Mấy
o gái Huế lòng bền như cửu đỉnh
Đôi mắt cười
sóng sánh nét quỳnh hoa
Hồ Đắc Thiếu
Anh
Ngày
xưa có một nàng công chúa nhan sắc tuyệt vời, trong cung ngoài
phố ai cũng ngưỡng mộ sắc đẹp của nàng. Nhà vua anh nàng
muốn cưới nàng làm vợ nhưng nàng không chịu vì theo truyền
thống Á Đông không có chuyện lấy nhau trong gia đình. Tức
giận, nhà vua đày nàng ra một hòn đảo ở ngoài Biển Đông.
Nàng đành sống ở đó và không bao lâu thì mất đi. Hồn
nàng hóa kiếp trong thân một cây mà hoa nở ra hương sắc
mặn mà, tiếng vang đồn ra khắp nơi. Nhà vua tò mò một hôm
cũng lấy thuyền ra đảo xem hoa. Cập đảo vào ban tối, vua
tự nhủ sáng mai lại xem cũng không muộn. Nhưng nàng công
chúa không muốn vua thấy nàng, dù ở hình thể một đóa hoa,
nên chưa đến sáng thì hoa tàn. Từ đây, hoa chỉ nở lúc
đêm khuya.
Một huyền thoại
khác cũng được lưu truyền. Thời nhà Tùy bên Trung Quốc,
tại Lạc Dương Thành, ở ngôi chùa cổ kính Dương Ly, một
tối khuya ngoài cửa chùa thình lình ánh sáng rực lên, hương
thơm sực nức làm dân chúng bàng hoàng, đổ xô lại xem. Gần
giếng nước trong sân chùa mọc lên một cây bông lạ, trên
ngọn nở ra một đoá hoa tuyệt trần, cánh hoa trắng nõn,
nhụy hoa điểm vàng, mùi thơm ngào ngạt bay toả khắp nơi,
lan xa ngàn dặm. Tin đồn đến tai Tùy Dạng Đế lúc ấy trị
vì ở Dương Châu. Là một ông vua hôn quân vô đạo, chơi
bời trác táng, ông cũng muốn đi thưởng ngoạn đoá hoa. Cần
có đủ mặt bá quan văn võ triều thần hộ giá, để tiện
việc di chuyển, ông ban lệnh khai kênh Vạn Hà từ Trường
An đến Dương Châu, hao tốn hàng triệu ngày công lao động
và hàng vạn công nhân bỏ mình, gây ra nạn đói kém và dân
chúng nỗi loạn khắp nơi, bước đầu của cuộc suy sập
nhà Tùy. Chính ngay trong số bá quan tháp tùng có mặt Lý Uyên
và con là Lý Thế Dân sau nầy lên ngôi lấy hiệu Đường
Thái Tông. Ngay tối hôm đến Lạc Dương Thành, Lý Thế Dân
và bằng hữu vội đi xem hoa, sợ ngày mai phải chen chúc với
triều thần. Nhận ra chân mạng đế vương, hoa nhún mình xuống
ba lần để nghinh đón. Xong, một cơn mưa to làm rụng đóa
hoa. Sáng hôm sau, Tùy Dạng Đế chỉ còn thấy cuốn hoa úa
rũ, tan tác, liền tức giận ra lệnh nhổ cây vứt đi. Từ
đây hoa chỉ nở vào đêm và đi vào truyền thuyết hoa quỳnh
(1).
Cách đây 250 năm,
quỳnh đã được nói đến là một cây mọc hoang ở Nam và
Trung Mỹ, ở Mexicô, Cuba, Guatemala cũng nhưng ở quần đảo
Antilles. Cây thích mọc ở xứ khí hậu nóng, nhưng không ưa
trực tiếp chịu ánh nắng mặt trời. Mặc dầu có khi mắc
trên một cây khác, quỳnh không phải là một cây ký sinh như
tầm gửi, cũng không phải là một cây cộng sinh như phong
lan, mà mọc trong đất loại đất mùn, không cần nhiều nước,
miễn là thoáng khí. Câu thơ của nhà thi hào Nguyễn Du trong
cuốn Kim Vân Kiều
Hài văn lần bước dậm xanh, Một vùng
như thể cây quỳnh cành giao tuy cành giao có nghĩa ngọc
quý như lá ngọc cành vàng, làm người ta thường lầm tưởng
quỳnh và giao (còn gọi cây san hô xanh hay xương khô, thập
nhị (TH), ngọc thụ, quang côn thụ (ĐTL), tên khoa học Euphorbia
tirucalli )sống cộng sinh với nhau hay hợp lại thành cây
quỳnh giao, thật ra giao là một cây dễ trụi lá và làm thành
cột cứng để quỳnh vốn mềm mại dựa vào. Không phải
tình cờ mà người con đầu lòng của cụ Phạm Quỳnh, một
người rất hâm mộ truyện Kiều, được đặt tên Phạm Giao.
Trồng quỳnh tương đối dễ. Thường có thể chỉ cắt một
đoạn thân, có thể dưới dạng lá, cho cắm vào đất; sau
đó những thân, cành và hoa mọc ra trên kẻ lá ấy. Các nhà
khảo cứu Do Thái đã có thử cấy mô nhiều loại quỳnh (14).
Cho hoa nở ra là một chuyện khác. Thường phải đặt chậu
hoa vào nơi có ánh sáng nhưng đừng quá nóng, phải đợi nhiều
năm và chăm nom cắt tỉa, đừng cho cành, lá mọc quá rườm
rà, tưới nước vừa phải. Có người khuyên nên dùng phân
dành cho xương rồng bán trên thương trường. Hoa có thể nở
hai đợt, vào mùa xuân và vào mùa thu. Tùy loại, nhất là
các giống lai, hoa có nhiều màu sắc khác nhau, có số lượng
ít nhiều trên mỗi cây và thời gian nở dài hay ngắn, ngày
hay đêm.
Tên tôn vinh bên
nước ta "Nữ hoàng trong đêm" tương đương với tên gọi
Tây phương Queen of the Night, Reine de la Nuit, Königen der Nacht,
Regine
della Note, Reina de la Noche, Tên khoa học tương đối phức
tạp hơn vì có nhiều loại trong cùng một họ Xương Rồng
Cactaceae. Vì Tây phương gọi cactus, rất dễ hiểu
có những tên
Phyllocactus grandis, P.grandiflora. Lấy gốc
từ tên vị nữ thần mặt trăng Hy Lạp Selene, một mỹ nhân
e lệ, tên chi Selenicereus đã được đặt ra. Chi nầy
gồm có ít nhất bốn chục loài mà loài được biết nhiều
nhất là S. grandiflorus Britt. et Rose(còn có tên
Cactus
grandiflorus) đã được nhà thảo mộc Thụy Điển Carl von
Linné nhận dạng từ 1753. Vì cây phát triển trên một thân
dạng lá, nên còn có tên chi Epiphyllum dựa lên các danh
từ Hy Lạp
epi (nghĩa là trên) và phyllum (nghĩa
là lá). Có khoảng một chục loài lai giống Epiphyllum
khác nhau ở màu sắc (trắng, vàng, hồng, cam, tím) và kích
thước hoa (10-35 cm). Hai tên E. oxypetallum Haw.và E. akermannnii
Haw.
thường được dùng để chỉ định những hoa quỳnh ở Việt
Nam, nở ban đêm. E. oxypetallum (bên Nhật Bản được
gọi gekkabijin (15), còn mang tên Phyllocactus grandis)
gốc thân hình trụ, phần trên và cành dẹt như lá có gân
giữa cứng, khoẻ, mép thân uốn lượn và có khía tròn, màu
xanh bóng, dày (TH), hoa mặt ngoài ửng hường, các phiến trong
trắng, tiểu nhụy nhiều, noãn sào hạ, vòi nhụy trắng (PHH).
E.
akermannnii (gọi là quỳnh đỏ) thân dẹt màu xanh bóng có
múi nhỏ và phân cành ngắn, hoa lớn nở ở đầu cành, ngoài
có lá bấc dạng vẩy, cánh hoa dài, mảnh màu đỏ tươi ở
ngoài, màu đỏ hồng ở trong, nhị nhiều, bầu có vòi màu
đỏ nhạt (TH). Gần đây nghe nói ở Đà lạt có một giống
quỳnh Nhật màu vàng đỏ, nở ban ngày. Ngoài ra, tương tự
trong họ Xương rồng còn có E. truncatus là cây càng cua
hay huỳnh hoa, Hylocereus undatus
là cây thanh long hay tường
liên.
Một vài công tác
khoa học cho ta biết thêm ít nhiều về thành phần các cây
quỳnh. Chất sắc xác định trong Phyllocactus grandiflora là
một bêta-xanthin gọi là portulaxanthin (7). Epiphyllum
sp. cũng như Hylocereus undatus chứa đựng những sterol,
nổi trội là sitosterol kèm theo stigmasterol (11). Kinetin
ở lá và đọt cây (6) và tyramin trong chương trình
tìm kiếm những chất amin có tính chất trợ tim (9)
đã được tìm ra trong Selenicereus grandiflorus. Ở Ấn
Độ, chính đọt non cây đã được dùng để thay thế chất
digitalin từng có thành tích trên tim. Phần chiết khô cây nầy
với ethanol chứa đựng một lượng nhỏ isohamnetin (1-3,6%)(13)
còn phần chiết tươi cống hiến một alcaloid là hordenin trước
kia được gọi cactin (10). Tetrahydroso quinolin cùng
nhiều alkaloid phức tạp hơn dimethy hydroxy bêta-phenylethylamin
tức hordenin đã được tìm ra trong những cây trong họXương
rồng (8). Các nghiên cứu về dược học của Epiphyllum
oxypetallum được thực hiện tại Đài Loan (2).
Người Nhật Bản khảo cứu tác dụng cây nầy lên các tế
bào biểu bì để tìm cách tăng gia độ ẩm nước da (15).
Họ tìm ra được trong hoa chất thơm benzyl salicylat (12).
Hoa quỳnh được xem là có vị ngọt, tính bình, có tác dụng
chống viêm, chống sưng, cầm máu. Hoa được dùng để chữa
ho ra máu, sưng cổ họng, xuất huyết tử cung. Hoa cũng được
nấu chung với thịt heo để trị sưng phổi, ho hen, và các
bệnh đường. Sắc và uống 3-5 hoa. Có thể giã nát, đắp
lên vết thương, sưng, đau, hay thoa bóp giảm đau thấp khớp.
Thân có vị chua, mặn, tính mát, có tác dụng chống sưng.
Toàn cây có tác dụng thanh phế, trị ho. Tác dụng cây nầy
lên hệ thống thần kinh giao cảm, tốc độ bất thường nhịp
tim, hiện tượng chảy ngược van hai lá, sự suy nhược thần
kinh qua những triệu chứng của tim, đã được những nhà
khảo cứu Hoa Kỳ tìm hiểu
(3). Đặc biệt, họ đem
thử hột Cactus grandiflorus
lên tim để xem những triệu
chứng trong mục đích dùng nó làm thuôc chữa bệnh (5).
Trong liệu pháp vi lượng đồng cân, ngoài cơn đau viêm họng,
cây được dùng để chữa co giật, xuất huyết, nhiễm khuẩn
tiết niệu. Nước vắt từ cây đem uống chữa được những
chứng thiếu kém hơi thở, nhiễm khuẩn bóng đái. Trong dân
gian, cây nằm trong các liều thuốc cầm máu, ngưng khạc ra
máu, kinh nguyệt khó khăn. Nó có thể dùng để chữa suy nhược
và những chứng xúc cảm (13). Cây cũng được liệt
vào các thuốc kích dục.
Trong thiên nhiên
biết bao là cây hoa khoe sắc tỏa hương, nhưng trong số những
hoa nở ban tối, có lẽ chỉ có hoa quỳnh là xứng nhất được
mang danh "Nữ hoàng trong đêm". Thảo nào các cụ đời xưa
bên ta tổ chức ngắm hoa, tận hưởng một thú vui tao nhã
theo phương cách Á Đông. Thường các cụ mời bạn bè lại
nhà rồi trong khi chờ đợi hoa nở, các cụ cùng nhau thưởng
thức một tuần trà đậm đà. Có khi một vài chén rượu
trắng giúp các cụ sáng tác những câu thơ mà các cụ vui
thích cùng nhau ngâm nga. Tôi qua bên Pháp quá lâu nên hết còn
có dịp nếm cái tinh khiết của cuộc ngắm hoa của các cụ
thời xưa. Nhưng vừa rồi, sau hơn hai mươi năm chờ đợi,
khá lâu có lẽ vì không biết cách săn sóc cây trồng, sau
một chuyến đi xa về khuya, tôi và nhà tôi ngạc nhiên thú
vị thấy cây quỳnh ở nhà mình trổ hoa ở Xô thành, miền
nam Paris, chưa đến sáng thì tàn. Đóa hoa quỳnh đầu tiên
của chúng tôi trên đất Pháp! Thì ra cây cũng như người,
giống tốt miễn gặp đất lành là mặc sức mọc rễ, đâm
chồi, nở hoa. Không có thì giờ loan báo bạn bè, chúng tôi
chỉ biết cùng nhau hai đứa cụng nhau hai mái đầu bạc chia
sẽ nỗi hân hoan. Chúng tôi ngây ngất ngắm mãi không chán
những cánh hoa nõn nà trong trắng như cô gái trinh bạch, bao
quanh từ lòng sâu một dãy nhụy hoa vàng lạt, đầu đỏ,
mảnh khảnh yểu điệu như những vũ nữ trên một chiếc
thuyền rồng, dẫn trước là vòi nhụy trông như một cái
chong chóng nhiều cành. Riêng phần tôi tỉnh cơn mê, chiếu
đèn chụp hình ngang dọc, trong ngoài cho khỏi tiếc sau nầy,
vì theo kinh nghiệm đã sống, không biết bao giờ mới lại
có hạnh phúc ngồi ngắm hoa quỳnh ở nhà mình. Sắc đẹp
phù du, vẻ đẹp chung thủy (4), làm sao nói lên toàn
vẹn cảm xúc của mình truớc một đóa hoa đẹp lộng lẫy
như hoa quỳnh. Đỗ Phủ đã từng thốt lên: Nhất phiến
hoa phi giảm khước xuân, hoa đẹp đến nỗi chỉ một
cánh hoa thôi rơi cũng đủ để làm giảm bớt cái đẹp của
mùa xuân. Nhưng hoa quỳnh may thay nở đến vài giờ, một cánh
cũng không rụng, thời gian dù ngắn cũng đủ cho ta mơ say,
xao xuyến.
Em ơi,
đêm thơm một đóa quỳnh
Cùng em hương
vương không gian
Cho ta mơ say
mộng ngát tình
Quyện màu sắc
thắm môi em.
(Dạ quỳnh
hương :
- thơ Hoàng Ngọc
Quỳnh Giao
- nhạc Phạm Anh
Dũng)
Nghiên cứu và Phát triển 4(69)
2008, khoahoc.net 12.2009
Tham khảo
1-phỏng theo Lý Lạc Long, Hương
sắc quỳnh hoa, Thu Quan vantuyen.net ; www.cinet.vnnews.com/suutam/quynh.htm
2-Trần Việt Hưng, Dược
thảo bông hoa, dẫn S.Y. Chow , C.F. Chen, S.M Chen, Pharmacological
effects of Epiphyllum oxypetallum,
Taiwan Yi Xue Hui Za Zhi
(Đài Loan tạp chí) số 12.1977; vnthuquan.net
3-H.W. Keiter, Cactus (Selenicereus
spp.), The Electric materia medica, Pharmacology and
Therapeutics, 1992 ; henriettesherbal.com
4- Hải Đà – Vương Ngọc
Long, Tản mạn về hoa quỳnh, khoahoc@doisong
22.06.2006 ; www.vuonghaida.com/HOAQUYNH/HQ.htm
5- J.S. Hepburn, G.W. Boericke, R.
Ricketts, E.D. Boone, Laboratory study of twenty drugs on normal human
beings, with comments on their symptomatology and therapeutic use,
J. Amer.Inst. Homeop.43 (1950) 130-34
6- L. Engelbrecht, K. Nogai, Action
of kinetin on the inhibition of metabolism by chloramphenicol, Flora
(Jena) (2) 154 (1964) 267-78
7- M. Piattelli, L. Minale, R.A.
Nicolaus, Further research on betaxanthins, Rendiconto dell’Accademia
delle Scienze Fisiche e Matematiche Naples
32 (1965) 55-6
8- S.D. Brown, J.L.Jr. Massingill,
J.E. Hodgkins, Cactus alkaloids, Phytochem. (11) 7
(1968) 2031-6
9- H. Wagner, J. Grevel, New cardioactive
drugs. II. Detection and isolation of cardiotonic amines with ion-pair
HPLC, Planta Medica (1) 44 (1982) 36-40
10- H. Petershofer-Halbmayer, O.
Kubelka, J. Jurenitsch, W. Kubelka,
Isolation of hordenine ("cactine")
from Selenicereus grandiflorus Britt. + Rose and Selenicereus pteranthus
(Link + Otto) Britt. + Rose, Scientia Pharmaceutica
(1) 50
(1982) 29-34
11- T.A. Salt, J.E. Tocker, J.H.
Adler, Dominance of delta 5-sterols in eight species of the Cactaceae,
Phytochem .(3) 26 (1987) 731-3
12- N. Matsuura, The analysis
of the aroma ingredients of the flower of Queen of the Night (Epiphyllum
oxypetalum Haw.), Koryo 214 (2002) 129-33
13- S.S. Chatterjee, M. Noeldner,
K. Schoetz, Use of plant extracts containing rutin and isorhamnetin
for treating depressive states and depression and other emotional disorders,
PCT Int. Appl. WO 2004078189 (2004) 18 tr.
14- N. Tel-Zur, S. Abbo, D. Bar-Zvi,
Y. Mizrahi, Clone identification and genetic relationship among vine
cacti from the genera Hylocereus and Selenicereus based on RAPD analysis,
Scientia Hortic. (Amsterdam)
(1-4)
100 (2004) 279-89
15- S. Suzaki, Moisturizing effect
of Gekkabijin (Epiphyllum oxypetalum Haw.) extract, Frag. J. (10)
33 (2005) 51-6
|