Một cảnh
hoang tàn sau Thế chiến thứ II
Truyện ngắn này gồm một
phần chính đã được đăng ở tạp chí Sekai (Thế giới)
số tháng 2 1946 kết hợp với hai phần phụ đều có nhan đề
là Kako (Quá khứ) trong Tạp chí Bungei Shunjuu (Văn nghệ xuân
thu) số tháng 6 và 7 cùng năm.
Bối cảnh của câu chuyện
là vùng Kamakura, một thành phố lịch sử nằm cách Tôkyô
khoảng trên 40 cây số, cũng là nơi Kawabata đã định cư sau
thời chiến. Những từ "quá khứ", "hiện tại", "sống", "tái
ngộ"... trong truyện này đều mang một ý nghĩa đặc biệt
vì nó miêu tả tâm trạng của những người vừa mới "thoát
nạn" hay tỉnh dậy sau một cơn ác mộng. Trong một hoàn cảnh
như vậy, nhân vật Yuuzô đã có dịp nhìn về quá khứ khi
tình cờ gặp lại Fujiko, người tình cũ lâu ngày không tin
tức.
***
Sau khi bại trận, dường như
cuộc đời của Atsugi Yuuzô chỉ bắt đầu tiếp tục từ
ngày tái ngộ Fujiko; đúng hơn phải nói đó cũng là ngày anh
gặp lại chính mình.
"Ôi chao. Nàng còn sống kia
kìa!" Khi nhìn thấy Fujiko, anh không khỏi ngạc nhiên. Đó là
sự ngạc nhiên đơn thuần, bên trong không có một niềm vui
hay nỗi buồn nào lẫn lộn.
Phút giây nhận ra hình dáng
của Fujiko, Yuuzô không thể nghĩ rằng nàng là một con người
hay vật thể. Chỉ vì anh đang gặp lại quá khứ của mình.
Quá khứ ấy đã mượn hình vóc của Fujiko để hiện ra trước
mắt anh. Anh cảm thấy Fujiko tuy là vật cụ thể nhưng đã
đến từ một quá khứ trừu tượng
Tuy nhiên, nếu quá khứ đã
mượn hình vóc của Fujiko để tiếp tục sống thì quá khứ
nay đã trở thành hiện tại.Việc quá khứ kết hợp với
hiện tại đang xảy ra trước mắt anh đã làm cho Yuuzô kinh
ngạc.
Cái đã cắt Yuuzô ra khỏi
quá khứ và hiện tại vốn có tên là chiến tranh. Dĩ nhiên
chiến tranh là nguyên do khiến Yuuzô ngạc nhiên đến bàng
hoàng khi gặp lại người đàn bà. Có thể nói là cái ngạc
nhiên của anh đến từ sự phục sinh của một hình bóng chiến
tranh đã chôn vùi.Nào ngờ những ngọn sóng cuồng loạn của
phá hoại và giết chóc đã không tiêu diệt nổi mối ràng
buộc mong manh giữa đôi thanh niên nam nữ.
Yuuzô phát hiện được Fujiko
sống sót mà như phát hiện được sự sống của chính mình.
Anh đã chia tay với người
con gái này cũng như quá khứ của mình một cách êm thắm
và ngỡ rằng, nếu sống với cuộc chiến tranh đang xảy ra,
mình có thể quên lãng cả hai. Thế nhưng đời con người
ta lại là một dòng chảy liên tục kể từ lúc lọt lòng.
Yuuzô tái ngộ Fujiko khoảng
hơn hai tháng sau khi Nhật Bản tuyên bố đầu hàng, lúc mà
mọi người hầu như đã đánh mất khái niệm về thời gian.
Đó là giai đoạn mà đối với rất nhiều người, quá khứ,
hiện tại cũng như tương lai của đất nước và của cá
nhân đều đã giải thể để sa vào vực xoáy của sự hỗn
loạn và họ hầu như đều bị chết đuối trong.
Yuuzô bước xuống ga Kamakura
và khi anh ngẩng đầu nhìn lên hàng cây tùng cao trên đại
lộ Wakamiya, đã cảm thấy được dòng chảy bình lặng hài
hòa của thời gian đang trôi về hướng những đỉnh cây.
Trong một thành phố bị tàn phá vì ngọn lửa chiến tranh
như Tôkyô, người ta thường bỏ qua cơ hội theo dõi sự thay
đổi của thiên nhiên theo bước mùa đi. Kể từ hồi chiến
tranh, những thân tùng chết héo xuất hiện khắp nơi như vết
nám trên thân thể người bệnh để báo điềm gỡ cho vận
mệnh đất nước. Tuy vậy, những cây tùng ở Kamakura này
hãy còn đầy sinh khí.
Sở dĩ Yuuzô tìm đến đây
vì anh vừa nhận tấm bưu thiếp của một người bạn, dân
Kamakura, cho biết sắp có một buổi lễ gọi là Bunboku (Văn
Mặc) [1]
được tổ chức ở đền Tsurugaoka Hachiman [2].
Khởi đầu từ một câu thơ của Shôgun Sanetomo [3],
người ta đã đặt ra lễ này để chứng tỏ - ít nhất như
một ao ước – là vị thần chiến tranh như Hachiman cũng có
thể đem lại một chế độ chính trị mới và tốt đẹp.
Từ khi hòa bình lập lại, người ta không còn thấy những
kẻ chen chúc đến xem lễ hòng cầu thần lập được chiến
công hay thu lượm nhiều chiến thắng.
Sau khi đến trước khu văn
phòng của đền, Yuuzô mắt sáng rỡ khi thấy ở đó một
đám các cô tiểu thư xúng xính trong những chiếc áo kimono
tay thụng (furisode) [4].
Trong khi hầu hết những người khác vẫn còn chưa cởi những
bộ áo lính cũ kỹ hay bộ đồ tỵ nạn mặc dưới mấy trận
mưa bom, màu sắc của thứ kimono tay thụng mặc trong những
dịp lễ lạt của các cô phải nói là có hơi sặc sỡ.
Mấy anh lính của lực lượng
chiếm đóng [5]
cũng được mời đến tham dự ngày hội. Các cô ăn mặc đẹp
là để ra mời họ uống trà. Có lẽ những anh lính Mỹ trẻ
vừa đổ bộ này mới được nhìn áo kimono lần đầu tiên
trong đời. Họ có vẻ thấy lạ nên đua nhau bấm máy ảnh.
Ngay Yuuzô cũng vậy, chỉ cách
đây ba bốn năm thôi, anh cũng không thể tin sẽ có những
phong tục mới mẻ như thế này. Anh được hướng dẫn vào
chỗ khách ngồi của địa điểm cử hành buổi trà đạo
vốn nằm ngoài trời đằng sau một lùm cây. Anh thật ngạc
nhiên khi chứng kiến sự dạn dĩ và năng động của các cô
tiểu thư áo xống lòe loẹt này giữa một đám đông toàn
những người ăn mặc xập xệ và buồn thảm. Làm như màu
sắc hoa mỹ của những bộ quần áo hội hè đã ảnh hưởng
lên dung mạo và thái độ của các cô và bắt đầu kéo anh
ra khỏi dòng suy tưởng.
Chỗ uống trà được đặt
giữa lùm cây. Mấy anh lính Mỹ đã ngoan ngoãn ngồi thành
hàng, dọc theo một cái bàn gỗ tạp hẹp và dài mà người
ta thường thấy ở các đền Thần Đạo và đang ngây người
ra chờ đợi với một vẻ hiếu kỳ. Vài cô bé trên dưới
mười tuổi bưng nước trà loãng ra mời họ.Những bộ áo
có vẻ mô hình chấm phá nho nhỏ và cung cách nghiêm trang của
các em làm cho Yuuzô nghĩ rằng chúng đang đóng mấy vai đào
con trong một pho tuồng cổ. Còn như tấm kimono tay thụng với
dải lưng obi quấn cao của một em lớn hơn trông ngỡ ngàng
và mâu thuẫn với cuộc sống đang xảy ra. Kiểu áo lành mạnh
của các cô bé con nhà nền nếp này, ngược lại, đã gieo
vào lòng Yuuzô một ấn tượng buồn bã lạ lùng.
Lý do là khi nhìn lại, anh thấy
màu sắc và mẫu hình sặc sỡ trên áo xống đời nay như
có gì tục tằn và dã man. Nó làm cho anh nghĩ không lẽ công
nghệ chế tạo kimono lẫn sở thích ăn mặc trước thời chiến
tranh đã xuống dốc đến mức này sao. Về sau, khi anh so sánh
nó với quần áo của các nàng vũ công thì ấn tượng này
còn mạnh mẽ hơn nữa.
Màn múa được diễn ra ở
điện diễn vũ nằm bên trong đền. Xưa kia, khi trình diễn,
các nàng vũ công phải mặc trang phục đặc biệt, trong khi
những cô khác chỉ cần ăn mặc kiểu thông thường. Ngày
nay thì các cô đi dự hội lại chưng diện cực kỳ đặc
biệt làm như thể các cô ấy cũng là cái đích của người
xem. Nói về sự khác nhau so với thời tiền chiến thì không
những nó chỉ thể hiện qua phong tục mà ngay cả thân thể
nữa, các cô bây giờ có khuynh hướng để lộ ra quá mức.
Ngược lại, áo xống mặc khi múa thường sẫm màu nên còn
có phẩm cách.
Những điệu múa như Urayasu
no mai [6],
Shishimai [7],
Shizuka no mai [8],
Genroku hanami odori [9]
tuôn chảy vào lòng Yuzô như tiếng sáo hoài niệm một Nhật
Bản đã tiêu vong.
Một số chỗ được dành cho
khách mời tức là đám lính trong lực lượng chiếm đóng.
Yuuzô và những người khác được xếp vào góc phía tây cạnh
một cây bạch quả (ginkgo) cổ thụ tán lá hơi vàng úa.
Lũ trẻ con trong đám khách
thông thường tràn cả vào vùng dành cho nhóm khách mời đặc
biệt Với những đứa trẻ quần áo xơ xác, thê thảm đứng
dàn ra sau lưng, mấy bộ kimono lòe loẹt với ống tay thụng
của các cô tiểu thư trông chẳng khác nào những cánh hoa
đang bị nhúng vào ao bùn.
Trên mặt sàn và dưới chân
những cây cột sơn son trong điện nơi trình diễn vũ, mặt
trời chiếu xiên xiên in lên đó bóng những ngọn cây của
khu rừng tuyết tùng bên cạnh. Một cô con gái trong trang phục
kỹ nữ thời Genroku [10]
đang bước xuống khỏi mấy bậc thang điện vũ, làm như vừa
mới chia tay người tình hẹn hò sau một cuộc thưởng hoa
để về nhà một mình. Khi đưa mắt nhìn theo vạt áo dài
của nàng đang kéo lê trên sỏi cát, Yuuzô chợt cảm thấy
lòng buồn rười rượi.
Tấm kimono ấy, với lớp vải
bên ngoài phồng lên tròn trịa, phần bằng lụa sẩm màu lật
ra trọn vẹn, lại he hé cho thấy cả cái áo lót màu sáng
bên trong. Vạt dưới của nó mượt mà chẳng khác nào làn
da của một mỹ nhân. Như muốn cho thấy nét diễm tình và
định mệnh cuộc đời một nàng kỹ nữ Nhật Bản, nó khoan
thai kéo lê trên mặt đất để ban bố cái vẻ đẹp não nùng
của mình và đã phô bày trước mắt Yuuzô một nỗi đau thương
đượm màu nhục thể, tuy xa hoa nhưng tàn nhẫn.
Đối với Yuuzô, quang cảnh
bên trong ngôi đền lúc ấy sao mà tĩnh lặng, nó giống như
một bức bình phong mạ vàng.
Điệu vũ của nàng Shizuka Gozen [11]
là một điệu vũ thời trung cổ, còn điệu vũ thưởng hoa
thời Genroku là một điệu vũ cận đại. Thế nhưng, đôi
mắt Yuuzô, một người vừa sống qua cảnh chiến bại mới
đây, chẳng phân biệt được điệu vũ nào là của thời
nào..
Ánh mắt đuổi theo điệu múa
trên điện diễn vũ của anh cũng hướng về một chỗ, nơi
có khuôn mặt của Fujiko.
Sau khi thốt lên một tiếng
"Ôi chao!" vì kinh ngạc, ngược lại, Yuuzô đã thừ người
trong một thoáng, Lòng anh bỗng dậy lên một tình cảm đề
phòng như muốn nói: "Gặp lại con nhỏ này thì mệt lắm đây!".
Nghĩ thì nghĩ vậy nhưng anh vẫn biết rằng dù Fujiko còn sống,
cô chẳng phải là một kẻ địch có thể làm gì để hãm
hại anh đâu. Vì thế anh đã không lảng tránh đôi mắt của
cô.
Ngay lúc nhìn thấy Fujiko, sự
thương cảm đối với bộ trang phục cổ điển của nàng
vũ công đã biến mất trong anh. Không phải vì sự hiện diện
của Fujiko gây được ấn tượng mạnh mẽ đến mức đó.
Chỉ vì hình ảnh ấy đã đập vào đôi mắt anh, một người
đánh mất thần hồn vừa mới tìm lại trạng thái ý thức.
Hai dòng sinh mệnh và thời gian đã hiện ra và tiếp nối với
nhau trong tròng mắt anh đấy thôi. Thế rồi, trong một khe
hở của trái tim mình, Yuuzô cảm thấy có một cái gì ấm
áp dâng lên từ thân thể. Nó mang đến cho anh một tình cảm
thân mật thật sống động lúc con người gặp lại được
một bộ phận của chính mình.
Đôi mắt Fujiko đang mơ màng
đuổi theo hình dáng nàng vũ công nên chẳng để ý đến sự
có mặt của Yuuzô.Việc Yuuzô nhận ra Fujiko trong khi nàng không
hề hay biết về sự có mặt của anh khiến cho anh cảm lấy
lạ lẫm. Và anh còn lấy làm kỳ quái hơn nữa về quãng thời
gian nàng không nhận ra anh dù cả hai đứng cách nhau chưa đầy
hai mươi mét (10 ken).
Có lẽ thấy Fujiko vẫn đờ
đẫn như người mất hồn, Yuuzô không cần suy nghĩ lâu la
nữa, anh bật người đứng dậy và rời khỏi chỗ. (Đến
nơi), anh chuẩn bị tư thế đánh thức con người đang bị
thôi miên kia rồi bất chợt đưa tay đặt lên vai nàng:
-Này!
Mới đầu Fujiko nghiêng người
tựa hồ muốn ngã nhưng sau đó cô đã lấy lại thăng bằng.
Người cô run lên như bị điện giật và Yuuzô thấy cảm
giác đó truyền sang cả cánh tay mình.
-Anh còn sống đây nè? Ôi chao,
anh làm em giật bắn cả người. Khỏe chứ anh?
Fujiko đứng như trời trồng,
thân thể cứng nhắc. Thế nhưng Yuuzô lại có cảm tưởng
cô đang muốn ép người sát vào anh để được anh ôm lấy
trong vòng tay.
-Anh ở đâu?
-Hả?
Yuuzô không hiểu là cô muốn
hỏi anh nãy giờ đứng ở đâu để xem người ta múa hay muốn
hỏi từ khi chia tay cô, anh đã sống nơi nào giữa thời buổi
chiến tranh. Có khi anh chỉ nghe tiếng Fujiko mà không biết
cô đang nói gì!
Bao nhiêu năm rồi Yuuzô mới
nghe lại giọng của người con gái. Anh quên lửng là có một
đám đông đang bao quanh hai người. Anh chỉ biết mình đang
được gặp Fujiko, mặt đối mặt. Cái vẻ tươi tắn của
Yuuzô khi anh tìm thấy Fujiko đã được nàng cảm nhận và
nhân đôi trước khi gửi trả lại phía anh.
Nếu như Yuuzô kết nối lại
với người đàn bà này, nhất định anh sẽ đối mặt một
số vấn đề đạo đức và nhiều rắc rối trong cuộc sống
thực tế của hai người. Duy đó là điều do anh muốn chứ
nào có ai bắt buộc anh nắm lấy cơ hội này để nối lại
mối duyên đã một lần lở dở! Dù mới đây, một thoáng
nghi ngại còn lóe lên trong lòng khi nhìn lại khuôn mặt ấy
nhưng anh đã tiếp nhận nàng và hành động như một người
vừa nhẹ nhàng nhảy qua rảnh nước để bước vào cái thế
giới hãy còn tươi mới của bờ bên kia. Đó là một hiện
thực trong vắt, rõ ràng và đã cởi bỏ được mọi giây
trói.Anh chưa từng trải nghiệm cái cảnh quá khứ bỗng đột
ngột biến thành hiện thực như thế này. Dẫu có nằm mơ
anh cũng không dám nghĩ rằng một lần nữa, làn da của anh
và của Fujiko lại có thể đụng chạm để sống lại cùng
một cảm giác như trước đây.
Fujiko không có vẻ muốn trách
móc hay dày vò Yuuzô tị nào.
-Em thấy anh chẳng thay đổi
gì cả! Hoàn toàn không.
-Làm gì mà được như vậy,
em! Có thay đổi chứ
-Nói thật mà. Em không thấy
anh thay đổi gì cả.
Thấy Fujiko có vẻ xúc động,
Yuuzô mới hạ giọng:
-Thật hả em!
-Từ dạo đó...anh sống ra
sao?
Yuuzô thở hắt:
-Thì đi đánh nhau chứ sao!.
-Đừng có xạo! Anh trông không
có vẻ gì là người mới về từ chiến trường.
Những người đứng chung quanh
nghe thế không thể nhịn cười. Fujiko chẳng ngượng ngùng
gì, nàng bật cười theo đám đông. Mọi người không ai tỏ
ra muốn quấy rầy Fujiko. Ngược lại, họ còn có vẻ ưu ái
khi chứng kiến cảnh một đôi nam nữ bất ngờ tìm lại được
nhau và Fujiko cũng để mình buông thả vào trong cái không khí
vui vẻ ấm áp đó.
Bỗng nhiên Yuuzô thấy mình
lúng túng. Một vài thay đổi nơi Fujiko mà anh vừa phát hiện
bây giờ lại càng lộ rõ ra hơn nữa.Xưa kia mũm mĩm cơ mà,
sao giờ cô nàng lại gầy nhom! Nhất là đôi mắt lá dăm như
đang ánh lên một tia nhìn bất thường. Ngày xưa Fujiko tô
đôi mày thưa và hung hung của cô bằng mực màu đen nhưng
nay anh không còn thấy vệt đen đó nữa. Đôi má cũng mất
cả màu hồng và các bắp thịt như chảy ra làm cho mặt cô
trông bèn bẹt. Làn ra trắng chỗ từ phía cổ đi lên nay hơi
xạm đen. Bên dưới khuôn mặt mộc, từ cần cổ đổ xuống
hõm xương vai, bao nhiêu mệt mỏi dường đang đọng lại.
Có lẽ vì lơ là không chịu thu vén mái tóc dày cho gọn nên
cái đầu của nàng thấy bé lại dễ sợ. Chỉ có mỗi đôi
mắt là còn ánh lên như muốn làm chứng cho niềm vui và cảm
động vì được tái ngộ với người xưa.
Quan sát nàng, Yuuzô không còn
để ý về khoảng cách tuổi tác giữa hai người như hồi
đó, một điều có thể là duyên cớ khiến họ phải xa nhau.
Yuuzô giờ đây đã an lòng, không để ý đến chi tiết bất
tiện ấy nữa, anh chỉ ngạc nhiên khi thấy con tim mình vẫn
còn rung động như hồi trai trẻ.
Một lần nữa, Fujiko lại lên
tiếng:
-Anh có thay đổi gì đâu!
Yuuzô đi ra phía đằng sau đám
đông. Fujiko vừa theo chân vừa ngắm nghía khuôn mặt anh:
-Còn chị nhà thì sao anh?
Yuuzô không trả lời.
-Chị ấy...có mạnh giỏi không?
-Ờ...
-May quá! Thế còn mấy cháu?
-Ờ. Anh cho tụi nó sơ tán
hết.
-Vậy à? Ở đâu?
-Vùng thôn quê gần Kôfu.
-Còn nhà cửa của anh? Có giữ
được không?
-Cháy tiêu rồi.
-Kinh khủng! Nhà em cũng vậy.
-Bây giờ ở đâu?
-Tất nhiên là Tôkyô.
-Cái gì? Em ở Tôkyô à?
-Chớ anh muốn em ở đâu bây
giờ? Đàn bà con gái một thân một mình...Em không biết ở
đâu, đi đâu...
Yuuzô rùng mình như ớn lạnh.
Bất chợt, mặt đất chao đảo dưới chân anh.
-Em không đến nổi nghĩ là
nếu muốn chết thì lên Tôkyô mà chết có lẽ sướng hơn
đâu. Nhưng rõ ràng là trong thời chiến, mình thường có thái
độ dửng dưng, cho rằng có làm gì hay sống ở đâu cũng
chả sao. Em còn sức khỏe, đâu đã phải cứ buồn khổ hay
than vãn cho cảnh ngộ của mình!
-Không về dưới quê à?
-Có phải muốn về là về
được đâu, hở anh?
Nàng hỏi ngược lại Yuuzô
vì biết rằng nhất định là anh cũng đang đối phó với
những vấn đề tương tự. Thế nhưng câu nói của nàng có
vẻ như nũng nịu chứ không hàm ý trách móc.
Yuuzô hơi khó chịu cho mình
vì đã vô ý khơi lại vết thương cũ. Thế nhưng lúc đó
Fujiko có lẽ còn chưa thoát khỏi sự tê liệt do ảnh hưởng
cuộc chiến. Yuuzô e sợ cái phản ứng khi nàng hồi tỉnh
từ trạng thái đó.
Yuuzô lại ngạc nhiên khi nhận
ra mình cũng từng bị tê liệt.Trong thời chiến tranh, Yuuzô
đã quên tất cả, từ đạo nghĩa đến trách nhiệm. mà đáng
lý anh phải có đối với Fujiko.
Cái gì đã khiến anh rứt áo
ra đi và thoát khỏi mối liên hệ bất hạnh này? Có thể
đó là dòng thác lũ của bạo lực chiến tranh, nó đã cuốn
phăng đi cái trách nhiệm đạo đức vốn chỉ hình thành từ
một vài ràng buộc nhỏ nhoi giữa hai người nam nữ
Giờ đây, khi gặp lại Fujiko
của ngày đó, Yuuzô sửng sốt tự hỏi làm thế nào nàng
đã sống sót sau khi trải qua những cảnh ngộ khó khăn của
thời chiến. Ngoài ra, có thể là trong thời gian đó, nàng
đã có nhiều việc phải lo toan thay vì dành thời giờ mà
nuôi mối hận lòng đối với anh.
Yuuzô cũng nhận ra rằng trên
khuôn mặt của Fujiko không còn thấy đâu dấu vết của trạng
thái tâm lý cuồng loạn thường có ngày xưa. Anh không dám
nhìn thẳng vào mắt nàng nhưng anh nghĩ là nó đang dâm dấp
ướt.
Yuuzô chen giữa đám trẻ con
đang đứng đằng sau chỗ dành cho khách mời và bước về
phía thang đá của chính điện. Leo được năm sáu bậc, anh
đặt người ngồi xuống trong khi Fujiko vẫn đứng nguyên.
Ngoảnh đầu nhìn lên phía
trên, nàng nói:
-Dạo sau này, không còn mấy
ai đi lễ đền. Nhưng hôm nay, người ở đâu ra mà đông quá!
-Nhưng chẳng thấy ai đến
ném đá cái đền có ông thần chiến tranh!
Trên quãng trường nằm dưới
thang đá vây quanh điện diễn vũ, quần chúng đang lượn thành
vòng tròn cho nên các lối đưa vào đền như bị nghẽn. Một
cô kỹ nữ múa điệu vũ thời Genroku! Rồi đội quân nhạc
của Mỹ lên sân khấu của đền thần Hachiman nữa chứ! Cảnh
tượng hiếm có như vậy, cho đến hôm qua, nào có ai dám nghĩ
tới.
Khách đến tham dự không có
trang phục hay thái độ thích hợp với buổi lễ. Tuy nhiên,
chỉ nhìn đoàn người nối dài liên tục trong khuôn viên của
đền, từ bên dưới lùm cây tuyết tùng cho đến rặng anh
đào đối diện với cổng chào Thần đạo (torii), kéo đến
tận chỗ có mấy cây tùng cao, là đủ để cảm thấy bầu
không khí của một ngày thu đẹp trời đang căng phồng lồng
ngực của mình.
-May mắn quá! Thành phố Kamakura
không bị thiêu rụi. Có đúng không? Cháy tiêu hay không cháy
tiêu, nó khác nhau một trời một vực. Tất cả cây cối và
cảnh vật, vẫn y nguyên sắc thái của Nhật Bản ngàn xưa.
Riêng có áo xống mấy cô tiểu thư là làm em hơi choáng.
-Em nghĩ thế nào về mấy bộ
kimono đó?
-Anh biết không, ăn mặc như
thế, không thể lên xe điện được đâu. Em đã có lần ăn
mặc như thế đi dạo phố đấy chứ!
Fujiko cúi nhìn Yuuzô và nói
với anh như thế. Xong, cô ngồi xuống bên cạnh anh và nói
tiếp:
-Hồi đó, nhìn kimono của mấy
cô, em cảm thấy họ vui sống và thấy sao hay quá nhưng bây
giờ, khi nhớ lại những gì đã xảy ra thì em lại thẩn thờ
và thấy cuộc sống của mình thật là buồn khôn tả. Em không
biết mình đã trở thành giống gì nữa.
-Ai cũng cảm thấy như em thôi.
Yuuzô nói mà như muốn tránh
né câu chuyện.
Lúc đó, Fujiko mặc một bộ
kimono kiểu kasuri màu xanh dương với quần mompe cũng màu xanh
điểm chấm trắng như đồ cũ của đàn ông được sửa lại.
Yuuzô nhớ lại mình đã từng mặc quần một thứ quần áo
với mẫu hình như vậy.
-Chị nhà và mấy cháu ở dưới
Kôfu hở anh? Thế thì trên Tôkyô anh chỉ một thân một mình
à?
-Phải.
-Thật không? Anh không thấy
bất tiện sao?
-Nếu có gì bất tiện thì
cũng giống như "mọi người" (sekennami) thôi.
-Chắc em là một trong số "mọi
người" ấy, phải không?
Không thấy Yuuzô trả lời.
-Thế chị nhà có khỏe như
"mọi người" không anh?
-Chắc là khỏe thôi.
-Chị không thương tích chứ?
-Không.
-Thế thì may lắm! Phần em
thì một hôm ... gặp lúc có báo động, em đã tự hỏi ngộ
nhỡ có gì xảy ra cho chị ấy trong khi mình là người thoát
nạn. Mọi sự đều tùy thuộc vào số mệnh thôi. Tất cả
là số mệnh! Phải không?
Yuuzô rùng mình nhưng Fujiko
lại giải thích cho anh nghe bằng một giọng trong thanh và nhỏ
nhẻ: "Em thấy mình thật lòng lo lắng cho chị đó. Không hiểu
tại sao trong khi mình đang đối đầu với bao nhiêu nguy hiểm
mà em lại đi lo cho bà vợ của anh. Em thấy mình là một con
ngốc nhưng điều đó không khiến cho em bớt lo lắng. Em tự
nhủ: Khi chiến tranh chấm dứt, nếu có thể, mình sẽ đến
gặp anh ấy chỉ để nói ra điều mình đang suy nghĩ trong
đầu. Em không biết anh có tin lời em hay vẫn còn ngờ vực
...nhưng sự thực là vậy. Trong thời gian chiến tranh, em đã
quên những lo lắng của riêng mình mà chỉ cầu nguyện cho
người khác".
Lời nàng vừa thốt ra gợi
cho Yuuzô nhớ lại những điều mà anh cũng có lần cảm thấy.
Sự hy sinh bản thân đến cực độ hay thái độ chỉ nghĩ
đến bản thân thôi nhiều khi trộn lẫn làm một, cũng như
những gì xảy ra giữa những yếu tố như phản tỉnh và tự
mãn, bác ái và vị kỷ, đạo nghĩa và gian ác, tê liệt và
hưng phấn...chúng đã hòa trộn vào nhau một cách hỗn loạn
và kỳ quái để rồi kết hợp trong con người anh cũng không
chừng.
Biết đâu Fujiko chẳng vừa
mong bà vợ của Yuuzô có một cái chết bất đắc kỳ tử
nhưng mặt khác lại khấn khứa để tình địch được bình
yên vô sự. Có thể nàng không ý thức về phân nửa độc
ác nằm trong lòng mình và lại quá say sưa với phân nửa tốt
lành trong bản tính. Nhưng dù sao đó chỉ là một kiểu sống
hai mặt của con người để có thể vượt qua thời chiến
loạn.
Cách ăn nói của Fujiko có vẻ
chân thành. Phía đuôi của đôi mắt lá dăm, anh thấy nước
mắt đang ứa ra.
-Tại em nghĩ chị nhà mới
là người đáng để anh lo lắng chớ không phải em nên em
mới thắc mắc về sự an nguy của chị ấy đó.
Thấy Fujiko cứ nói mãi về
chuyện vợ mình, dĩ nhiên tâm trí Yuuzô cũng hướng về người
đàn bà ấy. Tuy nhiên, anh cũng có lắm mối ngờ. Trong thời
gian chiến tranh, không lúc nào anh xao lãng việc liên lạc với
gia đình. Có thể nói là anh thương vợ thương con đến độ
có thể quên cả Fujiko. Người vợ là phân nửa quan trọng
của cuộc đời anh.
Thế nhưng khi Yuuzô nhìn thấy
Fujiko, anh lại có cảm tưởng như đang gặp chính mình. Để
có thể nhớ lại hình ảnh của người vợ, anh cần làm một
cố gắng như thể băng ngang qua một khung thời gian giờ đã
nhòa nhạt.Yuuzô nhìn thấy lòng mình mệt mỏi.Anh coi mình
như một con thú đực đang đi lang thang và dắt theo con cái
bên người.
-Mới vừa gặp lại anh thành
thử em đâm bối rối, không biết trước tiên phải nhờ anh
giúp cho chuyện gì đây?
Cách ăn nói của Fujiko giống
như một người đang bám theo chân và muốn quấn lấy anh.
-Này, nghe em nói đây. Không
nghe là em giận đó nghe.
....................................
-Này, anh nuôi em nhé!
-Hả? Nuôi?
-Nuôi vài bữa thôi cũng được.
Em dễ lắm, không gây rắc rối cho anh đâu.
Yuuzô chợt làm mặt khó chịu,
đưa mắt nhìn Fujiko:
-Bây giờ, em đang sống bằng
cách nào?
-Thì cũng có miếng ăn. Nhưng
em không muốn sống cứ như thế nữa. Em muốn làm lại cuộc
đời. Em muốn đi chung đường với anh.
-Không phải cùng nhau tiến
bước mà là muốn quay về chớ gì?
-Không quay về đâu anh. Em chỉ
muốn có người thêm sức để mình có thể tiến lên. Thế
nào em cũng phải tiến lên dù chỉ một mình. Cứ thế này
thì hỏng mất, anh ạ. Này, cho em bám vào anh một ít lâu thôi.
Yuuzô không biết trong lời
Fujiko nói có bao nhiều phần thật lòng. Có thể cô đang khôn
khéo giăng cho anh cái bẩy. Hay đó là một lời kêu gọi lòng
thương xót của anh. Thế nhưng người đàn bà bị ruồng rẫy
trong chiến tranh như cô có thể nào tìm từ nơi anh nghị lực
để vượt qua thời hậu chiến bằng cách sửa soạn cho một
cuộc sống mới bên cạnh anh không?
Phải nói là về phía Yuuzô,
cuộc tái ngộ với quá khứ này đã giúp anh tìm lại được
hương vị của cuộc sống nhưng không hiểu Fujiko có khám
phá ra điểm yếu này của anh không? Nếu có thì lời kêu
xin của cô chỉ bằng thừa vì trong đáy lòng mình, Yuuzô đã
sẵn sàng để cho cô níu kéo. Thế nhưng lòng anh bỗng chùng
xuống khi nghĩ rằng mình phải bỏ lại sau lưng những ngày
tháng bê tha, phóng đãng để tìm về một cuộc sống tươm
tất hơn nên mặt cứ cúi gầm.
Tiếng vỗ tay của đám đông
nổ ra khi ban quân nhạc của đội quân chiếm đóng bước
lên sân khấu. Đầu đội mũ sắt, họ đi đứng thoải mái,
không thành hàng. Khoảng hai mươi người tất cả.
Ngay lúc những cây kèn vừa
đồng loạt phát ra âm thanh đầu tiên, Yuuzô đã thót cả
người. Anh bừng tỉnh. Đám mây u ám trong đầu anh như bị
quét sạch. Âm thanh trẻ trung và sắc cạnh từ mấy nhạc
khí giống những ngọn roi quất mạnh vào thân thể. Đám người
đứng quanh cũng trở nên linh hoạt.
Yuuzô lấy làm lạ cho nước
Mỹ. Dân xứ ấy coi bộ tươi vui thật!
Được cảm giác mới mẻ đó
kích thích mãnh liệt, Yuuzô bỗng tìm lại sự tự tin đầy
nam tính của mình. Nó đã làm cho mối quan hệ giữa anh và
Fujiko trở nên giản dị.
***
Lúc hai người qua khỏi Yokohama,
cảnh sắc bên đường đã mờ nhạt. Hình ảnh của chúng
như bị hút xuống mặt đất và ánh hoàng hôn cũng chìm theo.
Rốt cuộc, họ không còn cảm
thấy cái mùi hôi khét bám trên mũi từ nảy giờ. Những vết
tích hoang tàn, tưởng chừng từ nơi đó bụi bặm sẽ bốc
lên không biết cho đến tận bao giờ, đang nhòa đi trong bầu
không khí của mùa thu.
Nhìn vào đôi lông mày thưa
màu hung hung của Fujiko và những sợi tóc mong manh của nàng,
Yuuzô nghĩ về mùa đông lạnh lẽo sắp đến gần và lo lắng.
Anh không khỏi nở một nụ cười ngao ngán khi nghĩ đến việc
ngay giữa một năm hạn (yakudoshi) khó khăn, mình còn gánh thêm
trên vai cái của nợ là cô gái này. Lòng anh dậy lên một
niềm cảm khái lạ lùng khi thấy trên mảnh đất cháy xém,
bốn mùa vẫn tiếp tục chu kỳ của chúng như muốn khuyến
khích anh cứ phó mặc mọi sự trôi theo dòng đời.
Đáng lẽ Yuuzô phải xuống
Shinagawa như định trước nhưng anh đã để chuyến tàu vượt
khỏi ga đó.
Anh đã qua tuổi "tứ thập"
được một năm rồi và cảm thấy những lao khổ và buồn
phiền của kiếp người sẽ biến mất vào trong dòng thời
gian ở một lúc nào đó. Anh từng nhiều lần chứng kiến
những trở ngại hay khổ muộn tự nó được giải quyết
bởi thời gian. Kêu gào lên, lo lắng đến điên cuồng hay
im lặng ngồi đó bó tay, cũng sẽ đưa đến kết quả giống
nhau thôi.
Ngay cả cuộc chiến tranh kia
cũng chẳng đã kết thúc là gì? Mà lại nhanh hơn dự tưởng
nữa chứ! Không, người như Yuuzô có lẽ không có một thước
đo nào để phán đoán rằng 4 năm trời ấy (1942-45) là quá
ngắn hay quá dài, nhất là khi nói về một cuộc chiến tranh.Nhưng
dù sao, nó đã chấm dứt.
Lần này, khi gặp lại nhau,
anh đã manh nha ý định là sau một thời gian, anh sẽ bỏ mặc
nàng. Anh chẳng đã làm một lần như vậy trong chiến tranh
là gì? Thế nhưng hồi đó, giữa hai bên có một cuộc xung
đột và giống như một cơn bão lốc, nó đã quét bay mối
liên hệ giữa hai người. Anh có lần đã cảm thấy thích
thú khi thấy mình đã thanh toán được một sự ràng buộc.
Bây giờ thì cùng với sự thích thú đó, anh còn thấy mình
là người giảo hoạt và tính toán,
Tuy vậy, thái độ tính toán
xem ra còn lương thiện hơn sự thích thú mà anh cảm thấy
khi cắt đứt mối tình. Vì vậy, giờ đây Yuuzô vẫn lưỡng
lự, không quyết đoán.
Fujiko nhắc anh:
-Shimbashi rồi đó nghe!.
-Ờ, phải.
Có lẽ vì lúc đó, Fujiko nhớ
lại rằng, ngày xưa, từ ga này, hai người có thói quen dắt
nhau ra khu Ginza.
Mấy lúc sau này, Yuuzô không
dạo chơi Ginza. Từ Shinagawa, anh thường đi thẳng đến ga
Tôkyô để làm việc.
Yuuzô hỏi lửng lơ:
-Em xuống đâu?
-Đâu...là đâu? Em tới chỗ
anh mà! Tại sao còn hỏi?
Gương mặt nàng thoáng lộ
nét lo âu.
-Không phải! Chỗ em đang ở
kìa!
-Nơi đó có ra gì. Đâu đáng
gọi là chỗ ở...
-Đằng này cũng thế thôi.
-Chỗ nào anh đưa em tới là
nhà em đó.
-Vậy chớ cho đến nay em ăn
uống ở đâu?
-Chẳng có được bữa cơm
nào cho ra hồn hết!
-Muốn biết em nhận phần cơm
phát chẩn ở đâu kìa?
Nhìn thấy Yuuzô hỏi mà như
có sắc giận, Fujiko im lặng không trả lời.
Yuuzô nghi là cô không muốn
tiết lộ nơi đang ở.
Yuuzô chợt nhớ là khi nãy
khi xe đi ngang qua Shinagawa, nàng cũng giữ im lặng nên mới
nói:
-Em coi, anh ở đậu nhà một
đứa bạn.
-Ở chung à?
-Thì ở đậu một người đang
chia chỗ với người khác. Đứa bạn mượn được một gian
6 chiếu tatami. Nó cho anh ở ké.
-Thêm một người nữa là em
có được không. Ba người ở chung cũng được chớ sao!
Fujiko lộ rõ ý định là nàng
vẫn muốn bám theo anh.
Trên sân ra Tôkyô, năm sáu
cô khán hộ đang đứng cho hành lý lên xe. Yuuzô nhìn trước
nhìn sau nhưng không có bóng một anh lính giải ngũ nào.
Yuuzô thường lấy tuyến đường
Yokosuka để qua lại giữa Shinagawa và nơi đây nên vẫn thường
thấy đám lính phục viên trên sân ga. Có nhóm cùng xuống
xe một lượt với anh, có nhóm tới nơi trước và đang đứng
thành hàng.
Có thể nói trong lịch sử
chưa có một cuộc chiến tranh nào mà sau khi bại trận và
đầu hàng, trên đường rút lui, không ai đếm xỉa gì đến
đám binh lính bị bỏ tại ở những vùng xa xôi, với một
con số đông đảo như thế.
Những người lính phục viên
từ các đảo miền Nam đã về đến ga Tôkyô trong cái dáng
bạc nhược của kẻ thiếu dinh dưỡng và như sắp chết đói
đến nơi. .
Mỗi khi có dịp nhìn đoàn
người như vậy, Yuuzô cảm thấy đau đớn đến nghẹn lời
nhưng đồng thời, nó cũng cho anh cơ hội phản tỉnh để
hối hận một cách chân thành và cảm thấy lòng mình được
nhẹ nhỏm. Nghĩ đi nghĩ lại, khi gặp đồng bào cùng chia
sẻ số phận của một dân tộc bại trận, hỏi có cách nào
hay hơn là cúi đầu xuống. So với những người hàng xóm
của anh trên đường phố hay trên những chuyến xe điện ở
Tôkyô thì những người từ chiến trường trở về quê hương
còn trong trắng hơn và điều đó đã khiến cho lòng anh dậy
lên một niềm thương cảm.
Mà thực vậy, khuôn mặt của
những người lính phục viên này có một vẻ gì thanh thoát
nhưng có thể đó chỉ là dấu hiệu của con bệnh đã sống
với bệnh hoạn trong một thời gian dài. Mệt mỏi, đói khát,
khủng hoảng tinh thần...đã làm cho họ ở trong một trạng
thái suy nhược, phờ phạc.Khuôn mặt xám màu đất với đôi
má hóp, hai hố mắt trũng đã lạc thần, như thể hồn phách
họ đã tiêu tán mất. Nhưng Yuuzô không chỉ nhìn thấy có
bao nhiêu đó. Cái dáng dấp mệt mỏi thấy nơi một người
Nhật chiến bại không giống như những gì người ngoại quốc
có thể nghĩ về nó. Nơi những người lính phục viên này,
vẫn có thể có những trào cảm xúc và đam mê mãnh liệt
bên trong. Thế nhưng khi phải ăn những món người thường
không bao giờ ăn, làm những việc người thường không thể
làm, chịu đựng mọi thử thách để trở về đất nước
mình thì trong huyết quản của họ, phải có những giọt máu
trong sạch nào đó đang chảy chứ.
Mấy nữ khán hộ tụ tập
quanh một chiếc băng ca. Lại có một thương binh được đặt
nằm trên mặt kè ga bằng bê tông cốt sắt. Khi tìm cách đi
ngang, nếu Yuuzô không tránh kịp thời, có lẽ chân anh đã
dẫm phải đầu người nằm đó. Ánh mắt của người bệnh
trong suốt. Anh nhìn những người lính chiếm đóng đang leo
lên hay xuống xe nhưng không biểu lộ một vẻ hiềm khích
nào.
Có lúc Yuuzô ngỡ rằng có
giọng thì thầm của ai đó vọng vào tai mình mấy chữ "very
pure" nhưng sau anh mới nghĩ đó chỉ là mấy âm "very poor" mà
mình đã nghe nhầm.
Cảnh các cô khán hộ của
Hội Hồng Thập Tự tháp tùng lính phục viên bây giờ - đối
với Yuuzô – có cái gì đẹp đẽ hơn cảnh tượng y như
thế nhưng xảy ra vào giữa thời chiến. Có phải vì anh so
sánh nó với bối cảnh (cờ xí) chung quanh?
Khi Yuuzô theo mấy bậc thang
đi xuống khỏi kè ga, tự nhiên hai chân đưa anh về phía cửa
Yaesu (cửa Nam của nhà ga). Trên đường hầm xuyên qua ga, anh
bất chợt nhận ra có một đám người Triều Tiên đang "cắm
trại" nên mới bảo:
-Thôi, mình ra lối trước.
Quên khuấy mất. Tại quen thói nên lúc nào cũng đi bằng ngỏ
sau
Nói xong, anh bèn quày đầu
lại.
Người Triều Tiên tụ tập
ở đây để đợi tàu đưa về nước là cảnh Yuuzô đôi
lần vẫn thấy. Có lẽ là lên kè ga mà đứng thì phải đợi
lâu la, nên họ đã lấy cầu thang xuống đợi ở dưới này.
Họ tựa vào đống hành lý rồi trải mấy tấm nệm con (zabuton)
ố bẩn rồi ngồi đầy cả lối đi. Họ còn lấy giây cột
cả nồi niêu soong chảo vào đống rương hòm đó nữa và
hình như còn có ý định ở lại qua đêm. Phần nhiều họ
đi với cả bầu đoàn thê tử. Khó lòng phân biệt trẻ con
của họ với trẻ con Nhật.Trong đám họ, chắc cũng có những
phụ nữ Nhật lấy chồng nước đó. Có khi còn thấy những
bộ áo quốc phục Triều Tiên mới màu trắng và những cái
áo khoác màu hồng.
Đó là những người đang tìm
về tổ quốc vừa mới độc lập [12].Trong
đám ấy, không ít người có vẻ là người đi tị nạn hay
nạn nhân của cuộc chiến.
Từ đó để ra cửa Yaesu, hai
người còn gặp phải những người Nhật đang sắp hàng mua
vé. Những đêm về khuya đi ngang qua đây, anh đã gặp hàng
người làm đuôi suốt đêm chờ đến giờ các quầy bán vé
mở cửa để mua vé cho những chuyến đi dự định vào hôm
sau. Kẻ ngồi xếp bằng, người ngủ gà ngủ gật tại chỗ,
những ai đến trễ phải tựa vào thành lan can cầu. Dưới
chân cầu rải rác mấy đống phân người theo một dọc dài.
Có lẽ hàng người làm đuôi phải ngủ tại chỗ để chờ
đã phóng uế ra cả đấy. Những ngày đi ngang qua đây, đôi
khi Yuuzô thấy cảnh tượng ấy nhưng hễ trời mưa là anh
cố tránh và dùng con đường dành cho xe điện đường mà
đi.
Cảnh tượng hằng ngày ấy
lại trở về trong trí Yuuzô nên anh bèn thoát ra ngoài bằng
cửa trước [13].
Vòm lá rặng cây trên quãng trường reo xào xạc. Ánh trời
chiều nhàn nhạt đang nằm vắt ngang bin-đinh Marunouchi.
Khi sắp dến trước bin-đinh,
Yuuzô thấy có một cô gái khoảng 16, 17 tuổi, người bẩn
thỉu , một tay cầm lọ hồ dùng để dán (nori) dài ngoẳng,
tay kia nắm một cây bút chì ngắn và đứng đó. Trên người
cô là tấm áo khoác ngắn vàng cam cũ kỹ với hai ống tay
áo màu xám tro, chân mang đôi guốc gỗ đàn ông kiểu xưa
to đùng, dáng dấp nửa giống như người vô gia cư, nửa giống
kẻ ăn mày. Khi có mấy người lính Mỹ đi qua, cô ta bèn chạy
đến gọi họ và làm cử chỉ như định níu áo. Thế nhưng
không một ai chú ý đến sự hiện diện của cô. Những người
lính bị cô chạm vào quần chỉ cúi xuống ném cho cô gái
nhỏ đáng ngờ ấy một ánh mắt khinh miệt. Họ tiếp tục
bước, không nói một tiếng và cũng chẳng quan tâm tới cô.
Yuuzô lo lắng không biết thứ
hồ loãng để dán ấy có vấy bẩn quần áo của mấy người
lính ngoại quốc không.
Cô con gái đi xa dần, vừa
nghiêng một bên vai đang bị giật lên giật xuống, vừa lê
bước như thể đôi guốc gỗ to kềnh của cô đã tuột khỏi
chân. Một mình một bóng, cô băng qua quãng trường trong màu
chiều đang sập tối để tiến về phía nhà ga và mất dạng
sau đó.
Fujiko quay đầu lại để nhìn
theo bóng cô. Nàng nói:
-Kinh quá, anh nhỉ?
-Con khùng. Thế mà cứ tưởng
là người ăn xin.
-Độ rày, mỗi lần thấy những
người như vậy, em cứ nghĩ là mình bây giờ cũng đâu có
khác gì. Sợ thật! ...Thôi, giờ gặp được anh rồi, em chẳng
còn phải lo như trước. May là em chưa chết, còn sống thì
mới có thể gặp lại anh chứ!
-Ừ, phải suy nghĩ kiểu đó
mới được. Hồi năm có trận động đất lớn, anh cũng bị
mắc kẹt dưới một ngôi nhà bị sập ở Kanda. Cột nhà đổ
đè lên người, tưởng chết lúc đó rồi.
-Ờ, em nhớ chứ! Trên hông
bên trái anh còn để lại một vết sẹo mà! Em có lần hỏi
anh về nó đó.
-À....Hồi đó, anh còn học
trung học thôi. Dĩ nhiên khi ấy thì đối với thế giới,
Nhật Bản chưa phải là một tội phạm chiến tranh như bây
giờ. Động đất có phá hoại nhưng chỉ là thiên tai ...
-Không biết năm có động đất
lớn, em đã sinh ra chưa nhỉ?
-Sinh ra rồi chớ!
-Em ở dưới nhà quê nên có
hay biết gì đâu! Nếu em có mang một đứa con trong bụng thì
chỉ muốn đẻ nó ra khi đất nước mình kha khá một chút.
-Cái gì...? Đúng như hồi nãy
em chẳng nói là gì! Chỉ trong khói lửa con người mới trở
nên mạnh mẽ. Cuộc chiến tranh vừa rồi, anh không thấy nguy
hiểm bằng hồi động đất xảy ra. Thiên tai đến trong chớp
mắt mới là cái đáng sợ nhất. Không thấy bọn trẻ con
lúc này, chúng chả sợ gì cả sao? Hình như ngay từ lúc mới
sinh chúng đã không biết lo lắng.
Fujiko ghé sát bên Yuuzô và
cọ người vào anh:
-Thật sao? ...Còn em thì từ
lúc chia tay với anh, em có đôi lúc nghĩ rằng nếu anh có phải
ra chiến trường thì, trước đó, em sẽ sinh cho anh một đứa
con. Vì vậy, sống đến giờ và được gặp lại anh...thì
chuyện đó lúc nào anh muốn cũng được hết.
-Như vậy nó thành con tư sinh
mất. Từ rày về sau pháp luật đâu cho phép như vậy nữa.
-Hả...?
Yuuzô nhíu mày. Anh vừa bước
lố một bậc thang và cảm thấy mình hơi chóng mặt.
Có lẽ Fujiko vừa nói với
anh những điều thành thật. Thế nhưng từ lúc gặp nhau ở
Kamakura, cả hai người đều trao đổi với nhau bằng lời
lẽ xẳng xớm, khô khan và hàm chứa ẩn ý. Khi nhận ra điều
đó, Yuuzô không khỏi ngại ngùng.
Như đã có ý nghi ngờ từ
nãy, Yuuzô những muốn tìm hiểu xem những khẳng định chắc
nịch của Fujiko có che đậy ý tưởng vụ lợi nào chăng?
Nhưng ấn tượng nàng để lại cho anh là nàng đã ngã vào
anh không tính toán chẳng khác nào một kẻ vừa tỉnh dậy
sau cơn mê và còn đang hoang mang.
Đôi với Yuuzô, việc tái ngộ
với Fujiko cũng như gặp lại chính con người của mình đã
làm anh cảm thấy điểm tựa để phán đoán của mình như
bị lung lay và anh không biết cách nào giữ cho nó được ổn
định. Từ khi gặp lại nàng, anh đã có những tính toán thực
tế khi đối đầu với nỗi lo lắng phải nối lại mối duyên
lỡ làng này nhưng rốt cuộc, những tính toán thực tế đó
dần dần đã bị mất thế đứng.
Chia tay với vợ con được
gửi đi sơ tán và lạc lõng giữa một đô thị mà mọi trật
tự đều bị băng hoại, anh hoàn toàn tự do, không ai câu
thúc, nên đã dễ dàng kết nối lại với Fujiko. Tuy nhiên
mặt khác, anh cũng cảm thấy có một ma lực mình không thể
cưỡng nổi, giống như sự ràng buộc của bản năng, đã
kéo anh lại bên nàng.
Anh đã thoát ra khỏi một thời
đại mà anh đã say sưa đến nỗi cống hiến cả bản thân
và thực tế cuộc sống cho chiến tranh. Thế nhưng, từ giây
phút bắt gặp Fujiko ở đền Hachiman, lúc mà anh kinh ngạc
như được tái ngộ với chính mình, rồi kéo nàng cùng đi,
anh có cảm tưởng đã đeo thêm vào người một nỗi thống
khổ bị ố nhiễm bởi một chất độc không rõ nguồn gốc.
Tuy là thế nhưng ngược lại,
cái duyên số xui khiến anh tái ngộ với người tình trước
thời chiến tranh cũng như hình phạt của nó đang bắt anh
gánh vác quá khứ trên lưng một lần nữa lại cũng là nguyên
nhân để anh động lòng xót thương cảnh ngộ của Fujiko.
Khi đến chỗ lằn đường
có xe điện đi ngang, anh ngập ngừng, không biết mình nên
rẽ về hướng Hibiya hay Ginza. Thấy công viên (Hibiya) hiện
ra trong tầm mắt, anh đã đi đến cổng vào nhưng có lẽ ngạc
nhiên trước những đổi thay của nó, anh bèn quay lui. Khi hai
người đến Ginza thì trời vừa tối.
Nhân vì Fujiko không cho anh biết
địa chỉ, Yuuzô không thể ngỏ lời muốn đưa cô về nhà.
Biết đâu nơi đó, cô đang sống với ai đó. Có lẽ Fujiko
cũng ngần ngại nên cứ kiên nhẫn bước theo Yuuzô, tỏ ra
không muốn thôi thúc anh cho biết địa điểm họ sẽ tới.
Cô cũng không bày tỏ nỗi sợ hãi khi đi trên con đường
vắng người, tối tăm và bị bom đạn thiếu rụi. Còn Yuuzô
thì có vẻ bực bội.
Nghe nói ở Tsukiji [14]
hãy còn sót lại một số ngôi nhà có thể ở được nhưng
Yuuzô không rõ về khu phố đó. Anh đi đại về phía Rạp
hát Kabuki (Kabukiza).
Đến một ngã rẽ về phía
cái xóm bên hông (yokochô), Yuuzô bất chợt lủi vào đó mà
không báo trước gì cả. Fujiko phải tất tả chạy theo anh
để bắt kịp.
-Đứng đó. Đợi giùm một
chút đi.
-Không. Em sợ.
Yuuzô thiếu điều đưa cùi
chõ hất tay Fujiko khi nàng đến đứng sát bên anh.
Đường đi lổn nhổn những
thứ giống như gạch hay ngói nên khó đặt bàn chân. Có bức
tường hiện ra trước mắt Yuuzô, nhưng khi nhìn kỹ, anh mới
chợt nhận ra nó chỉ còn trơ mỗi một mình, bởi vì chung
quanh, nhà cửa đều đã bị cháy và đổ sập.
Yuuzô đứng lặng người. Anh
thấy những cái khấc lồi lõm trên mỏm bức tường giống
như nanh ác quỉ hiện ra trong bóng đêm, đang cùng với mùi
cháy khét muốn hút anh vào. Còn khoảng không gian đen kịt
bên trên dường như đang muốn xô ngã bức tường lên người
anh.
-Em...Có lần em đã định bỏ
thành phố để về dưới nhà quê đấy chứ! Buổi chiều
đó, em đã ra ga Ueno [15]
làm đuôi như người ta...Lúc đưa ra bàn tay ra sau lưng mới
thấy..., eo ôi, nó ướt cả..
Lấy lại hơi thở hổn hển
vì đứt quãng, Fujiko nói tiếp:
-Cái người đứng đằng sau
làm bẩn hết áo em đấy anh!
-Hưừm.! Chắc hai người đứng
quá sát vào nhau chứ gì!
-Đâu, không có! .Không phải
vậy đâu anh! Em hãi quá, bỏ đi không sắp hàng nữa. Đàn
ông lại có những kẻ kỳ cục như hắn. Trong những giờ
phút như thế này mà lại..Chao ơi, em sợ quá thể!
-Thằng đó bệnh hoạn chắc.
-Người tản cư vì chiến tranh
đó anh. Hắn có giấy chứng minh là nhà bị cháy để được
rời thành phố.
Yuuzô quay người lại, định
đi tiếp như Fujiko cứ ngồi đó, coi bộ nàng chưa sẵn sàng.
Nàng còn tiếp tục kể:
-Lúc đó, người ta làm đuôi
ra đến tận ngoài ga, gần một con đường tối thui...
-Thôi, mình đi hè!
-Vâng. Nhưng người em rời
rã rồi, anh ơi. Nếu mình tiếp tục đi kiểu này, chắc em
chui xuống đất đen mất. Em đi từ sáng kia mà...
Hình như Fujiko đang sụp mi
mắt. Yuuzô đứng nguyên một chỗ và nhìn xuống cô. Có lẽ
cả buổi trưa Fujiko chưa có miếng cơm nào vào bụng. Yuuzô
thấy mình hơi ác. Anh bảo:
-Đằng kia hãy có một ngôi
nhà còn đứng vững kìa!
-Đâu anh? ...Thật sao?
-Dám có ai trong đó lắmi!
-Ấy chết! Sợ quá. Anh làm
em sợ!
Fujiko thốt lên câu đó đã
đưa tay túm lấy tay Yuuzô để đứng thẳng dậy.
-Em không thích mà! Đừng có
dọa em.
-Không sao đâu...Hồi trận
động đất lớn, anh từng thấy người ta hẹn hò chim chuột
với nhau trong mấy căn nhà cất tạm (barrack) như thế.Nhưng
lần này sao hơi vắng vẻ há!
-Phải rồi.
Rốt cuộc không có chuyện
Yuuzô bỏ rơi Fujiko. Đối với anh, nàng giống một cái gì
ấm áp và mềm mại như tình thân ái có thể giúp cho anh có
một dịp nghỉ ngơi đơn thuần và khiến cho anh lòng anh được
bình yên, cộng với sự tê liệt của một kẻ đang thừ người
trước một cái gì thần bí. Không phải là cái cuồng nhiệt
bùng nổ sau một thời gian dài vắng hơi đàn bà nhưng là
một tái khám phá dịu dàng về người con gái bởi một bệnh
nhân vừa được hồi phục. .
Bờ vai Fujiko mà tay anh đang
chạm tới chỉ gầy guộc xương xẩu và lồng ngực nàng tựa
vào người anh chỉ có sức nặng của một sự mệt mỏi đọng
lại tự lâu ngày nhưng Yuuzô bây giờ mới cảm thấy mình
vừa tái ngộ với một người khác phái.
Từ trên đống gạch vụn ngói
vụn, Yuuzô đi về phía căn nhà cất tạm.
Hình như căn nhà ấy chưa có
cửa chính, cửa sổ cũng như mặt sàn.Khi tiến gần đến
bên cạnh, anh nghe tiếng vỡ nhẹ của một tấm ván mỏng
mình vừa dẫm lên.
Tuần báo Sekai (Thế Giới)
số tháng 2/ 1946
Dịch
giữa tháng 3/2021
Thư mục tham khảo:
-Kawabata Yasunari, Saikai (Tái
ngộ) trong Tuyển tập Hatsukoi Shôsetsushu (Tập truyện Tình
đầu) do Shinchô Bunko, Tôkyô xuất bản, 2017.
-Kawabata Yasunari, Saikai (Retrouvailles)
do Sylvie Regnault- Gatier và Hisamatsu Hiashi dịch sang Pháp văn,
trong Tuyển tập "Kawabata, Romans et Nouvelles", La Pochothèque, Livres
de Poche, Paris, xuất bản, 1997.
[1]
- Một cuộc lễ về thơ văn hội họa
[2]
- Đền Thần đạo quan trọng của Mạc phủ Kamakura thờ thần
Hachiman,kẻ bảo hộ chính quyền vũ gia.
[3]
- Shôgun đời thứ 3 của Mạc phủ Kamakura, cũng là một thi
nhân kiệt xuất.
[4]
- Loại áo lễ phục của các cô gái chưa chồng.
[5]
- Quân Đồng Minh, chủ yếu là Mỹ, chiếm đóng Nhật Bản
từ 1945 đến 1952.
[6]
- Điệu múa mới được đặt ra năm 1940 diễn trong các đền
Thần Đạo để vinh danh hoàng thất.
[7]
- Múa sư tử, giống như múa lân.
[8]
- Điện múa theo kiểu bà Shizuka Gozen, một con hát ăn mặc
theo kiểu nam trang nổi tiếng.
[9]
- Điệu múa thưởng hoa dưới niên hiệu Genroku (một giai đoạn
thanh bình và văn hóa phát triển mạnh của thời Edo)
[10]
- Genroku (niên hiệu Nguyên Lộc: 1688-1704), một thời kỳ văn
hóa rực rỡ.
[11]
- Con hát ăn mặc dạng nam trang nổi tiếng tài sắc vẹn toàn.
Là người yêu của đại tướng Minamoto no Yoshitsune (1159-1189),
đã cùng ông chia sẻ nỗi bất hạnh trên đường bôn tẩu.
Sau còn bị bắt buộc múa cho Shôgun Yoritomo, kẻ thù và cũng
là anh chồng xem.
[12]
- Triều Tiên bị sáp nhậpvào lãnh thổ Nhật Bản từ 1910
đến 1945. Sau khi Nhật bại trận, Triều Tiên trở thành quốc
gia độc lập, người Triều Tiên hoặc đồng tình hoặc bị
cưỡng bách lao động phải sang Nhật nay được tự do về
nước. Có lẽ họ chỉ đi một đoạn bằng xe lửa để ra
hải cảng (Yokohama, Niigata, Kobe vv…) và lấy tàu thủy đi
tiếp.
[13]
- Có lẽ tác giả muốn ám chỉ của Bắc (Marunouchi) nhìn về
hướng Hoàng cung.
[14]
- Khu vực chợ cá bán sỉ nổi tiếng bên vịnh Tôkyô, nằm
không xa Ginza.
[15]
- Một trong những nhà ga lớn ở Tôkyô có tuyến xe đi về
vùng Tôhoku (Đông Bắc).
***
|