Câu
chuyện được xác định rõ không gian. Một đường phố của
Paris. Hẳn là Baudelaire không thích thành phố này nên ông chọn
một nơi ồn ào, hỗn tạp, con đường như đang gào thét (
hurlait).
Chuyện cũng được xác định cả thời gian: chiều tối. Đêm
xuống nhanh, nhưng cũng đủ để nhìn thấy khuôn mặt đẹp
của người phụ nữ, nhân vật chính của câu chuyện. Trong
bối cảnh ồn ào náo nhiệt đó bỗng nàng đi lướt qua (
une
femme passa ).
Người kể chuyện hẳn phải nhìn kỹ lắm
mới khắc hoạ chân dung nàng rõ đến vậy: Mảnh khảnh
u sầu, y phục đại tang...
Bàn tay kiêu hãnh
Hất nhẹ đong đưa viền áo
cao sang.
Nhanh nhẹn quí phái, đôi chân
tuyệt mỹ.
Người kể chuyện ( narrateur ) biến
thành nhân vật ( personnage ) để thổ lộ cảm xúc. Chàng thấy
trong mắt nàng một bầu trời nhạt nhoà với mầm mống
một cơn dông, nơi nàng toát ra một nét dịu dàng làm
mê mẩn, nhưng nàng cũng là hiện thân của khoáilạc
làm chết người. ( je buvais
Dans son œil, ciel livide où germe
l’ouragan,
La douceur qui fascine et le plaisir
qui tue. ).
Đến lúc này thì nhân vật lại
biến thành tác giả ( auteur ). Chàng lên tiếng ngay: Tuy anh
không hề biết em sẽ về đâu, và em cũng không biết anh sẽ
đi đâu, nhưng
hỡi em, người đáng lẽ anh đã yêu, và
em, em đã biết điều đó. (Car j’ignore où tu fuis, tu ne sais
où je vais,
Ô toi que j’eusse aimé, ô toi
qui le savais! )
Hãy để ý, trong nguyên tác, nhà
thơ dùng
j’eusse aimé, một dạng thức của động từ
chỉ có trong tiếng Pháp ( conditionnel passé 2è forme ) để chỉ
một việc đáng lẽ đã xảy ra nhưng không có, dùng như thế
để nói lên một mong ước, vừa mới hiện ra đã tan biến
ngay.
Bài thơ với nhan đề giản dị
( À une passante - gởi người qua đường ) với lời lẽ
thân tình, đọc nhiều lần sẽ thấy hoá ra đây là Lời tỏ
tình gởi người phụ nữ không quen biết. Nàng chỉ đi lướt
qua trên đường phố đông người mà sao thấy yêu rồi và
quả quyết là nàng biết điều đó.
Sau Baudelaire, Bùi Minh Quốc cũng
xao xuyến vì người phụ nữ gặp trên đường như thế.
Có khi nào trên đường đời
tấp nập .
Ta vô tình đã đi lướt qua nhau
.
Bước lơ đãng chẳng ngờ đang
để mất .
Một tâm hồn ta đợi đã từ
lâu .
Câu đầu tiên của bài thơ chẳng
có gì thơ mộng cả ( Phố xá xung quanh ầm ĩ thét gào ) nhưng
đến câu cuối lại là chuyện tình yêu. Và bài thơ, làm theo
thể thơ sonnet gồm 14 câu, 2 khổ bốn câu ( quatrain ) và 2
khổ ba câu ( tercet ), suy cho cùng vẫn là một bài thơ tình.
Tưởng chẳng có gì là thơ cả
nhưng thật ra đó là thơ.
Thật là rất khó
Để kiếm ra chút tin tức nào
trong những bài thơ
Thế mà người ta lại chết
đau đớn từng ngày từng giờ
Vì thiếu
Những điều được tìm thấy
trong đó.
It is difficult
To get some news from poems
Yet men miserably die everyday
For lack
Of what is found there.
William Carlos Williams.
Người phụ nữ qua đường thể
hiện cái nhìn lý tưởng về sắc đẹp của tác giả. Ông
giới thiệu ngay không gian: thành phố Paris hiện đại, ồn
ào, bận rộn, một khung cảnh không thân thiện. Con đường
được nhân hoá ( hurlait, gào thét ), rồi thêm tính từ " ầm
ĩ, assourdissante ", vẽ ra thứ âm thanh hỗn độn. Trong bối
cảnh đó, bỗng xuất hiện một người phụ nữ và xoá hết
cái hỗn độn đó. Hình ảnh nàng rạng rỡ, tạo ra tình cảm
hoàn hảo nơi nhà thơ. Ông mô tả tỉ mỉ từ vóc dáng, trang
phục, rồi đôi chân. Bước đi khoan thai của nàng được
khắc hoạ bằng nhịp điệu đều đặn của câu 4: ( soulevant/
balançant/ le feston/ et l’ourlet ).
Tác giả xuất hiện đột ngột
ở câu 6: " Moi je buvais, crispé... " Crispé, ngây dại,
đúng là thái độ sững sờ của ông trước người phụ nữ
mới gặp. Tuy nhiên người phụ nữ hiện ra nhanh chóng rồi
biến mất ngay. Nhà thơ ít có hy vọng gặp lại nàng, câu
thơ đầy cảm thán nói rõ điều đó ( Ailleurs, bien loin
d’ici! Trop tard! jamais peut-être! ). Thứ tình cảm mà ông
tưởng là tình yêu thật ra hoàn toàn không thật.
A UNE PASSANTE.
La rue assourdissante autour de moi hurlait
Longue, mince, en grand deuil, douleur
majestueuse,
Une femme passa, d’une main fastueuse
Soulevant, balançant le feston et l’ourlet.
Agile et noble, avec sa jambe de statue
Moi, je buvais, crispé comme un extravagant,
Dans son œil, ciel livide où germe l’ouragan,
La douceur qui fascine et le plaisir qui
tue.
Un éclair...puis la nuit! - Fugitive beauté
Dont le regard m’a fait soudainement
renaître,
Ne te verrais-je plus que dans l’éternité?
Ailleurs, bien loin d’ici! trop tard!
jamais peut-être?
Car j’ignore où tu fuis, tu ne sais
où je vais,
Ô toi que j’eusse aimé, ô toi qui
le savais!
GỞI NGƯỜI PHỤ NỮ QUA ĐƯỜNG
Phố xá xung quanh ầm ĩ thét gào
Mảnh khảnh u sầu, y phục đại
tang
Cô nàng đi qua, bàn tay kiêu hãnh
Hất nhẹ đong đưa viền áo cao
sang.
Nhanh nhẹn quí phái, đôi chân tuyệt
mỹ
Tôi ngây dại, say mê như kẻ dị
thường
Uống trong mắt nàng bầu trời
báo bão
Êm dịu mê hồn, lạc thú sát nhân.
Một tia chớp, rồi đêm đen. Ôi
sắc đẹp thoáng qua
Mà tia nhìn bỗng làm tôi sống
lại
Gặp nàng nữa, hẳn phải chờ
đến thiên thu?
Nơi nào khác, xa xôi, quá trễ hay
chẳng bao giờ
Tôi không biết nơi nàng đi, nàng
không biết nơi tôi đến
Nàng lẽ ra tôi đã yêu, nàng cũng
biết rồi đấy.
Bài này được trích từ thi phẩm
LES FLEURS DU MAL, nhan đề gợi ra nhiều ý nghĩa bởi nó dựa
trên một " nghịch hợp " ( oxymore ) tức là sự kết hợp giữa
hai khái niệm đối lập nhau.
Fleurs bao hàm ý nghĩa vẻ đẹp.
Mal bao hàm ý nghĩa đau đớn, khổ
sở, tội lỗi.
Cả hai nối với nhau bằng giới
từ " de " chỉ sự lệ thuộc giữa hai khái niệm đó: bông
hoa sinh ra từ tội lỗi ( trong rất nhiều nghĩa của từ mal,
người viết chọn nghĩa này ), bông hoa là vẻ đẹp chiết
xuất từ tội lỗi. NHỮNG BÔNG HOA CỦA TỘI LỖI.
LES FLEURS DU MAL là tập thơ được
viết trong những năm từ 1840 đến 1857, là năm xuất bản.
Ban đầu nhan đề là les Lesbiennes, ( Những kẻ đồng tính
luyến ái)
rồi đổi thành les Limbes, ( Lãng
quên ) cuối cùng mới mang tên như hiện nay.
Tập thơ tiêu biểu cho trường thơ
hiện đại. 168 bài thể hiện sự chấm dứt lối thơ cổ
điển khắt khe trước đó. Nhiều hình thức diễn đạt nêu
bật tầm vóc biểu cảm và nhiều sắc màu, những hình ảnh
mới hiện ra trước mắt người đọc. Lần đầu tiên xuất
hiện khái niêm " spleen" hoà lẫn sự chán chường và lo âu,
cũng lần đầu tiên bộc lộ sự tìm kiếm Cái Đẹp và lý
tưởng. ( Baudelaire mượn từ tiếng Anh spleen để diễn tả
ý niệm về tình trạng trầm cảm tận cùng này. Trong tiếng
Anh, spleen là " lá lách", có liên quan đến thuyết của Hippocrates
về sự thay đổi tâm trạng bắt nguồn từ các dịch của
cơ thể. Lá lách của con người bài tiết một chất lỏng
được gọi là mật đen, black bile, nếu được sản xuất
quá mức, chất này gây ra tâm trạng u sầu.)
Giữa hình thức thể thơ sonnet và
thơ mới, bộc lộ hiện tượng hoà hợp cảm giác, sự tương
ứng ( correspondance) giữa hương thơm, sắc màu và âm thanh.
Thi phẩm vừa xuất bản đã gặp
phản ứng mãnh liệt, một bài báo lên tiếng chỉ trích. Và
ngay lúc đó, tổng kiểm soát trưởng của Đệ nhị đế chế
ra lệnh thu hồi tập thơ. Một tháng sau, Baudelaire phải ra
hầu toà vì tập thơ bị cho là " vi phạm đạo lý chung và
thuần phong mỹ tục. Ông bị phạt 300 francs, tác phẩm được
xuất bản nhưng phải loại bỏ 6 bài. Những người ủng hộ
ông cố tìm cách đề xuất xét lại vụ án. Cuối cùng tập
thơ được tuyên án vô tội, Baudelaire được phục hồi danh
dự ( tiếc thay án tuyên ngày 31/5/1949, nghĩa là 80 năm kể
từ ngày ông qua đời.
Toàn bài thơ gồm 126 bài được
sắp xếp thành sáu phần, mở đầu là bài Au lecteur, ( Gởi
độc giả ) như một lời tựa. Nhiều chủ đề khác nhau nói
rõ trong nhan đề mỗi phần. Baudelaire đã gởi gắm tâm sự
qua nhiều bài, rõ nhất là bài L’albatros ( Chim hải âu ),
vai trò và số phận của nhà thơ trong xã hội.
Le Poète est semblable au prince des
nuées
Qui hante la tempête et se rit de
l’ archer,
Exilé sur le sol au milieu des huées,
Ses ailes de géant l’empêchent
de marcher.
Người thi sĩ khác nào đế vương
trên chín tầng mây
Bay trong bão táp sá gì người
giương cung bắn
Bị đày xuống mặt đất giữa
tiếng hò hét
Đôi cánh khổng lồ ngăn trở
bước chân đi.
Baudelaire chính là người bị đày
xuống trần gian với cuộc sống đầy gian truân sóng gió.
Ông chào đời (1821) khi cha ông đã
62 tuổi và mẹ mới 27. Cha vốn là linh mục có tuyên thệ,
nhưng chuyển sang làm hoạ sĩ rồi chánh văn phòng quốc hội.
Mẹ là nội trợ, lấy cha khi vợ ông vừa mất. Sáu năm sau
Baudelaire mồ côi cha. Năm sau, mẹ đi bước nữa với một
sĩ quan. Chỉ mấy năm ở bên cha, Baudelaire vẫn kịp nhận
ở cha những điều quý giá, nhất là tình yêu nghệ thuật.
Ông đã được cha dẫn đi thăm các viện bảo tàng mỹ thuật.
Nhờ đó mà ông sớm chiêm nghiệm về nhân tình thế thái,
nhận thức được vai trò của văn chương nghệ thuật. Và
từ đó sớm xuất hiện nhà phê bình nghệ thuật Baudelaire
trước khi có nhà thơ Baudelaire.
Baudelaire rất thương mẹ và không
tán đồng việc tái giá của bà nên rất ghét cha dượng,
ông trách mẹ đã làm mờ đi những kỷ niệm về người cha.
Tuy nhiên cha dượng không phải là người độc ác. Có điều
là ông ham thích địa vị và ao ước con riêng của vợ sẽ
có cuộc sống nề nếp, một nghề vẻ vang. Từ đó Baudelaire
căm ghét lý tưởng của giới tư sản.
Năm 1839, ông bị đuổi khỏi trường
vì không chịu tố cáo một người bạn. Năm này ông đỗ
tú tài. Đủ tuổi trưởng thành, ông được trao phần gia
tài cha để lại. Ông liền chạy theo thời thượng, ăn diện
ngất trời, mua sắm hàng hiệu. Thậm chí ông còn đi lại
chơi bời với các cô gái điếm hạ cấp đến mắc bệnh
giang mai. Tiêu xài quá mức nên có nhiều món nợ lớn. Từ
điều kiện sống khá giả ông biến thành con nợ và cuộc
sống chật vật hết mức. Năm 1841, cha dượng muốn uốn nắn
ông, cho ông đi một chuyến dài trên biển từ Pháp đến Ấn
độ, để ông thấy ngư dân và thủy thủ phải lao động
nhọc nhằn mới có miếng ăn. Chỉ một năm sau ông trở về
Paris. Trên đường về, ông gặp Jeanne Duval, người phụ nữ
lai, gốc từ một hòn đảo nhiệt đới nào đó thuộc địa
của Pháp. Ông đã sống với mối tình đầy sóng gió trong
23 năm với người mà ông gọi là " Vệ nữ đen " vì màu da
của nàng. Bà là nguồn cảm hứng cho nhà thơ. Dù sau này Baudelaire
còn gặp gỡ và đem lòng yêu một số phụ nữ khác như Mme
Sabatier và Marie Daubrun nhưng trong suốt cuộc đời, ông vẫn
giữ quan hệ gắn bó với Jeanne.
Tiền cạn dần ông phải làm việc
cật lực mới đủ sống. Công việc của ông là viết báo
và dịch thuật. Ông chọn dịch một tác giả đồng điệu,
nhà văn Mỹ Edgar Allen Poe ( 1809-1849 ). Ông dành 17 năm để
dịch gần như toàn bộ tác phẩm của người ông quý chuộng
và công bố tác phẩm dịch Truyện lạ thường ( Histoires extraordinaires
). Nhờ ông mà Edgar A. Poe gần như vô danh ở Mỹ đã chói
loà từ Pháp ra toàn thế giới.
Nhưng Baudelaire vẫn không ngừng
sáng tác, từ 1852 đến 1864 là thời kỳ sáng tạo dồi dào
nhất. Les Fleurs du Mal ra đời trong thời gian này. Ngoài ra,
ông còn cho ra mắt một tiểu luận về hậu quả của ma tuý,
gây được tiếng vang lớn. Ông chuyển sang loạt bài phê bình
về hội họa, âm nhạc và mỹ học. Không dừng ở đó, ông
làm những bài thơ văn xuôi, xuất bản với nhan đề le
Spleen de Paris- Petits Poèmes en prose" ( Tâm trạng spleen ở
Paris- Những bài thơ nhỏ bằng văn xuôi ).
Ông có làm đơn xin vào Viện Hàn
Lâm Pháp nhưng không được ủng hộ nên ông rút đơn.
Những thất bại liên tiếp khiến
ông chán chường, quyết định sang Bỉ thực hiện những buổi
nói chuyện và thương lượng việc xuất bản tác phẩm. Lại
thất bại nữa, ông viết bài chỉ trích nước Bỉ nhưng lại
nhất định chỉ trở về trong sự vẻ vang.
Năm 1866, còn đang ở Bỉ, ông bị
chứng bệnh giang mai hành, gây nên những cơn đau đầu và
đau dây thần kinh. Ông ngất xỉu tại Namur và bị bại liệt.
Được đưa về Paris, Baudelaire qua đời ngày 31-8-1867, lúc
chỉ bốn mươi sáu tuổi. Cuộc đời một người tài hoa đã
kết thúc đau buồn như thế.
Khác với Victor Hugo với rất nhiều
tác phẩm để lại, Baudelaire, ngoài các lĩnh vực phê bình
và dịch thuật, riêng nói về thơ thì có thể nói rằng Les
Fleurs du Mal là tác phẩm duy nhất của ông. Và Baudelaire vẫn
là một khuôn mặt lớn, người đã đưa thi ca Pháp ra khỏi
trường phái lãng mạn, và được xem là người mở đường
cho trường phái biểu tượng, cho nền thi ca hiện đại của
Pháp. Tuy cuộc đời ngắn ngủi, tác phẩm để lại không
nhiều, Baudelaire vẫn có tầm cỡ lớn khiến ông trở thành
một tên tuổi lớn của văn học thế giới. Hiện nay, Baudelaire
là đề tài của nhiều luận án tiến sĩ. Năm 2002, Claude Pichois
cho ra mắt cuốn Dictionnaire Baudelaire.
Tại Việt Nam nhiều nhà thơ trẻ
của nhóm thơ mới cũng chịu ảnh hưởng sâu sắc từ nhà
thơ Pháp.
THÂN
TRỌNG SƠN
dịch và giới
thiệu.
Tháng 10/2022.