
and (+)-9-desmethylartemisinin, Tetr.Lett. (40)
28 (1987)
4629-32
14- S.S. Zaman,
R.P. Sharma, Some aspects of the chemistry and biological activity of
artemisimin and related antimalarials, Heterocycles (8) 32
(1991) 1593-638
Ứng dụng
15- A. Keith,
Tran Tinh Hien, Nguyen Tran Chinh, Nguyen Hoan Phu, Pham Phuong Mai, A
randomized comparative study of artemisinine (qinghaosu) suppositories
and oral quinine in acute falciparum malaria, Trans. Roy. Soc. Trop.
Med. Hyg. 84 (1990) 499-502
16- W. Peters,
B.L. Robinson, J.C. Rossier, C.W. Jefford, The chemotherapy of rodent
malaria. XLVIII. The activities of some synthetic 1,2,4-trioxanes against
chloroquine-sensitive and chloroquine-resistant parasite. Part 1 : Studies
leading to the development of novel cis-fused cyclopenteno derivatives,
Ann. Trop. Med. Paras.(1) 87 (1993) 1-7
17- L. Huang,
J.F. Liu , L.X. Liu, D.F. Li, Y . Zhang, N.Z. Nui, H.Y. Song, C.Y. Zhang,
Antipyretic
and anti-inflammatory effects of Artemisia annua L.,China J. Chinese
materia medica (1) 18 (1993) 44-8, 63-4
18- N.B. Paniego,
A.E. Maligne, A.M. Giulietti, Artemisia annua (qing-hao) : in vitro
culture and the production of artemisinin, Biotech. Agric. Fores.24
(1993)
64-78
19- N.J. White,
The
treatment of malaria, New Eng. J. Med.(11)
335
(1996)
800-6
20- F. Malagon,
J. Vasquez, G. Delgado, A. Ruiz, Antimalaric effect of an alcoholic
extract of Artimisia ludoviciana mexica in a rodent malaria model,
Parasitologia (1) 39 (1997) 3-7
21- Y. Li,
Y.L. Wu, How Chinese scientists discovered qinghaosu (artemisinin) and
developed its derivatives ? What are the future perspective ? ,
Med. Trop. : revue du Corpsde Santé colonial 58 (3 suppl.)
(1998) 9-12
22- X. Shuhua,
J. Chollet, N.A. Weiss, R.N. Bergquist, M. Tanner, Preventive effect
of artemether in experimental animals infected with Schistomosa mansoni,
Parasitol. Inter. (1) 49 (2000) 19-24
23- Q. Wang,
L.M. Wu, A.Y. Li, Y. Zhao, N.P. Wang, Experimental studies of antitumor
effect of artesunate on liver cancer, China J. Chinese materia medica
(10) 26 (2001) 707-8
24- T. Efferth,
H. Dunstan, A. Sauerbrey, H. Miyachi, C.R. Chitambar,
The anti-malarial
artesunate is also active against cancer, Int. J. Oncol. (4)
18
(2001) 767-73
25- P.C. Dias,
M.A. Foglio, A. Possenti, D.C. Nogueira, J.E. de Carvalho,
Antiulcerogenic
activity of crude ethanol extract and some fractions obtained from aerial
parts of Artemisia annua L., Phytoth.Res. : PTR (8) 15
(2001) 670-5
26- Phan Vu
Thi, Artemisinine and artesunate in the treatment of malaria in Vietnam
(1984-1999), Bull. Soc. Path. exot.(1990) (2) 95 (2002)
86-8
27- F. Juteau,
V. Masotti, J.M. Bessiere, M. Dherbomez, J. Viano, Aintibacterial and
antioxidant activities of Artemisia annua essential oil, Fitoterapia
(6) 73 (2002) 532-5
28- M.A. Foglio,
P.C. Dias, M.A. Antonio, A. Possenti, R.A.F. Rodrigues, E.F. da Silva,
26. Rehder, J.E. de Carvalho, Antiulcerogenic activity of some sesquiterpene
lactones isolated from Artemisia annua, Planta medica (6) 68
(2002) 515-8 |