Tác phẩm ra
mắt bạn đọc trên Tạp chí phụ nữ Fujin Gahô số tháng
5/1958 và được chọn để đưa vào sách giáo khoa bậc trung
học Nhật năm 1981.
The
Veil of Veronica (Georges Rouault)
Buổi
chiều cách đây hai ba hôm, sau khi mệt mỏi vì công việc,
tôi bất chợt nẩy ra ý định đến viếng thăm một phòng
triển lãm tranh. Tình cờ là phòng tranh ấy đang trưng bày
các tác phẩm di cảo của Rouault (1), một danh họa Pháp chuyên
về tranh Ki Tô Giáo và vừa mới mất hồi năm ngoái.
Vì đó là buổi
chiều một ngày trong tuần, phòng tranh càng thêm vắng lặng.
Ngoài tôi ra chỉ có bốn, năm người khách dừng chân lại
trong căn phòng sâm sẩm tối, hoặc đứng một chỗ hoặc chậm
rãi bước qua bước lại. Ở góc phòng, một thiếu nữ đầu
đội mũ bê-rê màu đỏ đang đứng trước một bức tranh
và chăm chú nhìn nó.
Từ xa vọng lại
tạp âm của khu phố và những hồi còi xe hơi. Tôi bèn ngồi
xuống chiếc ghế cho khách tạm nghỉ chân, lim dim đôi mắt
suy nghĩ bâng quơ. Và trong khi nghe ngóng những tiếng động
sinh hoạt của khu phố lúc chiều về, bỗng nhiên ký ức một
buổi hoàng hôn từ nhiều năm trước ở Paris, lúc tôi cũng
đi xem một cuộc triển lãm tranh của nhà danh họa Rouault,
như sống lại trong ký ức.
Ừ, phải rồi...buổi
chiều hôm đó, người đi xem cũng thưa thớt và gian phòng
cũng vắng lặng như hôm nay ấy nhỉ? Và một số bức tranh
mình xem hôm đó thì ngày nay đã vượt qua mấy biển để
về tới nước Nhật xa xôi này. Nhớ lại những chi tiết
không đâu vào đâu như thế rồi mở mắt ra nhìn, tôi mới
thấy cô gái đội bê-rê đỏ vẫn còn đứng nguyên chỗ đó,
bị thu hút bởi bức tranh mà cô đã say sưa ngắm nãy giờ.
(Không hiểu cô
đang xem bức tranh nào vậy ta?)
Tôi bị thôi thúc
bởi lòng hiếu kỳ nên đã thử bước lại gần cô gái xem
sao. Vẫn thấy thiếu nữ đứng lặng người, đăm đăm nhìn
vào bức trang như kẻ bị thôi miên.
Bức tranh cô đang
ngắm nghía nhan đề Veronica vẽ hình ảnh của chúa Ki Tô đầu
đội mão tết bằng gai, chịu đựng bao thương khó, với ánh
mắt nhìn về phía người xem tranh như đang chực bày tỏ điều
gì. Dĩ nhiên, không nói cũng hiểu, đó là vẻ mặt đầy cay
đắng xót xa của Đức Chúa gánh trên vai cây thập tự giá,
khi bị bắt leo lên ngọn đồi Golgotha giữa tiếng chửi bới
và sỉ nhục đầy phẫn nộ của đám đông.Thế nhưng hình
ảnh xanh xao và nhuốm đầy bi thương này lại là cái mà họa
gia Rouault yêu thích vì ông đã vẽ một loạt tranh với nhan
đề "Veronica" hoặc là "Vuông khăn của Veronica"...
***
Veronica là tên một
phụ nữ. Bà được sinh ra trong hoàn cảnh như thế nào thì
ngày nay chúng ta không ai biết tới. Điều chúng ta có thể
biết là Veronica vốn bắt nguồn từ Berenice, tên gọi của
phụ nữ Hy Lạp và được đọc trại đi.
Thời điểm đó
là khoảng 11 giờ sáng ngày thứ sáu mùng 7 tháng 4 năm 30 sau
kỷ nguyên. Chắc quí độc giả không cần phải nghe giải
thích thêm chi nhiều về việc ngày hôm đó chúa Ki Tô và hai
tù nhân đã được phán xử là sẽ bị hành quyết trên ngọn
đồi Golgotha (2). Vì cớ đó họ đã phải vác thập tự giá
và đi bộ một đoạn đường khoảng nửa cây số phủ đầy
sỏi đá, chạy ngoằn ngoèo từ dinh thự của quan Tổng trấn
Pilate cho đến nơi ấy. Theo ký lục còn ghi lại thì thập
tự giá này được biết là vật kết hợp từ hai khúc gỗ,
chiều dọc độ 10 shaku (hay 30, 3 cm x 10) và chiều ngang độ
7 shaku (hay 30, 3 cm x 7) và nặng khoảng 70 ki lô. Đương thời,
mỗi kẻ thụ hình đều bị bắt buộc vác cây thập tự dành
cho mình đến địa điểm hành quyết.
Sau những đêm mất
ngủ vì phải chịu bao nhiêu thẩm vấn, mệt mỏi đến cùng
cực, lại thêm roi vọt tàn nhẫn, mất nhiều máu, còn phải
vác cái thập giá nặng 70 ki lô này trên vai mà bước đi thì
đó quả là một công việc quá tàn nhẫn đối với chúa Ki
Tô.
Khác với Nhật
Bản, tháng 4 ở xứ Giu Đê (Judea) (3) trời vô cùng nóng. Vả
lại đoạn đường chúa đi - như người ta ghi lại - vốn
"bắt đầu từ núi Moria xuống một vùng đất trũng rồi khi
đến cửa Tây của kinh thành lại phải leo lên một con dốc
rất gắt". Đi đầu đoàn người là một kẻ mở đường,
anh vừa rao cho đám người đến dự khán tên tuổi và tội
trạng của những người bị hành quyết. Đằng sau anh ta là
một toán lính La Mã xếp thành hàng. Phía sau họ, một nhóm
vừa người lớn vừa con nít mang theo đinh, giây thừng và
chùy sắt cùng tiến tới. Cuối cùng là hai tên tù cùng với
chúa Ki Tô, đang lê lết với đôi bàn chân đẫm máu và những
bước chân xiêu vẹo. Đầu chúa đội mão tết bằng gai, máu
rịn xuống gò má và bộ râu làm cho cả mặt mày biến dạng
không sao nhìn được rõ. Trong lúc Chúa đang liêu xiêu, mỗi
lần quệt mồ hôi và thốt ra vài tiếng rên rỉ từ cái cố
họng đã khô cháy vì cơn khát, bọn lính kia đã vung cao ngọn
roi.
Con đường bắt
đầu từ chỗ dinh thự của Pilate, qua ngọn đồi nơi một
ngôi đền thần được dựng lên, đổ xuống dốc và về
hướng Tây. Được chừng 200 mét, nó gặp một con đường
lớn. Rẽ qua đường này và đi thẳng chừng nửa cây số
là đến ngọn đồi Golgotha. Trên đường, chúa Ki Tô đã ngã
xuống không biết bao lần và điều này cho thấy sự thống
khổ ông phải nếm trải là nhiều đến ngần nào.
Mỗi lần chúa Ki
Tô ngã, dân chúng hai bên đường không ngớt buông lời thóa
mạ. Đó là chuyện đáng buồn nhưng trong một trường hợp
như thế này, quần chúng thường bộc lộ cái bản năng dã
man nguyên thủy của họ. Mới đây khi lính Nazi tấn công những
gia đình Do Thái vốn chẳng có tội tình gì, quần chúng chẳng
đã phụ họa trước những hành vi tàn khốc của chúng đấy
sao? Ngày hôm đó, chúa Ki Tô càng rên rỉ bao nhiêu, càng ngã
xuống chừng nào thì như chúng ta có thể mường tượng, bản
chất hung bạo của quần chúng càng bị kích thích thêm chừng
nấy.
Khi lên được tới
ngọn đồi, một lần nữa, chúa Ki Tô lại khuỵu đầu gối
và coi bộ không còn đủ sức để đứng lên trở lại. Thấy
thế, người ta bèn cho gọi một nông dân tên là Simon đến
nhấc hộ một bên thập giá cho chúa. Simon không kháng cự
mệnh lệnh. Có lẽ vì ông sợ là nếu từ chối công việc
khổ sở này, người ta sẽ đánh đập hay sát hại mình cũng
nên. Hoặc giả ánh mắt của một người không còn chút sức
lực kia đang buồn bã hướng về ông như muốn nhờ ông giúp
đỡ và cái dáng dấp đau khổ của chúa Ki Tô đã làm dậy
lên trong tấm lòng chất phác của ông một sự đồng tình.
Nhờ có sự giúp sức đó mà cái thập giá bị đổ lăn mãi
rồi cũng được nhấc lên và chúa Ki Tô bắt đầu di chuyển
trở lại với những bước chân chậm chạp.
Thì vào giữa lúc
ấy....
Từ dưới bóng
vài túp nhà bên vệ đường ở phía tay trái, có một bóng
đàn bà đang vội vã chạy đến.
Trong cuốn "Truyện
chúa Ki Tô" của P. Bert, ông đã mô tả cảnh tượng đó như
sau đây:
"Người phụ nữ
đó không đếm xỉa gì đến sự can thiệp của toán lính
đang muốn chắn lối, tiến đến gần bên chúa Ki Tô, nhìn
dáng dấp không còn nhìn ra nổi ấy một hồi rồi lấy vuông
khăn mình đang bịt trên trán để lau mồ hôi, nước dãi và
vệt máu đang đầm đìa trên khuôn mặt của ông. Từ đôi
mắt Ki Tô đang nhìn bà thoáng hiện một ánh cám ơn".
"Sau đó, người
đàn bà ấy trở về nhà mình và nhìn lại vuông khăn thì
nhận ra có khuôn mặt chúa Ki Tô trên đó và nó đã in nguyên
vẹn cái dáng xanh xao, buồn rười rượi của ông. Khi các
thánh tông đồ chép lại câu chuyện này để ghi nhớ, đã
gọi tên người phụ nữ ấy là Veronica".
Đó là nàng Veronica
mà chúng ta biết tới. Rouault cũng như nhiều họa sĩ khác
đã vẽ y nguyên hình ảnh thống khổ của chúa Ki Tô như những
điều họ thấy trên vuông khăn của người đàn bà.
Như đã trình bày
bên trên, ngày nay chúng ta không ai biết gì về thân thế và
cảnh ngộ của người phụ nữ này. Ban đầu, bà ta xuất
hiện trong sách của Thánh Lucas với cái tên là người đàn
bà ở Bethania (4) và được phỏng đoán là nàng Martha? Tuy
nhiên, có thuyết lại cho rằng bà là một phụ nữ đã được
chúa Ki Tô chữa cho lành một chứng gọi là "bệnh xuất huyết"
(chirô). Nếu đúng là người đàn bà được Chúa chữa lành
bệnh xuất huyết thì chúng ta hãy dựa vào sách của thánh
Marco để thử tìm hiểu về quá khứ của nàng.
"Có người đàn
bà bị bệnh xuất huyết dai dẳng 12 năm trời" - như sách
của thánh Marco, chương 5 từ câu 25 cho đến 34) - đã đi gặp
nhiều thầy thuốc và chịu bao điều cực khổ, tiêu phí hết
tài sản nhưng bệnh chẳng những không thuyên giảm mà càng
ngày càng nặng thêm lên. Người đàn bà này nghe tiếng chúa
Ki Tô nên đã lẩn vào trong đám đông, đến từ sau lưng mà
sờ vào vạt áo của Chúa. Lý do là bà nghĩ rằng chỉ cần
sờ vào vạt áo của Chúa thôi thì sẽ được lành bệnh....Tức
thời huyết không còn chảy và người đàn bà cảm thấy thân
thể mình hoàn toàn sảng khoái. Chúa bèn phán với người
đàn bà đó: "Này con gái ta! Chính đức tin của con đã cứu
được con đấy! Hãy yên tâm và đi đi".
Dĩ nhiên chúng ta
không có bằng cớ chính xác để khẳng định rằng người
đàn bà bị bệnh xuất huyết được chúa làm phép lạ chữa
lành kia chính là Veronica. Nếu bạn muốn biết cảm tưởng
của bản thân tôi thì tôi xin thưa rằng dù người đàn bà
đó là ai, tôi cũng không cần biết tới. Tôi chỉ biết người
phụ nữ ấy đã trà trộn trong đám đông và chứng kiến
cái dáng bước đi thống khổ của một tù nhân sắp bị đem
ra xử tử. Có thể bà ta không hề biết chúa Ki Tô là người
như thế nào cả. Và như thế là cũng đã đủ.
Duy có một điều
là lúc đó trong lồng ngực của bà, một tình cảm trắc ẩn
(renbin) đang trào lên mãnh liệt. Cảm tình đó đã vượt lên
trên những lời thóa mạ của đám đông cũng như bạo lực
ngăn trở của đám lính canh khiến bà có thể chìa bàn tay
mình về phía người đàn ông đang gặp khổ nạn. Và như
thế thôi cũng đã đủ rồi.
Vì lẽ đó mà đọc
những ký lục ghi lại cảnh tượng ngày chúa Ki Tô tuẫn nạn,
chúng ta đã cảm thấy đau khổ đến nghẹn ngào khi nhận
ra rằng loài người chúng ta cũng như quần chúng đều mang
trong lòng một tình cảm hung bạo và sự yếu đuối không
sao hiểu nổi. Nó làm cho chúng ta liên tưởng đến tâm lý
con người trong thời đại chiến tranh vừa qua. Lúc ấy, trong
bầu không khí sợ hãi bao trùm lên tất cả, chỉ có một
người đàn bà duy nhất dám đứng ra để che chở cho đồng
loại. Điều đó đã khiến cho chúng ta cất được một tiếng
thở phào. Hình như nó dạy rằng cho dù xã hội và quần chúng
có sa đọa đến mức nào, chi cần sự tồn tại nhỏ bé của
Veronica thôi, đã đủ giúp cho chúng ta vững lòng tin là trên
đời này, hãy còn có một tấm lòng nhân ái.
Năm năm về trước,
trong khi đang du học ở Pháp, tôi đã được kể cho nghe về
một câu chuyện đã xảy ra trong một vùng núi non phía Nam
nước Pháp, không xa Ardèche là bao nhiêu.
Vào một hôm, có
anh lính Đức nọ, sau khi giao chiến với những thành viên
của lực lượng kháng chiến Pháp đã bị trọng thương. Thoát
thân được nhưng không biết trốn ở đâu, anh vào nấp bên
trong kho lúa của một nông dân người Pháp.
Người khám phá
ra sự hiện diện của anh là một nội trợ nhà quê. Bà khổ
sở vì đang lưỡng lự giữa việc bắt kẻ địch giao cho
phe ta hay cứ để anh trốn ở đây đến khi vết thương được
lành. Cho anh ta nấp có nghĩa là phản bội làng nước và đồng
bào của mình. Và lúc đó, bà sẽ có nguy cơ bị đem ra phán
xử như một kẻ đã tiếp tay cho giặc.
Thế nhưng cảnh
người lính Đức trẻ máu me bê bết đang cất tiếng rên
rĩ đã khơi dậy trong lòng bà một tình cảm trắc ẩn. Bà
bèn cho thuốc, mang thức ăn tới và trong suốt một tuần lễ,
tiếp tục che dấu người lính đó.
Khổ là một ngày
kia, bí mật của bà đã bị những thanh niên trong làng phát
hiện. Bọn thanh niên không những đem anh tù binh Đức ra giết
không cần xét xử mà lại giết luôn bà nội trợ kia trong
khi họ không ngớt lời thóa mạ là "con đàn bà phản quốc".
Thi thể của bà bị ném xuống một cái giếng cũ ở ngoài
đồng, cách xa xóm làng.
Veronica cũng có
ở đây nữa. Tấm lòng của người đàn bà trong cuộc đã
vượt cao hơn cái đạo lý (moral) xã hội và đạo lý chính
trị do bọn đàn ông đặt ra. Nó đẹp đẽ và rực rỡ xiết
bao! Hình như bức tượng đầy vẻ sầu muộn của bà ngày
nay hãy còn được dựng lên để tô điểm lối vào ngôi làng
nhỏ đó. Thế rồi, phía bên dưới bức tượng, người ta
đã khắc một dòng chữ với nội dung như sau: "Hơn cả chúng
tôi, bà mới là một người Pháp đúng nghĩa. Bà là một con
người..."
Dịch
ngày 9/7/2022
|