Bóng một giàn hoa một lá trầu,
Ngày xanh lui lại nhớ hàng cau.
Thái Ngộ Khê
Sau
mấy chục năm tha hương, về nước dự đám cưới một người
cháu, tôi ngạc nhiên thấy nhà trai
còn đem cau trầu làm sính lễ lại đón cô dâu như thời trước.
Tôi mừng thầm, sau hai cuộc chiến tranh dài dăng dẳng, thảm
thê, truyền thống vẫn còn giữ và dân tộc không quên chuyện
truyền thuyết tình cảm, sâu xa của hai anh em Cao Tân, Cao Lang
và cô gái họ Lưu tên Liên thời Hùng Vương kể lại
trong Lĩnh Nam chích quái. Thật ra, Việt Nam ta không phải
là nước độc nhất dùng cau trầu trong dịp cưới hỏi. Suốt
vùng châu Á, phía đông bao trùm Thái Bình Dương đến
các đảo cạnh Úc châu, phía tây vượt quá Ấn Độ đến
bờ biển Phi châu, phía bắc lấn tràn Miến Điện và
miền nam Trung Quốc, phía nam chiếm toàn Đông
Nam Á với quần đảo Nam Dương, ở đâu đất đai và
khí hậu cho mọc cau, trầu là nơi đó có tục lệ cau trầu.
Bên Java, khi một chàng trai
hỏi ý một cô gái, cô gởi trả một miếng trầu bọc hai
lá : nếu úp cùng chiều là cô ta ưng ý. Cô vợ Arakan bên
Myanmar thì đem lá trầu xé làm hai đưa cho chồng một nửa
: nếu anh quấn làm miếng trầu ăn tức là anh đồng ý
để vợ ra đi. Không phải tình cờ mà người Mã Lai
lấy tên cây cau, pinang, đặt
tên
meminang cho cuộc dạm hỏi rồi pinangam
cho đám hỏi, còn người ở đảo Bali thì đặt tên
cho một hòn núi Pinang Gunggam. Bên Ấn Độ,
bất cứ lễ sinh con hay lễ tế người chết đều phải có
cau trầu. Người Borneo đặt cau trầu quanh thi hài người
quá cố cùng với những vật thường dùng hằng ngày. Người
Sumatra mang cau trầu đi biếu dân làng mình đến viếng
cũng như lúc sắp từ giả.... Cưới hỏi, ly dị, kết nghĩa,
chia ly, .... rất nhiều quan hệ xã hội lúc sống, khi chết,
đã được diễn tả qua cau trầu.
Chuẩn
bị ăn trầu là cả một nghệ thuật truyền thống bên
nước ta. Trước hết là phải biết cách cắt lá trầu, cắt
xéo sao cho dễ têm sau nầy. Cau thường dùng là một lát cau
tươi, nếu là cau khô thì phải ngâm trong nước cho mềm. Nếu
răng không còn tốt mà cau quá cứng thì cần phải có ống
xoáy, bỏ vào khi đã đập dẹt. Quết vôi với cái chìa vôi
cũng là một nghệ thuật : phải dùng số lượng vừa phải,
nhiều thì quá nồng, ít thì không ngon. Trầu xanh, cau trắng,
vôi nồng, Vôi pha với nghĩa, thuốc nồng với duyên (Ca
dao). Bình vôi mà bên ta thường tôn vinh Ông Bình Vôi, thật
ra chỉ là một cái hũ bằng đất nung, nhưng dùng lâu năm,
vôi cứng đóng trong lòng không dùng được nữa, thường
không nhà nào dám vứt đi mà đặt nó lên bàn thờ hay ở
gốc đa, treo trên cây, trước chùa. Ông Bình Vôi là một nhân
vật linh động : ông "đói" khi
hết vôi, phải thêm vôi vào để cho
ông "ăn", ban tối ông cần "thở" thì phải rút cái chìa
vôi ra, ... Về thăm quê hương năm ngoái, tôi còn thấy cây
hương được thắp ngay trong miệng bình vôi trên bàn thờ.
Để thêm hương vị, bớt cay nồng, miếng trầu cũng được
ăn cùng với một vài loại rễ cây như cây chay, cây
quách, .... thường gọi chung là cây rễ. Bên Miến Điện sạp
bán trầu là cả một cái quầy đầy
hũ lọ đựng đủ thứ rễ, đủ loại ngũ cốc màu
sắc rực rỡ có vẻ quyến rũ và người bán, thường là
đàn ông, têm đúng số lượng người
mua đặt hàng. Sau cùng còn phải khéo têm trầu, sắp
đặt có mỹ thuật trong cơi trầu
trước khi đem mời khách nhất là khi mình làm con gái
tiếp đón gia đình ông chồng
tương lai có thể ....
Sâu đậm hơn, cau trầu còn
là mối liên quan giữa người và thần
linh. Nước miếng đỏ trong miệng người ăn trầu, rất lạ
mắt và có phần ghê tởm cho những người phương Tây,
hình dung một sức mạnh cốt tử trong mắt nhiều bộ lạc.
Người Macassar ở Sulavesi dùng nước ăn trầu thoa trán và
thái dương trẻ con bị bệnh. Bên Philippines thì nước trầu
được bôi vào bụng con nít để tránh cảm lạnh. Ở nhiều
chỗ khác, nước trầu còn có tính chất bùa yêu mầu nhiệm.
Ở Timor chẳng hạn, thầy phù thủy nhìn màu nước trầu phết
vào trán người chiến sĩ để suy
đoán vũ lực và khả năng chiến đấu. Bên Java, đường
gân lá trầu chỉ định bản chất cơn bệnh, còn màu
nước trầu thì biểu lộ tính tình. Người Batak ở Sumatra
cung hiến miếng trầu cho ma quỷ để
chúng khỏi rượt đuổi con người (1).
Ở Bali, tôi chứng kiến được hằng ngày các cô gái
tân thời, áo cụt, quần jeans, tóc dài, da thắm, đẹp như
tiên nữ, tung tăn, tươi cười, hồn nhiên chạy đặt những
khay trầu bằng lá tí hon trước cửa nhà cũng như khắp các
nẻo đường, theo một tục lệ có từ ngày xưa, bất chấp
chúng có tồn tại được lâu hay không.
Thật ra, ngoài chuyện
ăn nhai vui miệng, cau trầu không chỉ là một chuyện dị đoan.
Nếu bây giờ miếng trầu qua các tay phù thủy, thì trước
kia những thầy thuốc như Sushruta ở Ấn Độ
từ thế kỷ I, những lương y Ả Rập như Rhazes, Avicienne qua
thế kỷ X đã công nhận những giá trị
y học của cau trầu. Các sách xưa ghi miếng trầu kích thích
nhiệt huyết, đem hương vào miệng, củng cố cơ thể, nảy
nở vẻ đẹp, tiêu tan bệnh tật, giúp thêm điềm tĩnh,
.... Nó còn có khả năng tăng sức
tim, chữa đau răng, củng cố nướu răng, .... Theo một số
sách khác, nó là một trong những thích thú trong đời bên
cạnh ăn uống, áo quần, hương hoa, phụ nữ. Ngày nay, miếng
trầu được xếp ngang hàng với guarana, kola, .... những chất
nhai chơi có khả năng kích thích (9).
Trái lại, các tu sĩ Miến Điện tin nhai trầu cổ võ
suy nghĩ, kích thích tịnh tâm (2).
Hoa cau rụng trắng ngoài
thềm
Tục
lệ cau trầu chỉ được phổ biến ở Âu châu từ những
thế kỷ XVI, XVII, XVIII, bắt đầu với những người Bồ Đào
Nha. Tiếp xúc với người Ấn Độ và người Mã Lai,
họ hấp thu hai danh từ vittilei và vetila để
chỉ trầu, dần dần đọc
trạnh ra vettele, bettele, ....cho
đến ngày nay thành betle hay betel. Bên phía
cau thì hai danh từ akakeya (Ấn
Độ) và adakka (Mã Lai) đã đưọc biến ra thành
arec
(noix d’arec), aréquier. Những người Anh quen dùng chữ betle
chỉ
định trầu, từ đấy cây trầu betle vine, lá trầu
betle
leaf,
miếng trầu betle quid, và kỳ quái là cả ngay
trái cau betle nut cho nên lúc ban đầu hay có sự lẫn
lộn.
Ở
Ấn Độ, tiếng Sanskrit để chỉ trầu là tâmbula,
đổi thành tambuli, tambulam trong tiếng Pali,
tamboli,
tambolam trong tiếng Prâkrit, tambul trong tiếng Persan,
al
tambul trong tiếng Ả Rập. Phát xuất từ một tiếng Sanskrit
khác, parna, người Hindi ngày nay gọi trầu là
pân,
cho nên những quầy quán bán trầu bên Ấn Độ, Myanmar mang
tên panshop. Trong ngôn ngữ Nam
Á, chữ trầu thay đổi với các sắc tộc : Khơme
mluv,
Bana
bơlơu,
Stieng mlu, Kha blu, Kha blu, Thái Lan phlu,
Môn jablu, halang lamlu
(1).
Người Chăm một thời gồm có hai thị tộc : Dừa và
Cau. Thị tộc Cau chiếm giữ vùng Panduranga tức Phan Rang ngày
nay và tháp Pô Klaung Garai đã được vua Jaya Simhavarman III (ta
gọi Chế Mân) dựng lên trên núi Trầu (3)
tức Bôn Hala. Lễ vật cúng ở đây ngoài dê, gà, bánh
rượu, lúc nào cũng có kèm theo cau trầu. Sách vở còn kể
nghệ nhân Chăm biết dùng vàng, bạc, đá quý tạo nên những
hộp đựng cau, trầu, vôi chạm trổ
công phu. Trong đám quân binh tháp tùng nhà vua, luôn có
những người lính mang những hộp ấy và lễ vật cống hiến
Trung Quốc không bao giờ thiếu hộp cau trầu. Ở miền Nam
nước ta còn có làng Trầu Phù Lưu, Thập bát Phù viên tức
Làng Trầu 18 thôn làm nên quê hương vườn trầu lý tưởng
(4).
Ở
Việt Nam ta, từ điển Alexandre Rhodes viết blâu, đọc
giầu
ở miền Bắc thay vì trầu. Ngoài vôi, cau trầu thường
được ăn với vỏ cây chay. Cũng như
ở các nước Đông Nam Á khác, cau trầu có mặt trong
tất cả các buổi lễ cúng, cưới hỏi, trang hoàng, trong hoàng
tộc cũng như ngoài dân gian. Nó "biểu tượng cho sự kính
trọng, cho lòng biết ơn, cho sự tạ lỗi - mỗi một khi nhà
có việc, đều không thể thiếu cơi trầu, bình vôi, người
bạn đường chung thủy của trầu cau - là quyền lực của
người nội tướng trong gia đình ...." (4a).
Trong giao tiếp, miếng trầu là đầu câu chuyện, thay
vì điếu thuốc, chén trà. Rồi khi quen nhau nhiều, không xa
nhau lâu được : Láng diềng đã
đỏ đèn đâu, Chờ em chừng giập bã trầu em sang (Nguyễn
Bính). Đêm đêm hẹn nhau ân ái ngoài vườn : Quê
em là đêm trăng tỏ, Hoa cau rụng trắng ngoài thềm (Đỗ
Trung Quân). Nhận một miếng trầu là gần như một lời
cam kết : Miếng trầu ăn nặng bằng
chì, Ăn rồi em biết lấy gì đền
ơn. Sau nầy thành vợ thành chồng, có con cái, ru
con ngủ cũng còn lẩn vẩn với chuyện cau trầu : Mua vôi
chợ Quán chợ Cầu, Mua cau Nam Phổ, mua trầu chợ Dinh ....
Nhưng nếu bản thân cau trầu
luôn còn là bài thơ muôn thuở của con người (4)
thì ngày nay khoa học lại phân tích tìm kiếm trong các loại
thảo mộc nầy những tính chất dược lý
có thể đem ra ứng dụng trong đời sống hằng ngày.
Mang tên khoa học Pepper (hay Piper) betle (hay
betel)
L., trầu, hay trầu không, thuộc họ Hồ tiêu Piperaceae.
Tên
khoa học của cau, còn được gọi bình lang, tân lang, là Areca
catechu L., thuộc họ Cau Arecaceae. Trái
cau thường được miêu tả trong sách báo qua tên areca
nut hay, vì lầm lẫn như đã thấy, betle nut. Bên ta
nhân dân dùng lá trầu giã nhỏ, cho thêm nước sôi vào dùng
rửa những vết loét, mẩn ngứa, viêm mạch bạch huyết. Nước
pha lá trầu còn được dùng làm thuốc nhỏ mắt chữa viêm
kết mạc, chữa bệnh chàm mặt của trẻ em. Có nơi còn giã
lá trầu cho đắp lên ngực để chữa ho và hen, hoặc đắp
lên vú cho sữa không ra nữa. Trái cau thường
được dùng làm thuốc lợi tiểu (gọi là đại phúc
bì), chữa giun sán cho người và súc vật, giúp sự tiêu hóa,
chữa viêm ruột, lỵ, trẻ con chốc đầu,
hợp với thường sơn, thảo quả trong đơn thuốc "trường
sơn triệt ngược" chữa sốt rét (ĐTL).
Đôi
ta nâng mấy cơi trầu
Đem
phân tích, lá trầu chứa đựng năm propenylphenol có tính chất
khử nấm, trừ giun : chavicol, chavibetol, allyl pyrocatechol, chavibetol
acetat, allylcatechol acetat. Những chất phenol khác cũng đã được
tìm ra : hydroxy chavicol, eugenol, methyl eugenol, isoeugenol,
flavon, quercetin, nhiều nhất là safrol trong hoa. Hydroxy chavicol,
tác dụng mạnh nhất, cùng eugenol và tocopherol là những chất
kháng oxi hóa đã được chiết xuất từ thân trầu. Những
chất acetyl ursolic acid, ursolic acid và sitosterol có tính chất
chống viêm. Sitosterol cũng đã được
xác định dưới dạng palmitat trong rễ trầu cùng piperin,
piperlonguminin trong thân và tritriacontan, cepharadion, dotriacontanoic,
stearic acid trong lá. Bên Ấn độ, một cuộc khảo cứu các
tinh dầu, phân biệt được các loại
trầu trồng ở các vùng. Trầu Bangla chứa nhiều eugenol (64%),
đặc biệt chống nấm, trầu Desawari nhiều propenyl benzodioxol
(45%). Hai chất anethol và caryophyllen nổi trội trong trầu Meetha.
Trong năm loại trầu vùng Kapoori thì có cả một loạt
hóa chất : thujen, ocimen, cadinen, .... Trầu Sanchi đặc biệt
có steraldehyd không tìm ra trong các trầu khác.
Tinh dầu trầu có tác dụng
hạ huyết áp, duỗi bắp cơ, trị giun sán, chữa dị ứng
(22)
như lá trầu (23). Trầu hỗn hợp với những phần
chiết tiêu lốt Piper longum, thùn mùn Embelia ribes,
cam thảo dây Abrus precatorius, tinh dầu Polianthes tuberosa,
natrium borat, làm thành một thuốc ngừa thai dài hạn (11).
Trầu có khả năng hủy bỏ tác dụng đột biến của những
chất gây ung thư nitrosonornicotin và methyl
nitrosoamino pyridyl butanon từ thuốc lá nhờ những eugenol, hydroxy
chavicol, chlorophyll, vitamin C cũng như chống dimethyl benzanthracen
nhờ caroten. Trầu chiết được dùng với bạc hà trong
một hỗn hợp thuốc thơm để cho vào nước súc miệng (21).
Có hoạt kháng chống oxi hóa (24), lá trầu lại hoãn
chậm sự ô khét bơ dầu nhờ vậy giữ được lâu (25.
Như trong lá chè, trái cau chứa
đựng nhiều tannin gây ra mùi vị đặc biệt và được xem
như là những chất gây ung thư. Từ tannin nầy, đã được
chiết xuất ra những catechin, epicatechin, leucocyanidin, cùng những
chất proanthocyanidin, di, tri, tetra và penta procyanidin. Trong số
các procyanidin, đặc biệt arecatannin B1
ức chế hoạt động của trùng HIV-1-PR. Một số chất
khác quan trọng trong trái cau là những alcaloid (2,38 mg/g) : (%)
arecolin (0,30-0,63), arecaidin (0,31-0,66), guvacolin (0,03-0,06), guvacin
(0,19-0,72) và những dẫn xuất nitroso của chúng rất độc
hại cho gen, cho tế bào biểu mô miệng, niêm mạc mũi, có
thể gây u tuyến ở phổi. Những aflatoxin B1, B2,
G1, G2 (3,5-26,2 microg/kg) trong cau bị nhiễm
trùng Aspergillus flavus cũng có
tác dụng gây ung thư. Safrol có khả năng gây ung thư ở thực
quản. Acrolein thì rất độc hại cho gen nhưng lại làm giảm
hạ đường trong máu thỏ đã bị alloxan gây bệnh đái đường.
Vôi Ca(OH)2 cho phát xuất những gốc hydroxy OH
có thể làm tổn thương những tế bào miệng. Người ta biết
khi thay đổi pH, chẳng hạn lúc tiếp xúc với vôi là một
chất alcali, những alcaloid có khả năng
thay đổi màu, ví dụ nhuộm đỏ trong nước miếng người
ăn trầu. Vôi có khả năng ức chế methyl mercaptan phát tiết
ra ngoài nên ăn trầu đở hôi
miệng. Chính vôi cũng đã thủy phân arecolin và guvacolin
ra thành arecaidin và guvacin. Cùng với hai chất nầy, đã được
xác định những alcaloid khác : nicotin, methyl nicotinat, ethyl
nicotinat cùng dimethyl piperidin carboxylat, ethl methyl tetrahydro pyridin
carboxylat. Những polysaccharid trong vỏ trái có tính chất chống
bổ thể, trình bày một số đường 48,2% (rhamnose, arabinose,
mannose, galactose) cùng uronic acid, protein. Saccharin
được xác định trong cau dưới dạng muối natri. Ngoài
các acid mỡ (lauric, myristic, palmitic, stearic, phtalic acid) cau
còn chứa đựng những amin acid : ít tryptophan, methionin, hơn
15% prolin, hơn 10% tyrosin, phenylalanin arginin.
Trong một cuộc khảo cứu
rộng lớn trên 100 thảo mộc ở Á Đông, hãng Coreana Cosmetics
đã tìm ra cau cùng với riềng, nghệ, cải, đinh
hương, đơn bì, đại hoàng, .... trong số những cây
có thể dùng để chiết xuất chất
kháng oxi hóa. Một ứng dụng được thực hiện dựa lên
tính chất nầy là cho trộn cau với dương mai (28)
hay với riềng Curcuma longa, đinh
hương
Syzygium aromaticum, mộc hương Saussurea lappa
(có khả năng khử melanin) làm thuốc bảo vệ da (18)
. Có mỹ phẩm dựa lên tính chất khử thải những gốc tự
do của cau (27), hỗn hợp vói vitamin C (29)
hay cam thảo bắc Glycyrrhiza glabra (30).
Nhờ khả năng ức chế tác dụng 5’-nucleotidase, glucotransferase
trong Streptoccocus mutans của những chất phenol, procyanidin
và acid mỡ, cau được dùng để chữa
sâu răng, trị viêm răng, chống mảng răng (17).
Bên ta trước kia đã thấy có thói dùng vỏ trái cau chùi răng,
một vật liệu vừa hữu hiệu vừa dễ kiếm cần phải được
khuyến khích. Những chất phenol, đặc biệt những ester, thức
biệt thành NF-86I, NF-86II, NPF-86IA, NPF-86IB, NPF-86IIA, NPF-86IIB,
cau được đưa vào thuốc trị
u khối (13,14), chữa các chứng nhiễm virus (16).
Vì ức chế glycerophosphat deshydrogenase, chúng được cho vào
thức ăn chống béo (20). Cũng như trầu, tiêu Piper
nigrum, rau ngót Sauropis androgynus, .... cau thuộc số
ít thảo mộc ức chế rất mạnh giun tròn Bursaphelenchus
xylophilus, theo một bản báo cao Mã lai. Trong cau có một
phần tannin ức chế được enzym chuyển
đổi angiotensin nên được xem là chất chống huyết
áp (12). Dùng dichloro methan chiết xuất, cau cống hiến
một chất thuốc chống trầm cảm (26).
Vườn
em đất tốt trồng cau
Một
vấn đề khá quan trọng đã được nhiều giới khoa học lưu
ý,
đặc biệt ở Ấn Độ là khả năng gây ung thư của miếng
trầu. Các bài tổng kiểm đã được sử dụng lượt kê gần
500 bản báo cáo đủ loại. Kết luận đến nay chưa
ngã ngũ rõ ràng. Công tác sâu rộng và đầy
đủ nhất, tuy hơi xưa (1985), được Tổ chức Quốc tế Khảo
cứu về Ung thư thực hiện (5). Theo bài nầy,
có đủ chứng cớ để tin ăn trầu,
thêm hút thuốc, dễ gây ung thư trên con người nhưng
không thể buộc tội miếng trầu một mình. Như vậy là nghĩa
là người vừa ăn trầu vừa hút thuốc
có nhiều khả năng mắc bệnh ung thư họng nhưng không thể
nói gì về người chỉ ăn trầu mà thôi. Hai mươi năm sau
nầy, nhiều bài tổng kiểm khác lại bổ túc. Theo Giáo
sư Iwao Hirono (6), dựa lên những
khảo cứu về mặt dịch tể học ở đàn ông, đàn
bà các nước Ấn Độ, Mã Lai, Trung Quốc, thì ung thư chỉ
do những yếu tố môi trường như cách thức ăn
trầu chỉ định chứ không dính dáng gì đến di truyền dân
tộc. Ông đưa ra mâu thuẫn lá trầu có khả năng ức chế
gây ung thư benzopyren còn cau và vôi thì có tác dụng
ngược lại. Một công tác tương đối mới hơn (1989) (7)
nhấn mạnh vai trò của những alcaloid trong miếng trầu vì
chúng tác dụng với vôi để cấu tạo những gốc tự do phá
hoại màng nhầy trong miệng, nơi mà vôi đã từng gây viêm.
Đằng khác, thuốc lá vừa gây phản
ứng nitroso hóa các alcaloid kia vừa đem thêm vào những
nitrosamin độc hại của chính mình. Tuy nhiên các tác giả
công nhận là không có thuốc lá, miếng trầu chưa chắc đã
gây ung thư. Thiếu vitamin trong cơ thể,
hoạt động vi khuẩn trong miệng và tác dụng gây kích
thích của vôi và cau là những tác nhân tiềm lực.
Theo Giáo sư P.C. Gupta (8),
người đã theo dõi lâu ngày lãnh vực nầy bên Ấn Độ,
tuy khảo cứu dịch tể học cũng như thực nghiệm không chứng
minh được miếng trầu không thêm thuốc lá đã đem
lại ung thư, cau trong miệng đã gây những xơ dưới
niêm mạc trong miệng tức là một tổn thương tiền ung thư.
Một người hút thuốc đã có sẵn những xơ nầy tất nhiên
dễ bị ung thư hơn những người khác. Ông lập chương trình
phòng ngừa : ngừng hút thuốc nếu
ăn trầu và khám nghiệm kịp thời để phát giác thời tiền
ung thư. Sau cùng, một công tác khảo cứu tại viện Đại
học Đài Loan (10) đặt
lại toàn thể vấn đề. Theo các tác giả bài báo nầy
thì tính độc của polyphenol, alcaloid và tannin
trong cau chưa được chứng minh rõ ràng và cần phải
được xem lại. Phản ứng oxi hóa
những polyphenol của cau trong nước miếng người ăn trầu
cho phát xuất những loại oxi có hoạt tính lớn là mấu
chốt mọi khởi xướng và phát triển ung thư miệng. Phản
ứng nitro hoá những alcaloid cấu tạo nên những nitroamin đặc
thù của cau đã được chứng minh là những chất gây đột
biến, rất độc về mặt gen và có khả năng cho đột nhập
u khối vào thú vật như arecaidin và phần chiết từ
cau. Nhiều thí nghiệm sẽ cần được
thực hiện để nêu rõ sự chuyển hóa của những thành
phần cau và vai trò của chúng trong phản ứng nhiều đợt
gây ung thư hầu mong từ đấy tìm ra phương pháp phòng
ngừa và chữa ung thư miệng cũng như u xơ dưới niêm mạc
miệng.
Song song với những khảo cứu
y khoa kia, kỹ nghệ cũng kiếm cách
ứng dụng những tính chất của cau. Những phenol có khả năng
bảo vệ những nucleotid chống tác dụng phá hoại của những
enzym nên được dùng bảo vệ thức ăn như dưa chuột để
giữ hương vị. Chúng ức chế urease chế tạo ammoniac trong
urea nên được
dùng làm thuốc thơm trong vật liệu bảo
dưỡng mèo. Người ta đã làm thuốc nhuộm vải, lụa với
phần chiết từ cau. Tannin được trộn với natrium sulfat, natrium
carbonat làm thuốc nhuộm tóc đen xám (15).
Nhờ chất proanthocyanidin, đặc biệt chất epicatechin-catechin,
cau được hòa với acetyl glutamin acetat, butylen glycol glycerol
trong ethanol và nước thành thuốc kích thích tóc mọc (19).
Một loại giấm giàu enzym và amin acid, xúc tiến sự tiêu hóa,
gồm có một phần hột cau, nước gừng, cải củ, khoai mài,...
Thân cây cau có nhiều lignin, ít hollocellulose,
có tính chất cơ lý học tương đương với các gỗ cứng
khác thường được dùng làm giấy. Vỏ trái cau đem
xử lý với nấm đỏ Phanerochaete
chrysosporium tăng số lượng protein
lên quá 100%, còn nếu để nguyên cho ủ thì lignin
hủy hoại đến 62% nhưng năng suất khí methan phát ra tăng
lên 48%. Tôi rất ngạc nhiên chưa thấy một nước nào,
nhất là các nước ít giàu, dùng vỏ trái cau làm bót đánh
răng, vừa rẻ tiền, vừa vệ sinh.
Mỗi lần về quê, nhìn hàng
cau trong nắng, tôi nhớ đến Hàn Mặc Tử, nhớ qua thôn Vỹ,
nhớ về Nam Phổ làng xưa. Trong tai tôi bên phương trời Tây
luôn còn văng vẳng giọng hát ngọt ngào của Thu Hiền :
Nhà anh có một vườn
cau,
Nhà em có một vườn trầu,
....
Thông tin Khoa học và Công nghệ
2(28)2000, khoahoc.net 01. 2006, vietsciences 03.2006, chimviet.free.fr
02.2006
Tham khảo
1- Solange Thierry, Le bétel trong Catalogues
du Musée de l’Homme, I. Inde et Asie du Sud-Est, 14-20
2- Dawn F. Rooney, Betel Chewing. Traditions
in South-East Asie trong Images of Asia (1993) 1-15
3- Ngô Văn Doanh,
Tháp
cổ Chămpa. Sự thật và huyền thoại,
nxb Văn hóa – Thông tin (1994) Hà Nội 175-186
4- Nguyễn Ngọc Chương, Trầu
cau Việt điện thư, nxb Hồ Chí Minh (1990/1997) 18 ;
4a- Trần Ngọc Thêm, Lời giới thiệu
5- International Agency for Research on Cancer,
IARC
Monographs on the evaluation of the carcinogenic risknof chemicals to humains,
Vol. 37, IARC (1985) Lyon 141-202
6- I. Hirono, Naturally occuring carcinogens
of plant origin, trong Bioactive molecules, nxb Kodansha-Elsevier(1987)
Tokyo-Oxford-New York 167-181
7- S. Sen, G. Takukder, A. Sharma, Betel cytotoxicity,
J.
Ethnopharm. 26 (1989) 217-46
8- P.C. Gupta, Betel quid and oral cancer :
prospects for prevention,
Tobacco Smoke and Mycotoxins, IARC
(1991) Lyon 466-470
9- J.F. Morton, Widespread tannin intake via
stimulants and masticatories, especially guarana, kola nut, betle vine,
and accessories, Basic Life Sci. 59 (1992) 739-65
10- J.H. Jeng, M.C. Chang, L.J. Hahn, Role
of areca nut in betel quid-associated chemical carcinogenesis : current
awareness and future perspectives, Oral Oncology 37(6)
(2000) 477-92
11- P.C. Das, Oral contraceptive (long-acting),
Brit.
1,445,599
(1976) 11tr.
12- J. Inokuchi, H. Okabe, T. Yamauchi, A. Nagamatsu,
G. Nonaka, I. Nishioka, Antihypertensive substance in seeds of Areca
catechu L.,
Life Sci. 38(15) (1986) 1375-82
13- K. Uchino, T. Matsuo, M. Iwamoto, New 5’-nucleotidase
inhibitors, NPF-86IA, NPF-86IB, NPF-86IIA, and NPF-86IIB from Areca catechu.
Part I. Isolation and biological properties, Planta Med. 54(5)
(1988) 419-22
14- T. Matsuo, M. Iwamoto, Y ? Tonosaki, A. Fukuchi,
Novel
antitumor substances from betel nut, Jpn. Kokai Tokkyo Koho JP
63,307,892 (1988) 24tr.
15- K. Mizumaki, Hair dyes extracted from plants,
Jpn.
Kokai Tokkyo Koho JP 02,138,114 (1990) 7tr.
16- A. Fukuchi, M. Iwamoto, K. Uchino, H. Ogawara,
H. Hideki, N. Yamamoto,
Virucide extraction from betel nuts for treating
human immunodeficiency virus infection, Jpn. Kokai Tokkyo Koho JP
02,196,725 (1990) 22tr.
17- M. Iwamoto, K. Ugino, Y. Toukairin, K. Kawaguchi,
T. Tatebayashi, H. Ogawara, Y. Tonosaki, The growth inhibition of Streptococcus
mutans by 5’-nucleotidase inhibitors from Areca catechu L., Chem.
Phar. Bull. 39(5) (1991) 1323-4
18- S. Shirota, K. Myazaki, M. Ichioka, T. Yokokura,
Skin-lightening
cosmetics containing melanin inhibitors from plants,
Jpn. Kokai
Tokkyo Koho JP 06,227,960 (1994) 54tr.
19- T. Takahashi, Y. Kobayashi, M. Kawamura, Y.
Yokoo, T. Kamiya, T. Tamaoki, Hair growth stimulant , PCT Int.
Appl. WO 96 00, 561 (1966) 22 tr.
20- T. Wada, T. Mizumo, K. Uchino, Glycerophosphate
dehydrogenase inhibitors, their use as food additives, and antiobesity
foods containing them, Jpn. Kokai Tokkyo Koho JP 09,286,734
(1997) 6tr.
21- Y. Yahamara, T. Aoki, K. Miyake, H. Shioda,
Agents
and method for improvement of flagrances and flavors using Piper betle
extracts,
Jpn. Kokai Tokkyo Koho JP 11130685 (1998) 8 tr.
22- Y. Yamahara, Anti-allergic effects of Piper
betle, Food Style 21 2(4) (1998) 66-8
23- J. Yamahara, Allergy inhibitors containing
extracts of Piper betel, Jpn. Kokai Tokkyo Koho JP 11130685
(1999) 5 tr.
24- C.K. Wang, H.Y. Su, C.K. Lii, Chemical
composition and toxicity of Taiwanese betel quid extract, Food Chem.
Toxicol. 37(3-2) (1999) 135-44
25- L.P. Lean, S. Mohamed, Antioxidative and
antimycotic effects of tumeric, lemon-grass, betel leaves, clove, black
pepper leaves and Garcinia atriviridis on butter cakes, J. Sci.
Food Agric.79(13) (1999) 1817-22
26- A. Dar, S. Khatoon, Behavioral and biochemical
studies of dichloromethane fraction from the Areca catechu nut, Pharmarm.
Bochem. Behavior
65(1) (2000) 1-6
27- B.G. Cho, G.G. Lee, G.S. Lee, Composition
of free radical eliminating cosmetic material containing extract of Areca
catechu L., Repub. Korean Kongkae Taeho Kongbo KR 2001058419
(2001) không có số tr.
28- J.D. Choi, G.H. Kim, G.S. Kim, G. Geon, Whitening
and wrinkle improvement cosmetics composition containing Areca catechu
extract and arbutin, Repub. Korean Kongkae Taeho Kongbo KR 20021205
(2002) không có số tr.
29- J.D. Choi, G.G. Lee, G.S. Lee, Cosmetic
compositions comprising vitamin C or derivatives thereof and Areca catechu
L. extract for preventing skin aging, Repub.
Korean Kongkae Taeho Kongbo KR 2003043471 (2003) không có số tr.
30- K.K. Lee, K.S. Lee, medicinal cosmetical
composition with Areca catechu seed extract, PCT Int. Appl. WO
2004089327 (2004) không có số tr.
|