Đừng
tưởng xuân tàn mai rụng hết,
Đêm
qua sân trước một cành mai.
Thiền sư Mẫn Giác,
Ngô Tất Tố dịch
Trước
nhà ba mẹ tôi ở làng Mỹ Cang, bên bờ sông Ô Lâu, có hai
cây mai hoa vàng. Lúc nhỏ tôi rất phục thấy
mai hằng năm đúng hẹn nở ngay vào dịp Tết, trừ những
năm đầu chinh chiến 46-47 như mai đã hiểu thấu lòng
người chẳng còn bụng dạ nào nữa để
vui xuân, mừng năm mới. Thật vậy, như anh đào bên
Nhật, hoa đào ngoài Bắc, bông mai là biểu tượng mùa xuân
ở miền Trung. "Hoa nở trong sương mù, trong nắng ấm ban mai,
trong giá rét mà sắc vẫn vàng như tơ lụa. Ôi sắc vàng của
hoa mai là một kỳ tích của tạo hóa. Như nắng mà không phải
là nắng, như gió mà không phải là gió, như sương mù mà
cũng không phải là sương mù. Sắc vàng của hoa mai là tích
số của trời và đất. Những chuyển
biến của thái hư đã sinh thành nên một màu hoa lụa
là" (4). Trong thơ văn, hoa
mai xuất hiện từ lâu. Mai và hạc là bạn tri âm được
danh sĩ Nguyễn Trung Ngạn (1289-1370) đề cao hình dáng, điệu
bộ từ thế kỷ 14 :
Dã mai cốt cách, nguyên
: phi tục,
Hải hạc phong tư, tự
: bất quần.
(Cái cốt cách của mai rừng
vốn không thô tục, phong tư của loài hạc biển tự nó không
thích họp bầy)
(5).
Qua thế kỷ sau, vua Lê Thánh
Tông (1460-1497) (2) ca ngợi hoa mai qua 6 bài thơ Cây
mai, Cây mai già, Hoa mai đầu xuân,
Bóng mai trong nước, Hoa mai vẽ, Lại vịnh hoa mai vẽ, trong
đó có câu :
Trội cành Nam chiếm một
chồi,
Tin xuân mãi mãi điểm
cành mai.
Nhà ngoại giao Hi Doãn Ngô
Thời Nhiệm (1745-1803) cho mai vinh dự
đón nhận những hột nước mắt của Huyền Trân :
Huyền Trân sái tận u sầu
lệ
Hoa tác xuân mai dạ vũ
thanh.
(Huyền Trân nhỏ hết nước
mặt u sầu, hoá thành những tiếng mưa đêm trên cành mai mùa
xuân).
Đằng
sau những cánh mai thanh thoát, mỹ miều còn ẩn chứa
một ý nghĩa tâm linh, một niềm tin và khát khao thanh bình
(3).
Thảo nào nhà thi hào Tố Như Nguyễn Du (1765-1820) trong cảnh
thiên nhiên rừng núi chỉ biết có mai và hạc :
Nghêu ngao vui thú yên hà,
Mai là bạn cũ hạc là
người quen.
Trong những hòn non
bộ, mai bị uống xoắn như được khổ luyện, lặng lẽ cam
chịu những đau đớn và vất vả trước khi sinh thành
cái đẹp bất tử (4). Có phải vì vậy mà một người
cao ngạo như Chu Thần Cao Bá Quát (1809-1855) cũng chịu cúi
đầu trước hoa mai :
Thập tải luận giao cầu
cổ kiếm
Nhất
sinh đê thủ bái mai hoa.
(Mười
năm giao du tìm thanh kiếm cổ, một đời chỉ biết cúi lạy
hoa mai).
Mùa thu năm 1868, nhà văn
Đặng Huy Trứ (1825-1874) đã đặt làm một loạt đồ sứ
để cúng tế tại nhà thờ. Hiện nay còn tồn tại 7
dĩa, tô, chén, bình hoa vẽ cá, nai, lên, hoa, đặc biệt dĩa
bàn trà vẽ tích "Đạp tuyết tầm mai" ghi câu thơ :
Tuyết
trung vị vấn điều canh sự
Tiên cú bách hoa đầu thượng
khai.
(trong
tuyết giá chưa hỏi đến việc nhà vua giao phó, câu đầu
tiên để thưởng thức hoa mai nở trước trăm hoa) nói lên
sự phấn khởi, hứng thú của thi nhân được thưởng thức
hoa mai nở trước mọi hoa khác. Dĩa nầy hiện nằm trong bộ
sưu tầm của nhà khảo cứu Trần Đình Sơn (2).
Hoa mai thưòng có năm cánh
nhưng cũng có thể có ít hay nhiều hơn. "Các cụ xưa kia
thích mai năm cánh vì đó mới là mai truyền thống. Năm cánh
hướng về một tâm điểm tạo thành vòng tròn như mặt
trời và các nhụy hoa giống như những tia nắng rực rỡ ban
mai. Mai là thời điểm bắt đầu của
một ngày mới, là bình minh, là hy vọng tốt lành. Ngày
nay, bà con lại thích những cây mai, cành mai có hoa to rực
rỡ, nhiều cánh, nở lâu tàn và coi đó là những cành mai
ngũ phúc,với hy vọng năm mới sẽ phát tài, gia đình đại
cát, đại lợi. Mai nhiều cánh tượng trưng cho kiết tường,
cho kiết hạnh" (3).
Đứng đầu trong tứ hữu mai-lan-cúc-trúc, trong tứ thời
mai-liên-cúc-tùng, mai cũng là thành phần của tam ích hữu
tùng-mai-trúc (trượng phu tùng, ngự sử mai, quân tử trúc)
được thể hiện trong bài ngũ ngôn cổ phong 16 câu trên một
ống tranh :
Tùng mai trúc kết nạp
Bút
đoan miêu tam bằng.
Thể dị nại tuế hàn,
Tâm phù tiện cổ thu.
Lập
nhân đường ngẫu đề, Ất Dậu niên chế 1765.
(Tùng cúc mai họp lại, lấy
bút vẽ ba chàng, thể khác chung chịu rét, nếp xưa lòng cử
hoài) (3). Lẽ tất nhiên những cây mai được miêu
tả, kê dẫn trong thơ văn không phải
cùng một loài và khác nhau tùy tác giả.
Mai
có nhiều loại. Về mặt cấu trúc, mai được chia ra mai sẻ,
mai châu, mai liễu, mai chùm. Dựa vào màu sắc, mai được
sắp thành hoàng mai, bạch mai, thanh mai, hồng mai (2).
Trong sách Cây cảnh, hoa Việt Nam, ông Trần Hợp kê năm
loài hoa mai thuộc ba họ (TH). Cây mai tứ quý
tức mai đỏ Ochna atropurpurea DC, cây huỳnh mai tức
mai vàng
O. integerrima (Lour.) Merr. (còn có tên O. harmandii
H. Lec) và cây mai vàng thơm Ouratea lobopetala Gagnep. thuộc
họ Mai tức Lão mai Ochnaceae. Cây mai chấm thủy Wrightia
religiosa (Teijeims. et Binn.) Hook.f., hoa màu trắng xoè rất
thơm, chủng lá nhỏ trồng làm cảnh trong chậu gọi là cẩm
mai, thuộc họ Trúc đào Apocynaceae. Còn cây mai gốc Nhật
Prunus
mume Sieb. et Zucc. (hay Armaniaca mume Sieb.) thì thuộc
họ Hoa hồng Rosaceae. Cây nầy
rất phổ biến ở Á Đông. Bên Nhật Bản gọi cây là
ume,
từ đấy có tên rượu
umeshu, dưa umeboshi. Người
Trung Quốc có tên mei tương tự mai của ta, và rễ cây
yemeigen.
Tên
cây mai nầy bên Hàn Quốc là maesil. Anh Mỹ có danh từ
Japanese
apricot. Theo Giáo sư Phạm Hoàng Hộ, ngoài ba cây mai vàng
O.
integerrima, mai đỏ
O. atropurpurea
và mai chấm thủy Wrightia religiosa,
ở Việt Nam còn
có bốn cây : mai cánh lõm Gomphia serrata
(Gaertn.) Kanis,
mai sọc G. striata (V. Tiegh.) C.F. Wie, mai mù u tức bạch
mai Ochrocarpus siamensis var. odoratissimus
Pierre và mao
lai Bon Sinosideroxylon bonii Anbr.
đều thuộc họ Mai Ochnaceae (PHH). Ở Huế,
những cây thuộc họ Mai, ngành Thực vật có hoa Anthophyta,
chỉ thu thập và định danh được
ba loài mai vàng O.integerrima (với hai biến dạng
: mao hồng diệp và mai trắng), mai tứ quý O. atropurpura và
mai núi Indosinia involucrata (Gagnep.) Vid. (1).
Trong các loài mai, cây mai Nhật
Prunus
mume được khảo cứu nhiều
nhất. Những nhà khảo cứu Hàn Quốc đã xác dịnh được
72 hóa chất mà những chất thơm nhiều nhất là benzaldehyd,
terpineol, hexadecanoic acid. Cũng góp phần vào mùi hương là những
chất dễ bốc hơi như acetaldehyd, ethanol, butanol, methyl acetat,
ethyl acetat, ethyl butyrat, butyl butyrat tìm được
trong trái. Khi trái bắt đầu chín, số lượng butyl acetat tăng
gia nhưng chất thơm nổi trội lúc ấy lại là ethanol
và ethyl acetat. Trong trái tươi, đã được
xác định những citric, malic, oxalic, succinic, tartaric, fumaric
acid bên cạnh vitamin C (24).
Khi trái chín, những amin acid, arginin, serin, glutamic acid, glutamin,
alanin, aspaeragin tăng lên nhiều. Những nhà khảo Cứu
Nhật Bản đã chiết ra những chlorogenic, neochlorogenic, caffeoyl
quinic acid. Dầu ép từ trái tươi chứa
đựng một số aliphatic hydrocarbon C14-C24
cùng terpineol, guaiacol, cresol, eugenol, hexenol, linalool, linalool
oxyd, furfural, methyl furfural, valeric, isovaleric, caproic acid. Từ
hột, benzaldehyd, ethyl benzoat, sitosterol, amygdalin đã được
chiết xuất cùng nhiều acid : valeric, isovaleric, caproic, caprylic,
benzoic, lauric, palmitic, stearic, oleic, linoleic succinic, citric, oleanolic
acid.
Thân
cây khô đem chiết nước cống hiến những triterpenoid như
ursolic, oleanolic acid. Dùng methanol chiết gỗ cây thì được
những chất phenolic như epicatechin, genkwanin, leucoanthocyanin,
với chút ít các chất đường như glucose, trehalose, mannitol
(8),
những flavonoid như prudomenin, dihydro prudomenin. Cũng dùng methanol
chiết hoa thì được hai flavonol oligoglycosid : acetyl rutin và
methyl rutin cùng những chất đưòng sucrose, prunose. Rễ cây
(yemeigen) chứa đựng catechin,
epicatechin. Những nhà khảo cứu Đài Loan xác định được
92 trong 181 hoá chất phát hiện qua phép sắc ký trên
trái cây ướp muối làm dưa umeboshi.
Dưa chứa đựng những chất thơm aldehyd, alcool cùng những
monoterpen và những dẫn xuất của chúng, những chất đường,
những malic, citric acid và amin acid như glutamic acid, glycin, alanin.
Ở hãng kỹ nghệ Nhật Bản Masuda Perfumery Co, dưa đem chưng
cho phát hiện 89 hoá chất mà 48 đã được
xác định, nhiều nhất là những những ester : hexyl acetat,
butyl hexanoat, hexyl butyrat, những decalacton bên cạnh những acid
: acetic, hexanoic, methyl butyric acid cùng những chất carotenoid
: ionon, trimethyl phenyl butenon. Trái cây còn non đem làm rượu
umeshu đã được tích trữ rong bóng tối, trong máy lạnh và
trong ánh huỳnh quang : ethyl carbamat tăng gia với ánh sáng và
nhiệt độ. Đem bao với giấy cellophan
thì số lượng ethyl carbamat có nhiều trong giấy xanh
hơn là trong giấy đỏ hay vàng.
Cây
mai Nhật chứa đựng nhiều chất có tính chất dược lý.
Những chất hydroxy methyl furfural và hydroxy tetramethoxy flavon
có hoạt động trừ giun sán loại Clonorchis sinensis (9).
Những oleic, linoleic, linolenic acid chiết từ
trái cây ức chế những tác nhân gây đột biến như furyl
nitro furyl acrylamid, benzopyren và aflatoxin B1 trong
những cuộc thử Ames với Salmonella typhimurium TA100 và
TA98 (11). Chất rutin cũng chiết
từ trái cây có hoạt động kháng oxi hóa (20).
Những flavonol glycoside và prunose chiết từ hoa ức chế aldose
reductase, riêng những prunose có khả năng cản trở sự kết
tụ tiểu cầu do thrombin gây ra (26). Những catechin,
epicatechin chiết từ rễ cây có tính chất lợi mật (21).
Mai được dùng trong những liều thuốc
gồm có nhiều cây khác điều trị bệnh lao phổi (40),
chữa tinh dịch bị kháng thể gây vô sinh (16), xử
lý ngoài da bệnh mồ hôi nặng mùi (22). Nó là thành
phần môn thuốc Cangwu chống viêm, có tính chất ức
chế cuộc xâm nhập những phản mao mạch và dị ứng (17),
thuốc xử lý bệnh nghiện ma túy (6).
Uống nước chứa đựng mai maesil bên Hàn Quốc đưa
đến thành quả đào thải trong nước tiểu nhiều dimethyl
amin, triethyl amin là những chất có khả năng kết hợp với
những nitrat thành nitrosamin gây ung thư (23). Nhờ có
tính chất loại bỏ những gốc oxi,
hột mai được dùng trong dược liệu và mỹ phẩm chống
già, kháng oxi hóa (50). Mai còn được dùng trong thuốc
kích thích tóc mọc (27), làm thuốc viên nhỏ sủi
bọt con trẻ (28) hay làm chất thơm cho thuốc lá (7).
Bên Nhật Bản, hoa đuợc ngâm vào ruợu sake (24).
Phấn hoa chứa đựng nhiều mỡ, vitamin C cùng khoáng
chất có thể cho vào món ăn bổ ích sức khỏe (18).
Trộn với chất ngọt isomalto oligosaccharid, mai được dùng
làm bánh dòn crisp mei (13,21).
Cây mai vàng Ochna integerrina
tương
đối ít được khảo cứu hơn. Chất
biflavonoid thường được nói đến nhiều là ochnaflavon có
khả năng khử hoạt tính của những enzym như phospholidase A2
(12), arachidonate release đem
lại tính chất chống viêm (15),
có hoạt động ức chế những tế bào ung thư từ đấy được
dùng để điều trị ung thư máu như bệnh bạch cầu và
bạch huyết (14). Những biflavonoid
khác đã được tìm ra là dihydro ochnaflavon, dihydro ochnaflavon
methyl ether, hydroxy lophiron, hydroxy lophiron glucosid. Về glucosid
còn có demethyl allyl taxifolin glucosid. Bên phần cây mai đỏ
O.
atropurpurea cũng cống hiến ochnaflavon từ lá tươi bên cạnh
palmitoleic acid (25,6% tinh dầu hột). Nói chung, hầu hết các
bản báo cáo cây mai gốc Nhật là của các nhà khảo cứu
Nhật Bản, Trung Quốc, Đài Loan và Hàn Quốc, những phòng
thí nghiệm Thái Lan có vài nghiên cứu trên cây huỳnh mai và
Ấn Độ trên cây mai tứ quý.
Thú chơi mai tao nhã, trồng
mai cầu kỳ, tạo dáng nghệ thuật ngày nay vẫn còn. "Cạy
cục ương hạt mai vàng trên đất phù sa, sau đó ông neo mai
vào núi đá. Hai mươi tuổi, thân mai chỉ roi roi bằng ngón
tay út người lớn. Ngày Tết chỉ nở chừng năm bảy cánh
hoa. Vì sống trên đá nên cánh hoa mai cực mỏng như tờ giấy
cuốn thuốc lá.... Lão huynh Lê có những bí quyết riêng để
làm cho hoa mai trên đá sống và ra hoa. Ông muốn chứng minh
cho sự can trường của hoa mai. Hoa có thể sống chỉ với
vài chiếc rễ bám vào đá núi. Kham khổ bần hàn là vậy
mà xuân về vẫn nhớ lời hẹn ưóc, cố gắng nở những
hoa vàng nhung mịn trên đá. Tôi nghĩ là những đóa mai trên
đá của lão huynh Lê còn nói nhiều hơn những gì muốn nói.
Đó là khát vọng sống mãnh liệt của con người gửi vào
hoàng mai hoa ước muốn duy trì một cuộc sống thanh bạch,
bình dị như cỏ cây vô danh trong khu vườn lớn của cuộc
đời" (4).
Ở Pháp hiếm có hoa mai, nhưng
phi mai bất thành xuân, Tết mà không có mai thì còn gì là
Tết ? Trừ phi đặt gởi từ bên nhà qua, người Việt ở
trên đất khách nầy chạy kiếm một loại hoa gì tương tự
để thay thế và họ đã tìm ra cây hoa forsythia tức
cây liên kiều, còn gọi trúc căn, hoàng thọ đan, hạn liên
tử, cao 2-4m, nở hoa vàng như mai vào đầu
xuân, có khi cả cuối đông nếu trời ít lạnh. Nguồn gốc
Nhật, Tàu, nay nó được trồng nhiều trong các vườn ở Pháp,
nhiều nhất là hai loài Forsythia suspensa và F.
viridissima, thuộc họ Lài Oleaceae (ĐTL).
Cách đây hai năm, nhân lên viếng chùa Trúc Lâm ở làng
Villebon, thầy Phước Đường biếu cho vợ chồng chúng tôi
một chậu cây nhỏ mà thầy bảo là cây mai. Về nhà chăm
sóc chu đáo, tưới nước nhiều, hai năm sau cây lớn lên
chút ít và Tết vừa qua nở một bông hoa vàng độc
nhất, đặc biệt bốn cánh. Tôi
chạy hỏi khắp nơi, mai thường năm cánh, sao mai nhà
tôi lại chỉ có bốn cánh ? Ai cũng lấy làm lạ. Khi hoa rụng,
tôi cẩn thận ép nó vào giấy báo cho khô rồi nâng niu cho
kẹp nó vào trang "Hoàng hoa mai" cuốn Phú Xuân hương sắc
của
Trụ Vũ, được anh Trần Đình
Sơn gởi tặng. Tình cờ một cô cháu lật sách thấy : thì
ra chỉ là hoa cây forsythia, cây mai hoa vàng trên đất
Pháp, nhìn thấy từ lâu mà không để ý
đến số cánh hoa. Cứ đến dịp Tết đồng thời với hoa
forsythia
trong vườn, hàng hoa chợ Tàu ở Paris cũng rực vàng hoa và
thơm mùi xuân, nhắc nhở phần nào đứa con xa hương trong
một mùa ngắn nhớ về cảnh tượng xứ sở thân yêu.
Nghiên cứu và Phát triển 3 (51)
2005, khoahoc.net .03.2006
Tham khảo
1- Mai Văn Phô,
Các
loại mai ở Huế, Tạp chí Thông tin Khoa học và Công
nghệ (1) (1995) 68-70
2- Trần Đình
Sơn, Hoàng anh,
Tản mạn Phú Xuân, nxb Trẻ, Tp Hồ Chí
Minh (2001) 28-31, 173-4, 217-21
3- Huỳnh Văn Nguyệt,
Mai
vàng, biểu tượng của mùa xuân, Nhớ Huế
12, nxb
Trẻ , Tp Hồ Chí Minh (2002) 8-11
4- Nguyễn Xuân Hoàng, Thương nhớ ngàn
mai, Nhớ Huế 16, (2003) 4-6 ; Nhớ Huế 20 (2004)
8-10
5- Phương Huy, Cốt cách một loài hoa,
Nhớ Huế 20 (2004) 36-9
6- B.W. Wu, S.P. Lee, Anti-narcotic medicine,
Brit
GB 1096708 (1967) 3 tr.
7- H. Matsushita, M. Shinosaki, Tabacco flavorant
containing Japanese plum extract, Jpn. Kokai Tokkyo Koho JP
54062336 (1979) 8 tr.
8- Y. Takizawa, M. Saito, K. Okuhara, T. Mitsuhashi,
Studies
on the constituents of Prunus mume Sieb. and Zucc. form purpurea Mak; phenolic
compounds and sugars, Tokyo Gakugei Daigaku Kiyo, Dai-4-bumon :
Sugaku, Shizen Kagaku 31 (1979) 137-41
9- B.Z. Ahn, J.K. Rhee, Anthelmintic activity
of natural products and their analogs against Clonorchis sinensis,
Yakhak
Hoechi 30(5) (1986) 253-65
10- Z. Chen, S. Sun, Q. Xu, G.Liu, S.Hu, Z. Wu,
Active
choleretic principle in Yemeigen (root of Prunus mume), Zhongcaoyao17(11)
(1986) 482-3
11- C. Dogasaki, H. Murakami, M. Nishijima, K.
Yamamoto, T. Miyazaki,
Antimutagenic activities of hexane extracts of
the fruit extract and the kernels of Prunus mume Sieb. et Zucc. Yakugaku
Zasshi J. Pharm. Soc. Jap. 112(8) (1992) 577-84
12- H.W. Chang, S.H. Baek, K.W. Chung, K.H. Son,
H.P. Kim, S.S. Kang,
Inactivation of phospholipase A2 by naturally occuring
biflavonoid, ochnaflavone,
Biochem. Biophys. Res. Commun. 205(1)(1994)
843-9
13- D.I. Tzen, D.S. Tzeng, A.O. Chen, Effects
of packaging, light blanching and benzoic acid on the sanitation quality
of Crisp Mei during storage, Shipin Kexue (Taipei) 22(5)
(1995) 596-605
14- S.S. Kang,, H. Jang, K.H. Sonn, H.P. Kim,
Anticancer
agents of biflavonoids from Ginkgo biloba and Lonicera japonica,
Rep.
Korea
KR 9609183 (1996)
15- S.J. Lee, K.H. Son, H.W. Chang, S.S. Kang,
H.P. Kim , Inhibition of arachidonate release from rat peritoneal macrophage
by biflavonoids,
Arc. Pharm. Res. 20(6) (1997) 533-8
16-Lingyuan Meng, Ruoyun Meng, Ruosong Men, Ruomo
Meng, Granules for treating sperm antibody-induced infertility,
Faming
Zhuanli Shenqing Gongkai Shuomingshu CN 1161220 (1997) 5 tr.
17- D. Su, G. Li, F. Pu, Study on pharmacodynamics
of Cangwu complex,
Huaxi Yaoxue Zazhi 13(4) (1998) 240-1
18- J.Q. Liu, Q.Q. Zhang, W.S. Wu, X.Q. Li, Analysis
of nutritional components of the pollens of Prunus salicina and P. mume,
Yingyang
Xuebao 22(1) (2000) 92-4
19- J. Ma, Compositions containing herbal madicines
for pulmonary tuberculosis, Faming Zhuanli Shenqing Gongkai Shuomingshu
CN
1265315 (2000) 4 tr.
20- J.T. Han, S.Y. Lee, K.N. Kim, N.I. Baek, Rutin,
an antioxidant compound isolated from the fruit of Prunus mume, Hang’guk
Nonghwa Hakhoechi 44(1) (2001) 35-7
21- S.D. Lin, A.S.M. Ou, Manufacture of crisp
mei by using isomaltooligosaccharides,
Taiwan Nongye Huaxue Yu Shipin
Kexue 39(4) (2001) 312-21
22- J. Chen, Medicine for external use to treat
sweaty feet with bromhidrosis, Faming Zhuanli Shenqing Gongkai Shuomingshu
CN
1321481 (2001) 4 tr.
23- S.Y. Choi, M.J. Chung, N.J. Sung, Volatile
N-nitrosamine inhibition after intake Korean green tea and Maesil (Prunus
mume Sieb. et Zucc.) extracts with an amine-rich diet in subjects ingesting
nitrate, Food Chem. Toxic. 40(7) (2002) 949-957
24- Z. Chen, J. Lu, Simultaneous and direct
determination of oxalic acid, tartaric acid, malic acid, vitamin C, citric
acid, and succinic acid in Fructus mume by reversed-phase high-performance
liquid chromatography,
J. Chrom. Sci. 40(1) (2002) 35-39
25- M. Tajima, M. Izume, T. Fukuhara, Singlet
oxygen scavenger from Prunus mume seed for cosmetics and pharmaceuticals,
Jpn.
Kokai Tokkyo Koho JP 2002284633 (2002) 15 tr.
26- M. Yoshikawa, T. Murakami, T. Ishiwada, T.
Morikawa, M. Kagawa, Y. Higashi, H. Matsuda, New flavonol oligoglycosides
and polyacylated sucroses with inhibitory effects on aldose reductase and
platelet aggregation from the flowers of Prunus mume, J. Nat. Prod.
65(8)
(2002) 1151-5
27- S. Oka, Y. Osaki, M. Nakauchi, S. Ikemoto,
H. Yamanishi, H. Taniguchi, O. Nakaguchi, T. Sokano, Hair growth stimulant
composition, Jpn. Kokai Tokkyo Koho JP 2002284648 (2002) 7 tr.
28- F. Zeng, Y. Zhang, S. Chen, Effervescent
product for children,
Shipin Gongye Keji 23(1) (2002)
41-3 |