Nhật
ký năm 16 tuổi
(Juurokusai
no nikki, 1914)
Ngày
4 tháng 5:
Bây giờ là 5 giờ rưỡi chiều.Tôi
từ trường trung học về nhà. Cánh cửa nhìn ra đường đã
được đóng lại để tránh tiếp khách đến thăm..Nhân ông
tôi nằm đó chỉ có một mình, nếu không làm thế sẽ bất
tiện cho ông.
(Dạo ấy, mắt của ông
tôi không còn thấy gì nữa do chứng thủy tinh thể vẩn đục) [3].
-Thưa ông ạ! ....
Không có tiếng trả lời. Im
lặng bốn bề.Tôi cảm thấy buồn và đơn chiếc.Tôi tiến
lại gần bên tai ông cách một khoảng 1 ken (chừng 1, 8m).
-Thưa ông, con mới về đây,
ông!
Thế rồi tôi tiến gần thêm
chút nữa, khi cách một thước, tôi lại nói to hơn:
-Con đây mà ông!
Tôi chỉ còn cách đầu nằm
của ông khoảng 5 sun (0, 15m)
-Con mới về đây mà!
-Ủa! Con đó à? Ông mắc tiểu
từ sáng đến giờ. Ông cứ đợi con mà rên siết mãi. Ông
muốn quay người về hướng Tây. Con giúp ông đổi thế nằm
nhé!
-Đây! Ông nhỏm người lên
một chút ...
-Thôi! Như thế là đủ. Đắp
hộ tấm chăn ngay ngắn lại cho ông!
-Nhưng ông chưa nằm thoải
mái mà. Mình thử lại một lần nữa đi!
-Thôi mà ...(Ở đây có 7
chữ bị nhòa). Ông vẫn chưa thấy dễ chịu. À, bây giờ
được rồi đó. Con đã đun nước pha trà chưa? Chờ một
chốc đi vậy. Đưa ông đi tiểu cái đã.
-Khoan, ông ơi. Làm tất cả
một lượt không được đâu.
-Ông biết! Nhưng bề gì ông
cũng phải báo trước con hay chứ!
Một lát sau:
-Bonbon (Cậu ấm) nhà ta đấy
à? Thằng Toyomasa của ông!
Giọng của ông không còn hơi
sức, làm như nó thoát ra từ cái miệng của một người đang
hấp hối.
-Con không cho ông đi tiểu được
à?
Ông nằm bất động trên giường
bệnh và từ chỗ đó, gọi tôi một cách khó khăn.
-Ông bảo con phải làm cách
nào?
-Thì con đưa cái bô nước
tiểu đến đặt trước con cu của ông ...
Tôi bắt buộc phải cởi quần
ông đằng trước và làm những điều ông tôi nhờ một cách
bất đắc dĩ.
-Sao ông có thấy thoải mái
trong tư thế này không? Thôi nghe...Con đi đây!
Ông không còn cảm giác gì
thân thể mình nữa.
-Ôi chao. Đau quá con ơi! Ông
đau!
Khi tiểu, ông tỏ ra đau đớn.
Thế rồi tôi bỗng nghe lẫn
vào bên trong những tiếng rên siết là tiếng nước róc rách
của một dòng sông ở dưới đáy bình.
Tôi chực khóc khi nghe tiếng
kêu than như thể ông đã hết sức chịu nổi sự đau đớn.
Pha trà xong, tôi giúp ông uống.
Ông kiên nhẫn nhấp từng ngụm, từng ngụm một. Đây là
một thứ trà hạng xoàng (bancha). Khuôn mặt ông xương xẩu.
Mái tóc bạc đã thưa thớt. Hai bàn tay run rẩy không còn gì
ngoài da bọc xương. Mỗi lần ông nuốt, tôi thấy trái cổ
(yết hầu) của ông đưa lên đưa xuống cần cổ cò của
ông. Ông uống hết ba tách trà.
-Ngon! Ngon quá!
Ông đánh lưỡi tanh tách
-Ôi! Bây giờ ông đỡ ra rồi.
Này! Ông có dặn con mua loại trà nào ngon hơn một chút, phải
không nào? Thế nhưng, uống quá nhiều trà ngon thì lại độc,
con nhỉ? Trà xoàng (bancha) là tốt hơn cả.
.Một chặp sau:
-Con đã gửi bưu thiếp về
Tsunoe chưa? (Đây là tên ngôi làng của cô em út ông tôi)
-Có ạ. Sáng nay...
-Thế à?
(Ông đã nhờ tôi gửi một
tấm bưu thiếp về cho cô em gái út của ông mà ông không
có tin tức, để gọi bà ấy lên.Chắc ông tôi có linh cảm
"cái ấy" (sự chết) nó sắp đến viếng và ý tưởng đó
khiến ông tôi sợ hãi)
Tôi chăm chú nhìn gương mặt
xanh xao của ông như một người mất hồn. Chợt tôi nghe một
tiếng động:
-O-Miyo đó hở?
-Vâng....Cậu làm gì đấy?
Đang ngồi cạnh bàn đọc sách,
tôi bỗng bồn chồn như linh cảm có ai bên cạnh.. Khi quay
đầu lại mới nhận ra là O-Miyo đang đối mặt với tôi.
(Thuở đó, tôi có đặt giữa
phòng khách một cái bàn lớn. Người có tên là O-Miyo là một
bà nhà quê độ 50 tuổi. Mỗi ngày bà đi từ nhà đến đây
để giúp việc như nấu cơm hay dọn dẹp các thứ cho chúng
tôi)
-Phải rồi, ông cụ năm nay
đã 75 và cứ nằm miết...thế nhưng đã đến 30 hôm mà không
thấy cụ đi đồng. Tôi đã cho cụ ăn toàn những thức ăn
lành không đấy chứ! Cụ mới gọi tôi lại để hỏi về
việc đó nhưng tôi thưa là "Cụ ơi. Cụ đã lớn tuổi. Bệnh
già đấy cụ ạ. Không có gì nguy hiểm xảy đến ngay đâu!"
Tôi và bà cùng cất tiếng
thở dài. Thế rồi O-Miyo lại nói tiếp:
-Tôi có thưa với cụ là nếu
ăn được cơm mà không đi đồng được thì chắc là có con
quái vật nào trong bụng nó ăn hộ mất rồi. Khi nào thức
ăn còn chui qua cổ họng được thì còn ăn được, có khi
còn ăn khỏe hơn trước cơ. Con quái này lại thích uống rượu.
Không biết mình phải xử trí thế nào đây! Hình như nếu
mình đưa cho con bệnh xem mấy lá bùa của thần Myôken [4]
và thắp nhang ở giữa phòng khấn khứa để tỏ lòng biết
ơn ngài thì con quái đó sẽ bị vật vã và không còn biết
gì về thời khắc. Sau đó, nó không có cách gì phá phách
mình nữa. Trường hợp bệnh nhân mắc cổ vì một miếng
cá ngừ (katsuo) hay mấy miếng cơm nắm cá (sushi) nuốt không
trôi thì phải cầu thần Inari [5]
để ngài hiện ra làm phép cho cổ họng di động. Lúc đó
con bệnh mới ăn uống được. Không hiểu mình có nên thử
mấy cách chữa trị như thế cho cụ không?
Ngồi ngay trước mặt O-Miyo,
tôi khó lòng bảo với bà là những điều bà vừa kể chỉ
là chuyện dị đoan. Bỗng nhiên, tôi bỗng cảm thấy có một
nỗi lo âu chưa từng có đè ép lên người mà không biết
phải làm gì.
-Cụ ông bảo tôi hãy về lại
dưới quê tôi ở Itsuka-ichi rồi sau hãy lên thăm cụ. Tôi
cứ tưởng cụ mất rồi đấy chứ nhưng không ngờ...mấy
ông già sống dai quá. Không hiểu bệnh cụ là bệnh người
già hay cụ bị ai đó thư. Ba mươi ngày mà không đi đồng
được....Vì vậy, tôi mới lên đây đó chứ!....Mỗi khi đi
học về, tôi khuyên cậu phải thắp hương ngay. Ngày xưa,
trong mấy gia đình nề nếp, người ta vẫn làm như vậy .Con
quái đó nó không chịu được khói của nhang. Không hiểu
sao chứ nó hại người ta bằng nhiều cách lắm. Nếu nó đòi
ăn món gì ngon, mình phải tức khắc đem cho nó xơi. Hay là
cậu thử đi kiếm một thanh kiếm lớn? Nhưng cậu phải tháo
vỏ kiếm ra và dấu ở dưới chăn...
-Vú nói là làm như vậy sẽ
có hiệu lực à?
-Ừ, chắc là thế!
Tôi mới đến gần lỗ tai
ông tôi:
-Ông ơi! Có một lá thư của
bà Kanô nào đó từ làng Onokawa gửi tới.Ông có mượn tiền
của bả không?
-Có!
-Hồi nào?
-Cách đây bảy, tám năm.
(Lần hồi, tôi mới khám
phá ra rằng ông tôi đã mượn tiền của một số người
quen biết ở khắp nơi.).
O-Miyo lên tiếng:
-Ô! Chuyện đó à! Nó không
dính líu gì tới tôi!
(Ông từng bàn chuyện tiền
bạc này với bà ta)
Đến bữa cơm tối, chúng tôi
dọn cho ông cơn nắm bọc rêu khô (norimaki). Nhưng không biết
có phải để cúng cho con quái vật ấy hay không? Ô kìa, cổ
họng ông di động! Để đưa được thức ăn vào cổ một
người mà phải làm đủ chuyện ba lăng nhăng như thế sao?
Dù vậy, câu nói "Con quái trong bụng nó ăn hết cả đấy!"
đã in dấu trong trí óc tôi và tôi không thể nào quên. Tôi
còn buồn cười hơn nữa khi nghĩ đến việc tôi đã đi kiếm
một thanh kiếm lớm, chém qua trên lại bên trên chỗ ông tôi
nằm rồi đem dấu nó dưới chăn. O-Miyo nhìn cảnh tôi dùng
gươm chém gió để đuổi tà ra khỏi căn phòng bằng con mắt
thật nghiêm trang.
Đứng bên cạnh giường, tôi
hô lên:
-Cút đi! Cút khỏi nơi đây
ngay!
Nếu có đứa bé nào đang đứng
gần, chắc nó phải cười vì thấy tôi quá khôi hài.
Trong gian phòng, trời bắt đầu
tối. Tôi bỗng nghe tiếng thều thào gọi:
"O-Miyo! O-Miyo!".
Đang cắm cúi đọc sách nhưng
tôi cũng ngóng xem có tiếng chân của O-Miyo đến để giúp
đỡ ông tôi không.
Thôi, chắc O-Miyo đã đi đâu,
bà ấy sắp về đằng nhà. Tôi bèn mang trà đến cho ông.
-Này ông, uống một ngụm nào!
Được lắm. Uống thêm cho con ngụm nữa.
Yết hầu của ông bắt đầu
di động bên dưới lớp da. Con quái vật ấy nó có biết uống
trà không nhỉ? Lạ thật. Làm gì đã học đến năm thứ ba
trung học mà mình lại còn tin những thứ tào lao như vậy?
-Ôi chao. Ngon quá. Trà này ngon
thật...vì vị nhàn nhạt thôi. Tốt hơn phải uống thứ trà
này...Hễ đậm quá là không tốt. Ngon thật. Thế còn thuốc
lá của ông đâu, con?
Tôi đưa ngọn đèn đến sát
mắt ông. Ông hé riềm mi .
-Cái gì đấy?
Ông vừa hỏi tôi vừa mở
mắt ra nhìn. Tôi đã tưởng là đôi mắt này không bao giờ
còn có thể mở ra được nữa.Ông có vẻ hạnh phúc như vừa
có một luồng ánh sáng rọi vào để soi rõ cái thế giới
đầy bóng tối của ông.
(Tôi không tin rằng bệnh
mắt của ông có thể chữa khỏi. Hồi đó đôi mi ông đã
sụp lại và tôi nghĩ cho đến chết, mắt ông vẫn ở trong
trạng thái như vậy).
Tôi nhớ lại rất nhiều chuyện
trong khi vẫn tiếp tục viết. Cái cách tôi vung thanh kiếm
rồi múa tít trông thật kỳ cục. Thế nhưng câu nói: "Đó
là con quái vật trong bụng nó đang xơi" vẫn in đậm trong
đầu óc tôi. Đầu óc tôi minh mẫn và tôi ý thức được
điều đó. Tôi thừa biết rằng câu chuyện có một con quái
vật phá phách trong bụng người ta không thể có thật.
Đến khoảng 10 giờ thì O-Miyo
đến để giúp ông tôi đi tiểu.
-Tôi muốn xoay người một
chút. Bây giờ, mặt tôi đang nhìn về phía nào? À, phải rồi,
về hướng đông.
-Để tội xoay cụ qua hướng
khác.
-Hừm!
-Cụ ráng thêm một chút.
O-Miyo nói thế. Ông tôi tỏ
vẻ than phiền:
-Ôi chao! Giờ đây, có đúng
là mặt tôi đang nhìn về hướng Tây không?
-Nào, cụ nghỉ ngơi một chút
đi. Tôi xin phép về. Công việc hôm nay ở đây đã xong xuôi.
Ngày 5 tháng Năm
-
Buổi sáng. Mấy con chim sẻ
bắt đầu hót. O-Miyo đến nơi.
-Thế sao? Cậu đã thức dậy
hai lần để cho cụ đi tiểu lúc nữa đêm và hồi 3 giờ
sáng à? Tôi nghiệp cho một thanh niên trẻ như cậu. Cậu lo
cho cụ chu đáo thật. Con O-Kiku nhà tôi (tức con dâu của O-Miyo
vừa mới sinh con đầu lòng) bây giờ biết thế nào là chuyện
sinh một đứa con nhưng nó còn chưa biết cách nuôi dạy. Từ
khi sinh con mình sẽ không bao giờ được ngơi tay.
Nghe bà nói tôi chu đáo lo cho
ông, tôi rất bằng lòng.
Tôi đi đến trường.Trường
tôi là một chốn thiên đàng. Nói như thế thì mọi người
đủ hiểu về cảnh ngộ của tôi trong gia đình.
Sáu giờ. Kìa, O-Miyo lại đến.
-Tôi có lên trên đền để
khấn cho cụ đấy chứ! Thế mà đâu cũng hoàn đó. Tôi không
hiểu gì cả. Con quái vật không hề yếu đi. Mình cứ quấy
phá cho đến khi nó chịu hàng mới được. Hơn nữa, bệnh
của cụ là bệnh già. Cuối cùng, thân thể sẽ từ từ mất
hết khí lực.
Mấy tiếng "Cuối cùng thân
thể sẽ mất hết khí lực" bổ vào đầu tôi như những nhát
búa. Tôi nín thở hỏi tiếp:
-Vú tin là thế sao?
-Thần Inari khiển trách rất
đúng. Mấy lúc này, mình không điều độ. Mình đã cho cụ
ăn uống nhiều quá. Này cậu ấm (bon bon), cậu có biết bây
giờ cậu đã lớn rồi không?
Tôi hơi ngạc nhiên khi thấy
thần Inari can thiệp vào sức khỏe của con bệnh đến mức
đó.Tôi bắt đầu tự đặt câu hỏi về giá trị của những
lời lẽ đầy mê tín của vú.
Làn khói mong manh của cây nhang
vòng mà tôi đã mua với ít tiền lẻ còn sót lại trong nhà
đang bay lên ở đầu giường, gần cái gối kê đầu của
ông tôi. O-Miyo lại lên tiếng:
-Hè đến, cụ còn khổ hơn
nữa!
-Tại sao?
-Thì tá điền họ phải ra
đồng cả và tôi sẽ không có mặt. Còn với thời tiết bây
giờ thì nên để một cái lò than cạnh giường cho cụ.
Tôi tiếp tục viết những
dòng chữ này (độ 100 trang) nhưng với tình trạng bi đát
hiện tại, không biết lúc tôi viết xong thì sức khỏe của
ông tôi đã ra thế nào rồi?
(Tôi đã chuẩn bị một
trăm trang giấy để viết bản thảo và tôi có ý đính dùng
tất cả.Tôi lo là ông tôi sẽ chết trước khi tôi lấp kín
những trang giấy đó.Ông phải cố giúp con cho xong một trăm
trang. Đó là tâm cảnh của tôi khi ngồi viết. Nhưng ông tôi
lúc đó đã đến giờ hấp hối, tôi muốn ít nhất giữ lại
được hình ảnh của ông trong những dòng nhật ký).
Có một dạo, lời lẽ của
ông chẳng còn ra đầu ra đuôi. Không hiểu chuyện con quái
vật hãm hại ông có phải chỉ bắt nguồn từ những ý nghĩ
mê tín?
Ngày 6 tháng Năm
-Bon bon nó đi học rồi hở?
Ông tôi hỏi O-Miyo.
-Dạ không...Sáu giờ chiều
rồi cụ ạ.
-Thế à. Ha ha ha ha...
Ông tôi cười với một giọng
buồn bã.
Phần cơm buổi chiều là hai
cuốn norimaki mà người ta đút cho ông và ông nuốt trọn.
Vừa khi tôi đang tắm -một
chuyện ít khi xảy ra - tôi chợt nghe tiếng ông hỏi:
-Tôi không ăn quá nhiều chứ?
Thế rồi, một lúc sau:
-Hãy còn sớm... nhưng bụng
tôi đói meo...
-Gì thế. Tôi vừa mới cho
cụ ăn bữa chiều mà...
-Hở?
Sau đó, tôi không nghe gì nữa...Rồi
cái giọng nói quen thuộc ấy lại vọng lên. Trong buồng tắm,
tôi cảm thấy buồn vô hạn.
Buổi tối, trong nhà chỉ có
tiếng đồng hồ treo tường và tiếng ngọn bấc trong chiếc
đèn dầu.
Đột nhiên từ gian phòng đằng
sau và chìm trong bóng tối, vọng ra tiếng của ông tôi:
-Đau quá! Đau quá! Trời ơi,
tôi đau quá!
Rồi không nghe gì nữa, Tất
cả trở nên im lặng.
Giọng nói cất lên một lần
nữa:
-Ôi trời! Tôi đau quá!
Đó là một âm thanh cộc lốc
và đau đớn mà tôi phải chịu đựng liên tục cho đến lúc
tôi đi vào giấc ngủ. "Cuối cùng, thân thể sẽ từ từ mất
hết khí lực!" Tôi cảm thấy lời của vú O-Miyo đang bổ
xuống như những nhát búa trong óc tôi.
Dần dần đầu óc ông tôi
tỉnh táo ra. Ông bắt đầu ý thức và để ý không ăn nhiều.
Nhưng mỗi ngày, sức lực ông
mòn đi dần...
Ngày 7 tháng Năm
Tối hôm qua, tôi thức dậy
một lần để đưa ông đi tiểu, một lần để giúp ông trở
bên và hai lần để đem trà cho ông uống. Ông mắng: "Sao mày
không dậy nhanh nhanh một chút? Làm tao hò hét muốn đứt hơi".
Lúc đó, tôi đã đi ngủ và
không sao mở mắt dậy vào lúc nửa đêm.
Khi O-Miyo đến nơi, tôi đem
chuyện đó ra than thở.
-Tiếc quá! Phải chi tôi hết
đau đầu thì đã có thể ở lại với cụ và cậu đến tận
nửa đêm. Hồi trưa, tôi đã có mặt. Sau đó tôi về nhà
và cứ hai tiếng đồng hồ là tôi quay trở lại vì ông cụ
không ngớt rên la.
-Đêm qua, ông có đánh thức
tôi dậy và nói những điều tôi chẳng hiểu gì cả. Ông
làm tôi nổi điên. Tôi bèn túm lấy ông nhưng sau đó tôi
đã suy nghĩ lại. Tôi khóc vì thấy ông quá khổ sở.
Tôi sắp sửa đi học. Ông
tôi hỏi:
-Chừng nào ông mới khỏe được
hở con?
Giọng của ông như có lóe
lên một tia hy vọng, trong khi tận 9 giờ hôm nay, ông còn giống
như một người tuyệt vọng.
-Chừng nào thời tiết tốt
thì ông sẽ khỏe ra thôi.
-Cảm ơn con đã lo cho ông.
Ông xin lỗi con.Ông nằm chiêm báo thầy Nữ thần Thái Dương
đền Ise và chư thần đến tụ họp trên nóc nhà mình.
-Tin vào thần thánh là một
điều tốt.
-Ông còn nghe được cả tiếng
của Ngài nữa. Điềm lành đấy con nhỉ? Trời Phật và thần
thánh còn chưa bỏ rơi ông. Phải thế mới được chứ!
Ông tôi nói với một giọng
mãn nguyện.
Từ trường về nhà, tôi thấy
cánh cửa ra vào để ngỏ. Tôi bèn gọi to ba lần:
-Con mới về!
-Con đó hả, Bon bon? Giúp ông
đi tiểu được không?
-Ái chà!
Đây là phần việc tôi ghét
nhất. Sau bữa cơn, tôi lật ngược tấm nệm và đưa bình
đựng nước tiểu cho ông. Mười phút trôi qua nhưng ông không
ra được một giọt.Tôi chờ đợi. Tôi thốt lên mấy câu
bộc lộ sự thiếu kiên nhẫn và ghê tởm. Tôi không thể
ghìm lại được.Ông tôi lẳng lặng xin lỗi. Tôi biết giờ
đây ông đã yếu lắm rồi. Hôm nay, tôi đã thấy mặt ông
xạm đi vì bóng đen của sự chết. Tôi cảm thấy xấu hổ.
-Ôi chao! Đau quá, đau quá!
Cái giọng run rẩy và the thé
của ông làm tôi lặng người, sau đó có một tiếng động
nhỏ, trong trẻo và ngắt quảng.
Buổi tối.
Khi lục lọi trong hộc bàn,
tôi tìm ra dược một quyển sách nhan đề: "Vai trò quan trọng
của phong thủy trong việc xây cất nhà cửa"(Cấu trạch an
nguy luận). Đó là quyển sách ông đã đọc cho người ta chép.
Trong đó có những đoạn ông chú thích:"Đây là một cuốn
sách về phong thủy mà tôi đã đọc cho một người đàn ông
ở làng bên chép lại. Anh ta là học trò của tôi về bói
toán và phong thủy". Ông tôi đã tìm mọi cách để xuất bản
nó. Ông còn nói chuyện đó với Toyokawa (một người giàu
có ở Ôsaka) nhưng những tờ giấy chẳng được dùng này
rốt cuộc phải nằm trong ngăn kéo. Tuy ông tôi đã theo đuổi
mục đích này suốt một đời nhưng bao cố gắng của ông
chỉ gặt được toàn thất bại. Không biết ông nghĩ thế
nào về điều đó. Cho dù gặp nhiều trở ngại, ông đã sống
đến cái tuổi 75. Trái tim ông rắn rỏi và điều đó giải
thích lý do ông có thể kháng cự những khó khăn và sống
thọ như thế. Không biết đứa con hay đứa cháu nối nghiệp
mình sẽ làm được những gì nhưng làm gì mà ông không cảm
thấy một tình cảm cô độc khi ông không có được một
người đối thoại và còn chịu đựng cảnh mù lòa điếc
lác? Nhất định là ông cảm thấy mình bị bỏ rơi và cô
đơn vô cùng. Đó là số phận hiện tại của ông. Cách nói"
Sống trong đau khổ và nước mắt" thật chính xác khi dùng
để diễn tả cảnh ngộ của ông.
(Thuật bói toán và phong
thủy mà ông tôi đeo đuổi đã đem đến nhiều kết quả
trong thực tế, giúp ông có được ít tiếng tăm.Nhiều người
lặn lội từ xa để xin ý kiến.Tôi nghĩ nếu ông xuất bản
được cuốn sách đó chắc cuộc đời của ông không đến
nổi điêu đứng như thế này. Tôi nhớ hồi xưa có thời
tôi đã tự hỏi mình có nên tin vào thuật tướng số của
ông không. Lúc đó, tôi đã học đến năm thứ ba trung học,
đang sống ở miền quê và chưa có lần nào có ý định mời
bác sĩ đến khám bệnh cho ông, một người đã không đi đồng
từ 30 hôm rồi. Tôi cứ đinh ninh giống như những kẻ mê
tín dị đoan là trong bụng người ta, có một con quái vật
đang nằm chực để quấy phá và đó là kết quả của sự
trù ẻo của thần chồn Inari. Dù rằng câu chuyện này có
vẻ kỳ khôi nhưng khi nhớ lại nó, tôi không thể nào cười
nổi).
(Mặt khác, nhân nói về
một chuyện liên quan đến chùa chiền, thì ông tôi có quen
người tên Toyokawa, một kẻ giàu có ở vùng Ôsaka. Trong làng
của chúng tôi, có một ngôi chùa sư nữ.Tổ tiên tôi đã
dựng lên ngôi chùa ấy. Rừng thưa, rừng rậm và những cánh
đồng bao chung quanh đều thuộc về dòng họ nhà tôi.Các ni
cô đều có tên trong sổ hộ tịch của gia đình tôi. Chùa
ấy là một ngôi chùa thờ Đức bồ tát Kokuzô (Hư Không Tạng
tức Địa Tạng) và thuộc về phái Ôbaku (Hoàng Bá). Mỗi
năm vào ngày "Hành hương của lứa tuổi 13" (Juusan-mairi), các
em vừa đến tuổi 13 từ các làng lân cận đến chùa thật
đông đảo.Vào thời ấy, có một vị hòa thượng sống ẩn
cư trong một ngôi chùa danh tiếng trên núi, cách làng chúng
tôi khoảng 4 cây số (1 ri) được gửi đến để trụ trì
ở chùa làng tôi. Ông tôi xem điều đó là một vinh dự nên
đã xóa tên các ni cô ra khỏi cuốn sổ hộ tịch gia đình
và biến họ thành người của nhà chùa. Riêng ngôi chùa thì
được trùng tu thật tráng lệ và còn được đổi tên. Trong
thời gian sửa chửa, chúng tôi đã giữ trong nhà bức tượng
Bồ tát Kokuzô cũng như 5, 6 bức tượng bồ tát khác. Nhờ
các vị này mà trong nhà chúng tôi đã có dịp trải chiếu
tatami mới. Trước đây, vì túng tiền, chúng tôi chỉ trải
nệm rơm trên diện tích của căn phòng. Người đã đưa nhà
sư này đến trụ trì ở đấy và bỏ tiền ra trùng tu ngôi
chùa cũng như mua chiếu mới để lót là cái ông Toyokawa, một
tay cự phú ở Ôsaka).
Đôi khi ông tôi cũng chứng
tỏ mình là người tốt bụng. Sáng nay, khi O-Miyo nói với
chúng tôi:
-Nhân dịp tôi vừa có đứa
cháu nhỏ, ba mươi gia đình ở đã đến mừng, ngay cả những
người tôi không biết từ đâu tới. Tôi đã sửa soạn ít
bánh dẻo mochi biếu họ để trả lễ nhưng không đủ. Tôi
phải cất công làm lại một lần nữa.
-Ôi chao! Những 30 gia đình
cơ à? Vú định nói trong một ngôi làng chỉ có năm mươi
nóc gia mà đã có đến 30 nhà đến để mừng vú à?
Lúc đó, ông tôi không than
vãn như mọi lần, nước mắt ứa ra và ông bắt đầu khóc.
(Sở dĩ ông tôi hạnh phúc
là vì ông thấy O-Miyo - một người đàn bà nhà quê nghèo
khó và làm lũ - đã được nhiều người đến chia vui như
thế).
O-Miyo khổ tâm vì phải để
tôi đứng ra chăm sóc cho ông tôi. Vào khoảng 8 giờ tôi, khi
bà sắp phải về nhà, ông lại nhờ:
-Tôi mót đi giải quá!
-Được. Thế thì tôi sẽ quay
lại ngay.:
-Vâng. Phải rồi. Vú đến
khi nào tiện cho vú.Tôi có mặt đây mà.
Tôi trả lời bà nhưng hơi
do dự.
Ngày 8 tháng Năm
Trời sáng ra. Tôi đợi O-Miyo.
Tối hôm qua, ông tôi không cho rằng tôi đối xử với ông
không tốt và bày tỏ sự bất mãn. Có thật là tôi đã xử
tệ với ông không? Ông đã bắt tôi thức dậy nhiều lần
trong đêm, làm tôi mệt lã. Tôi chán ngấy việc cho ông đi
tiểu. O-Miyo nói với tôi:
-Cụ nhà không bao giờ bằng
lòng.Cụ chỉ nghĩ cho cụ chớ không cần biết gì về những
người chung quanh đang phải chăm sóc cụ. Làm như chúng mình
không có chuyện gì khác để làm. Cụ còn muốn kéo chúng
mình theo khi ông trời bắt cụ đi.
Sáng hôm nay, tôi đã nghĩ đến
việc bỏ rơi, không còn muốn làm gì cho ông tôi nữa. Mỗi
ngày, trước khi đến trường, tôi thường hỏi ông tôi có
cần tôi làm gì không, nhưng sáng nay, tôi đã lẻn đi mà không
nói không rằng. Lúc về đến nhà, tôi mới tiếc là mình
đã xử sự như thế.
O-Miyo nói với tôi:
-Hôm nay, chúng tôi đã nói
chuyện với nhau về cái thời cụ còn làm nghề coi phong thủy.
Cụ nhớ mang máng là lúc đó cụ rất khỏe, ăn uống veo veo.
Nghe lời bà ta, tôi bèn nghĩ
đến con quái vật đang nằm trong bụng của ông tôi, nó cũng
chỉ biết ăn uống!
Sau bữa cơm tối, ông tôi đã
đưa ra nhận xét:
-Tôi cảm thấy an tâm vì đã
có thể nhắc lại những kỷ niệm tôi vẫn ôm ấp trong lòng.
Có thể là ông tôi cảm thấy
an tâm nhưng điều này có hơi ...kỳ cục.
O-Miyo vừa cười vừa bẻ lại
ông tôi:
-Khi gợi lại những cảnh ngộ
khó khăn cụ gặp phải, tôi không hiểu làm sao cụ lại cảm
thấy an tâm!
Trong khi tôi đang suy nghĩ về
nhận xét ấy thì ông tôi lại tiếp lời:
-Con có cái gì cho ông ăn không?
-Ông mới ăn xong mà!
-Thế sao? Ông đâu có nhớ.
Ông quên béng.
Lòng tôi chùng xuống. Lời
ông nói càng ngày càng khó hiểu. Nhiều khi ông lập đi lập
lại 10 lần cùng một câu.
Tôi bày xấp giấy ra trước
mặt. Tôi đang ngồi trước bàn viết còn O-Miyo ngồi trên
chiếu tatami. Chúng tôi đang sẵn sàng nghe ông kể lại những
kỷ niệm ông vẫn ôm ấp trong lòng.
(Tôi muốn ghi lại thật
trung thực những điều ông nói ra)
"Các người có biết con triện
của Bon bon dùng cho công việc ở ngân hàng không nhỉ?. Phần
tôi thì từ khi sinh ra, ttôi không hề biết cách dùng con dấu
bao giờ. Tôi chỉ để tiền bạc thất thoát. Tôi đã làm
tiêu tán tài sản của tổ tiên. Dù vậy, tôi vẫn sống tự
hào suốt một đời. Ôi, phải chi tôi được gặp Ôkuma Shigenobu [6]!
Ngồi trên chiếu tatami trước mặt ông ta, chắc tôi phải
run lắm. Ôi chào, 17 mẫu ruộng bán cho Matsuo, tôi đã định
tìm cách mua lại để trả về Bon bon, thế mà không cách chi
thực hiện.
(Từ hồi rất trẻ, ông
tôi đã lăn vào bao nhiêu thứ kinh doanh, nào là trồng trà,
làm thạch trắng (kanten), nhưng lần nào cũng thất bại.Ông
cũng thích bói toán, phong thủy, phá nhà để sửa lại, xây
cất nhà vv..và cuối cùng phải bán dần những ngọn đồi
và cánh đồng thừa tự với một giá rẻ mạt. Một phần
đất cát đã rơi vào tay một tay buôn rượu sake tên là Matsuo,
một thầu khoán giàu có ở Nada, và ông tôi lúc nào cũng nuôi
mọng thâu hồi lại phần gia sản ấy).
-Tôi nhất quyết trả lại
cho Bon bon mươi mẫu ruộng để nó khỏi phải sống nghèo
túng, nhỡ khi nó không đi xa được ở Đại Học, Tôi rất
tiếc đã phải gửi nó cho bên nhà Shimaki (phía cậu nó) và
nhà Ikeda (phía dì nó) trông nom. Tôi vẫn thường nói với
thầy Go-Zen (một nhà sư) phải chi Bon bon giữ được ngôi
nhà thừa tự và mấy mẫu ruộng đó thì hay biết mấy.Tôi
chi mong mớ của cải này giúp nó khỏi đổ mồ hôi để có
lấy bát cơm. Từng nuôi bao nhiêu hy vọng như thế nên ngày
nó phải đi lên Tôkyô, tôi hết sức buồn. Nhưng giờ đây,
dù có than thở, cũng chẳng đem lại được gì. Nếu tôi ra
tay sớm thì Bon bon đã có thể sống như một cậu con nhà
địa chủ, suốt đời chẳng phải nhờ vả ai. Nếu tôi đủ
sáng suốt thì tôi đã đi tìm gặp ông Ôkuma rồi. Thế có
phải dễ dàng hơn không? Tôi đã bàn bạc với thầy Jikô
(nhà sư trông coi ngôi nhà thờ họ của các gia đình trong
làng) về khả năng của chuyến đi này nhưng mọi người nghĩ
là tôi điên vì muốn lên tận Tôkyô.
(Ông tôi muốn lên Tôkyô
gặp Ôkuma Shigenobu với một mục đích rõ rệt. Ông vốn có
một số kiến thức về Đông y. Hơn nữa, cha tôi lại là
bác sĩ, tốt ngiệp Y khoa Đại học Tôkyô. Ông tôi có một
chút ít kiến thức Tây y và biết phối hợp hai thứ kiến
thức Đông Tây đó cho nên trong một thời gian đã thử hành
nghề bằng cách bốc thuốc cho toa để trị bệnh cho nông
dân trong làng. Ông rất tự tin về tài nghệ của mình trong
lãnh vực y khoa..Chẳng hạn bệnh kiết lỵ (đi tiêu ra máu)
- đương thời là một hiểm họa- đã là một cơ hội để
ông có thêm xác tín về điều đó. Dạo ấy đang mùa hè,
trong phòng khách của gia đình chúng tôi có trưng tượng các
vị bồ tát bởi vì ngôi chùa nơi các sư nữ tu hành mà tôi
nhắc đến bên trên đang phải trùng tu.Trong số 50 gia đình
cư trú trong làng, mỗi gia đình đều có trung bình 1 người
mắc bệnh kiết lỵ. Dân chúng bèn cấp tốc cất hai bệnh
xá để cách ly mấy người bệnh này. Mùi thuốc khử trùng
xông ra đến tận cánh đồng làng. Một số cho rằng lý do
gây ra bệnh dịch là vì người ta đã dời tượng Phật cổ
ra khỏi chùa. Lúc đó ông tôi đã trị bệnh nhân hoàn toàn
bị cách ly này bằng phương pháp của ông và đôi khi cũng
có hiệu quả. Nhiều bệnh nhân trong bệnh xá đã vứt thuốc
bệnh viện phát cho để dùng thuốc của ông tôi. Ông cũng
theo dõi những người đã xuất viện và bốc thuốc cho họ
nữa.Thực ra, không hiểu thuốc của ông tôi có một giá trị
y học gì không nhưng không ai chối cãi được là nó khác
thuốc thường dùng và có hiệu quả tích cực. Vì lẽ đó,
ông tôi muốn mở rộng phạm vi áp dụng của nó. Ông đã
viết một bản báo cáo về các phương thuốc của mình trình
cho Bộ Nội Vụ và đã được bộ này cho phép bán 3, 4 món
thuốc do ông sáng chế. Ông cho in khoảng 5, 6 nghìn bao đựng
thuốc với nhãn hiệu như là "Higashimura Sanryuu dô" (Đông Thôn
Sơn Long Đường) hay gì đó nhưng việc chế tạo đã không
phất lên được. Cho đến ngày qua đời, ông tôi vẫn ấp
ủ ý nghĩ này trong đầu. Ông tin tưởng rằng nếu ông có
dịp trình bày chuyện này với một nhân vật mà mình kính
trọng như Ôkuma Shigenobu thì có thể được ông ấy giúp đỡ.
Ngoài việc chế thuộc, ông tôi còn viết một cuốn sách nhan
đề "Vai trò quan trọng của phong thủy trong việc xây dựng
nhà cửa" (Cấu Trạch An Nguy Luận))
-Gia đình nhà mình có từ thời
Hôjô Yasutoki [7]
Nó đã kéo dài suốt 700 năm và sẽ còn kéo dài mãi. Với
thời gian, thế nào cánh nhà mình cũng sẽ tìm lại vinh quang
thuở trước.
O-Miyo cười và đưa ra nhận
xét:
-Thôi, cụ ơi! Toàn chuyện
trời biển. Bây giờ mà cụ còn có thể huênh hoang như thế
à!
-Ôi! Ông chỉ cầu mong sao trong
lúc ông còn sống, cháu chưa cần đến sự giúp đỡ của
hai nhà Shimaki và Ikeda. Hy vọng là chưa đến nỗi thế! Này
O-Miyo, khi tôi nghĩ về những chuyện như vậy, tôi buồn lắm,
bà ạ. Bà có nghe tôi nói gì không? Đó là những điều phát
xuất từ đáy lòng đấy.
Nãy giờ chỉ cười sơ sơ
nhưng giờ đây bà vú O-Miyo lại cười đến rũ cả người.
Còn tôi thì vẫn điềm nhiên tiếp tục ghi chép những điều
ông nói.
-Mỗi lần thở mạnh, tôi thấy
rất mệt. Nếu khoảng 2, 3 nghìn Yen, mình còn kiếm được,
chứ 120, 130 nghìn Yen, hỏi tìm đâu cho ra? Đó là một món
tiền vô cùng lớn, khó xin ai lắm. Giờ đây, đau ốm như
thế này, làm sao tôi đi đâu được, họa chăng ông Ôkuma
chịu khó tìm đến đây thôi. Bộ chuyện tôi nói khôi hài
lắm sao mà mấy người cười? Đừng làm như thể tôi là
thằng dở hơi nhá. Chuyện này khó đấy nhưng tôi phải gắng
cho kỳ được. Nếu không thì còn đâu là sự nghiệp 700 năm
của gia đình!
-Nhưng cậu Bon bon đang còn
đây để chăm sóc cho cụ mà. Thôi, cụ ơi, đừng có bực
bội vì ba chuyện không đâu.
-Ủa! Vú tưởng tôi khùng à?
Nếu có cơ hội, thế nào tôi cũng đi gặp cho được ông
Ôkuma. Từ rày về sau, tôi ngày càng yếu. Cho dù tôi thành
Phật (= chết) thì tôi vẫn giữ mãi ý nguyện này trong đáy
lòng.Các người tưởng tôi là thằng khùng à? Sao, không ai
cho tôi đi giải cái coi. Nếu không ai giúp là tôi không biết
đường nào mà rờ. Thà chết còn hơn.
Lòng tan nát, tuy có ngượng
ngùng, tôi vẫn tiếp tục chép từng chữ một những điều
ông thốt ra. O-Miyo cũng không cười nữa. Bà vừa nghe vừa
lấy tay chống cằm.
-Sức yếu như thế này thì
nếu đi Tôkyô, tôi sẽ rước lấy toàn chuyện rắc rối.
A ! Nam mô A Di Đà Phật! Nếu không làm được chuyện này,
coi như tôi thất bại hoàn toàn, thà chết đi còn hơn. Mọi
người cười cợt khi thấy tôi cứ kể lể chuyện xưa. Tôi
không muốn sống trong thế gian này nữa. Nam mô A Di Đà Phật!
Nam mô A Di Đà Phật!
Tôi thấy ông như ánh sáng
một ngọn đèn đang lu dần.
-Ôi trời! Ôi trời! Tiếng
rên đau đớn của ông càng lúc càng rít lên. Con người ta
không thể nao sống với những hoài bão không thực hiện được.
Một người đã sống suốt 50 năm với một ý kiến duy nhất
trong đầu, đó là Ôkuma Shigenobu.(Lúc đó, ông này đang
là Thủ tướng). Tiếc thật, phải chi ông ấy có thể
giúp tôi.
O-Miyo nói lên vài câu an ủi:
-Đúng là cụ thiếu may mắn.
Nhưng Bon bon rồi sẽ tìm ra đường hướng. Cậu ấy sẽ thành
công trong đời. Cụ đâu có gì phải lo.
Đột nhiên, ông trừng mắt
nhìn thẳng vào tôi và cất cao giọng.
-Khi nó ra tiếp xúc với đời,
nó sẽ hiểu thế nào là việc có được tiếng tăm.
Ông đã lẫn hoàn toàn.
-Tôi không dám nói là tôi thích
những người có của. Cứ xem Matsuo với Katayama thì biết.
Họ chỉ coi trọng mỗi đồng tiền. Xin Đức Phật phù hộ
cho tôi!
(Matsuo là tay mối lái bán
sake sau chuyển qua ngành xây dựng còn Katayama là một người
trong gia đình mới tập tểnh trong lãnh vực địa ốc).
Bộ râu dài màu trắng của
ông tôi phản chiếu ngọn lửa của cây đèn làm lóe lên những
ánh bạc.
-Sống ở đời, không nên bám
víu vào một cái gì cả. Cuộc sống ở thế giới bên kia
mới là cái quan trọng. Thế nhưng người ta không thể đi
về cõi Cực Lạc với những chương trình thất bại.
Lợi dụng lúc ông ngừng nói
để lấy hơi, O-Miyo giảng nghĩa cho tôi hiểu lý do ông tôi
trở nên khó tính:
-Mấy lúc sau này, cụ hay sai
tôi đi kiếm hòa thượng trụ trì ở chùa Saihôji (Tây Phương
Tự) cho cụ, nhưng lần nào tôi hỏi, nhà chùa cũng nói là
thầy ấy đi vắng...Đó chính là nguyên nhân làm cụ khó ở
trong người.
Tôi thông cảm với thái độ
của ông. Tôi cũng cảm thấy tức giận. Ai đời mình lại
để cho thiên hạ coi thường.
-Còn con, này, trong đám người
đó chỉ có mình mầy là chưa học hết trung học.
Sáng nay, ông tôi đã nhìn tôi
với một cặp mắt hung dữ và khinh miệt như thế.
Chúng tôi đổi bên nằm cho
ông. Tôi mở cuốn sách giáo khoa tiếng Anh để chuẩn bị
cho giờ thi ngày mai. Tôi có cảm tưởng mình như đang bị
giam trong một cái hộp vuông. Tối nay, tiếng nói của ông
nghe như không còn thuộc về thế giới này nữa. Sau khi O-Miyo
ra về, tôi nói với ông về dự tính tương lai của mình những
mong nó sẽ làm ông bớt lo lắng.
Đêm đã vào khuya.
-Thật khó biết trước mai
sau mình sẽ làm gì, sống như thế nào.
Đột nhiên ông nói với tôi
bằng một cái giọng vọng ra từ cổ họng:
-Phải, rất khó.
Ngày 10 tháng Năm
Buổi sáng.
-Hòa thượng trụ trì đã ghé
qua chưa?
-Thưa chưa.
-Thầy Jiraku đó độ rày chẳng
còn tới thăm ông, dù chỉ một lần. Trước đây, ngày nào
mà thầy ấy chả ghé! Ông chỉ mong sao thầy ấy đến thăm.
Ông chẳng thay đổi bao nhiêu. Người ta đâu thay đổi chóng
vánh đến mức ấy. Phải chi có dịp gặp thầy ấy một lần
để chuyện vãn thì vui biết mấy.
Cách nhả chữ từng chữ một
biểu lộ sự xác tín của ông tôi:
-Ông muốn gặp Hòa thượng
Jiraku quá!.
Riêng tôi, tôi chỉ thì thầm:
-Còn đối với những người
tuyệt đối cần gặp ông thì ông tính sao đây?
Ngày 14 tháng Năm
Tôi bị đánh thức bởi tiếng
ông tôi gọi:
-O-Miyo! O-Mkiyo! O-Miyo!
Tôi choàng dậy và hỏi:
-Có gì vậy hở ông?
-O-Miyo đã tới chưa?
Chưa, ông ạ. Mới có hai giờ
sáng thôi mà!
-À, ra thế!
Cho đến khi ngày rạng sáng,
cứ mỗi 5 phút, ông lại réo tên O-Miyo.Tôi nghe tiếng ông
mà cứ ngỡ trong mơ. O-Miyo đến nơi vào khoảng 5 giờ sáng.
Lúc tôi từ trường về nhà
thì đã 5 giờ chiều.
O-Miyo nói với tôi.
-Hôm nay, cụ toàn nói xàm.
Tôi không rời cụ được một phút. Hết cho cụ đi giải,
tôi phải đổi hướng nằm cho cụ, cho cụ uống trà, hút
thuốc.Tôi không sao về nhà được.
-Phải chi gọi được bác sĩ
tới xem cho cụ.
Điều này, tôi đã nghĩ đến
từ lâu. Chúng tôi có đủ tiền để mời một bác sĩ giỏi.Tuy
nhiên, ông tôi lại không muốn vì không muốn ai đụng vào
người. Ông sẽ cáu lên và chữi rủa bác sĩ và sẽ gây nhiều
rắc rối. Đó là mối lo của chúng tôi.
Buổi sáng hôm đó, ông hỏi:
-Bác sĩ, họ có ... cắt móng
tay cho mình không?
Rồi đến tối, đến lượt:
-O-Miyo! O-Miyo! O-Miyo!
Tiếng gọi đó đã nhẹ nhàng
đi đến tận lỗ tai tôi nhưng thực ra tôi không để ý đến
nữa.
-Cái gì đấy ạ?
-O-Miyo có thể cho ông ăn sáng
không?
-Nhưng ông vừa mới ăn cơm
tối đây mà. Chưa đến 1 tiếng đồng hồ.
Ông tôi có vẻ vô cùng thất
vọng. Không biết ông có hiểu lời tôi nói?
-Cháu đổi thế nằm cho ông
được không?
Ông tôi nói điều gì đó năm
lần bảy lượt nhưng tôi chẳng hiểu gì cả. Tôi bắt ông
lập lại nhưng ông không thèm trả lời.Tôi hoàn toàn tuyệt
vọng.
-Ông có muốn uống trà không?
-Hả? Trà hở con? Hẩm quá.
Nguội mất rồi cũng nên. Trà này là loại nào vậy?
Giọng của ông nghe thật tội
nghiệp.
-Thôi, ông muốn nói gì cũng
được!
Nói xong, tôi im lặng và rời
khỏi chỗ đầu nằm của ông.
Một lát sau:
-O-Miyo! O-Miyo!
Ông không còn gọi tên tôi
nữa.
-Có gì vậy ông?
-Hôm nay khi đi đến đằng
nhà Ikeda (gia đình người dì của tôi sống cách đó mươi
cây số), cháu có gặp Eikichi không?
-Nhưng con đâu có đi đến
nhà Ikeda!
-Thế sao? Mày đi đâu vậy?
-Không đi đâu cả.
-Lạ quá nhỉ!
Không hiểu vì lý do gì ông
tôi lại đặt câu hỏi đó. Đó mới là điều đáng lấy
làm lạ. Lúc đó, tôi đang làm bài luận.
Ông lại kêu lên:
-O-Miyo! O-Miyo! O-Miyo!
Giọng của ông sắc nhọn,
nghe như người đang khó thở.
-Cái gì vậy ông?
-Cho ông đi giải cái coi.
-Nhưng O-Miyo về nhà rồi. Đã
hơn 10 giờ tối.
-Thế có ai cho ông ăn cơm không?
Tôi bối rối, không biết trả
lời làm sao.
Ông tôi giống như một manh
kimono cũ, nó đã sờn rách và nhúm nhó. Da của ông không đàn
hồi được nữa. Nếu có bấu vào da thịt ông, nó vẫn cứ
y nguyên. Hôm nay ông lại nói toàn những câu làm tôi bực
mình. Sắc mặt ông càng ngày càng đáng lo ngại.
Ngày 15 tháng Năm
O-Miyo bận công chuyện trong
vòng 4, 5 hôm tính từ hôm nay, bà già O-Tsune sẽ đến để
thế chỗ (Đó là một người láng giềng mà chúng tôi biết
rõ).
Khi từ nhà trường về, tôi
nói với O-Tsune:
-Hy vọng là hôm nay ông tôi
không nói điều gì khó nghe.
-Không. Hoàn toàn không. Khi
tôi hỏi cụ có cần gì không thì cụ chỉ nói là muốn đi
giải. Cụ ngoan ngoãn lắm.
Câu trả lời kín đáo này
đối với tôi là câu nói đằm thắm nhất.
Hôm nay có lẽ ông đau đớn
nhiều dù chúng tôi đã tìm đủ cách làm cho ông đỡ đau.
-Ôi chao! Ôi chao ơi!
Ông cứ lập đi lập lại những
câu khó hiểu và không ai biết là ông đang muốn bày tỏ điều
gì hay ông đang bị ngạt thở. Tiếng rên rỉ của ông rền
trong óc tôi từng chặp và tôi cảm thấy mệt mỏi như cuộc
đời của tôi đang rã rời theo mỗi phút giây.
-Ôi! Ôi! O-Miyo! O-Miyo! O-Miyo!
Tới nhanh lên. Đây, ở đây này!
-Có gì vậy ông?
-Ông sắp xón đái...nhanh nhanh!
-Con tới ngay đây!
Tôi ngồi đó khoảng 5 phút
để giúp ông đi tiểu.
-Đây, ông đái nhé!
Ông không còn cảm giác gì
cả.Tôi buồn vì không giúp được ông.
Hôm nay, ông lại sốt. Một
mùi hôi hám bốc lên từ thân thể ông. Tôi ngồi đọc sách
cạnh bàn viết. Tôi nghe tiếng kêu than nhức nhối và the thé
của ông. Đó là một đêm mưa tháng Năm.
Ngày 16 tháng Năm
Vào khoảng 5 giờ chiều, Hyôe
Shirô đến thăm chúng tôi. (Ông ta là một người già thuộc
dòng thứ trong nhà. Thực ra ông chỉ có quyền được mang
tên của tộc chứ không còn có liên hệ gì đến dòng trưởng.
Thế nhưng ông đặc biệt thân thiết với ông tôi). Ông
ta nói đủ mọi điều để an ủi nhưng ông tôi chỉ trả
lời bằng những âm thanh Mmm...Mmm...
Ông Hyôe Shirô căn dặn tôi
đủ điều. Cuối cùng, ông còn nhìn thẳng vào mắt tôi và
nói: "Có thể đối với một người hãy còn quá trẻ như
cháu thì đây là một trách nhiệm nặng nề nhưng cháu hãy
ráng lo cho ông cháu nhé!". Nói xong, ông ra về.
-Cháu đi chơi một chút.
Khoảng 7 giờ chiều, tôi nói
với ông tôi như thế và ra khỏi nhà.
Khi tôi trở về vào khoảng
10 giờ tối, từ đầu ngỏ tôi đã nghe tiếng kêu đâu đớn
của ông. Ông không ngừng réo:
-O-Tsune! O-Tsune!
-Có gì vậy ông?
-Chứ O-Tsune đâu?
-Bà ấy về nhà rồi. Đã mười
giờ tối.
-Bà ấy đã cho ông ăn chưa?
-Dĩ nhiên là ông đã ăn xong.
-Bụng ông đói quá. Con không
đem được cho ông cái gì để ăn à?
-Nhà hết cơm rồi.
-Thế à? Giờ mình phải tính
sao?
Cuộc đối thoại của ông
với tôi không bao giờ diễn ra hợp lý. Ông tôi chỉ lập
đi lập lại mỗi một câu. Lời của ông chui vào lỗ tai này
lại lọt ra lỗ tai khác của tôi bởi vì ông sẽ lại bắt
đầu với cùng một câu nói. Ông đã lẫn thật rồi.
............. HẬU TỰA I
Nhật ký của tôi chấm dứt
nơi đây. Bản thảo này tìm lại được từ nhà kho chú Shimaki
10 năm sau ngày nó được viết ra. Ngoài 30 trang chép trên thếp
giấy học trò thì chẳng có thấy có kèm theo gì khác. Có
lẽ tôi ngừng viết chỉ vì chiều ngày 24, ông tôi đã qua
đời. Ngày cuối cùng ghi trên tập nhật ký là 16 tháng Năm
tức 8 ngày trước khi ông mất. Từ hôm 16 đó trở đi, bệnh
tình của ông càng ngày càng nặng. Ở nhà, tôi lu bu công việc
nên không tìm đâu ra thời giờ để viết nhật ký. Khi tôi
tìm lại được tập nhật ký này thì có một điều lạ xảy
ra là tôi không còn nhớ một điều gì về những chuyện hằng
ngày trong khoảng thời gian tôi viết nó.Những ngày tháng ấy
đã trôi về đâu để đến đỗi tôi chóng quên đi một cách
dễ dàng đến thế? Nó đã biến mất ở nơi nào? Có thể
là con người đã tan loãng vào trong quá khứ. Thế nhưng những
năm tháng này thì vẫn còn được cất giữ nguyên vẹn trên
rường nhà kho của chú tôi dưới đáy một cái rương có
quai da. Đó là cái rương con mà bố tôi vẫn mang theo người
khi đi chung quanh vùng chẩn bệnh cho người ta. Sau khi đã làm
tiêu tán tài sản của gia đình trong những lần đầu tư chứng
khoán sai lầm, chú Shimaki của tôi đã bán đổ bán tháo đến
cả tủ bàn trong phòng khách. Trước khi những món đồ trong
nhà kho chưa kịp sang tay kẻ khác, tôi đã đến cái nhà kho
này xem thử có món đồ nào thuộc về chúng tôi chăng. Tôi
đã tìm ra chiếc rương con được khóa trái này. Tôi bèn dùng
con dao nằm bên cạnh kể cắt cái quai da của nó. Trong đó,
tôi đã tìm thấy nhiều hồi ký về thời trẻ của tôi đặt
để lộn xộn, trong đó có tập "Nhật ký năm 16 tuổi" này.
Nhật ký đã biểu lộ một cách trung thực tâm trạng của
tôi trong đoạn đời thuộc về cái quá khứ đã bị lãng
quên ấy. Theo đó thì tình trạng của ông tôi còn đáng sợ
hơn là những gì tôi còn giữ trong ký ức. Trong 10 năm trời,
ký ức của tôi đã không ngừng thanh lọc hình ảnh của ông
tôi.
Tôi không nhớ từng từng từng
ngày mà tôi nhắc đến trong cuốn nhật ký này nhưng tôi còn
nhớ cái lúc người bác sĩ đến bên đầu nằm của ông.
Ông tôi có thói quen là khinh miệt và nghi ngờ những ông bác
sĩ nhưng lần đó lại chịu tiếp và không làm khó dễ gì
cả. Ông lại vừa cảm ơn vừa khóc nữa. Tôi cỏn có cảm
tưởng là ông thực lòng biết ơn người thầy thuốc. Thế
những tình cảnh cô độc của ông trông thấy mà buồn thảm.
Ông chết đúng hôm đại tang Hoàng hậu.[8].
Tôi không nhớ năm đó mình
có bị bắt buộc tham dự lễ bái vọng để điếu tang bà
ở trường trung học hay không. Trường học cách nhà tôi những
2 cây số rưỡi. Không hiểu sao mà hôm ấy tôi lại cảm thấy
bồn chồn nên không lòng dạ nào đứng xếp hàng ngay ngắn
để tham dự buổi lễ. Không biết ông tôi có mất vào giờ
phút ấy không nhỉ? Khi O-Miyo xin phép hộ cho tôi đi, ông đã
trả lời:
-Dĩ nhiên nó phải đi dự chứ!
Đó là nghĩa vụ của mọi người dân nước Nhật.
-Thế lúc con về, ông có còn
sống không hở ông?
-Còn chứ! Con cứ đi đi.
Tôi vội vã lên đường ngay
nhưng lúc đó đã trễ vì buổi lễ bắt đầu từ 8 giờ tối.
Cái quai guốc gỗ (gheta) của tôi bị đứt (Thời đó, ở
trường, chúng tôi ăn mặc theo kiểu ta). Tôi bèn tức tốc
quày trở lại nhà. O-Miyo đang có ở đó. Lạ lùng thay, bà
lại bảo tôi đừng có tin dị đoan (vì bị đứt dép, NNT)
và khuyến khích tôi quay lại trường ngay Tôi bèn thay guốc
rồi đi một mạch đến đó.
Khi buổi lễ cầu siêu (cho
Hoàng hậu) đã chấm dứt, tôi càng cảm thấy trong người
bất an.Trời đêm tối đen. Mỗi ngôi nhà đều có thắp một
ngọn đèn cầu hồn.Tôi tháo guốc rồi với hai bàn chân đất,
lội bộ thêm hai cây số nữa để về nhà.
Tối hôm đó, tôi về đến
nhà khi đã quá nửa đêm nhưng ông tôi vẫn còn sống.
Tháng 8 năm ông tôi qua đời,
tôi đã ra khỏi nhà của ông tôi và về ở với người chú.
Ông tôi rất gắn bó với ngôi nhà và tôi rất láy làm buồn
vì sau đó đã phải bán nó đi.
Về sau, khi đã ở hết nhà
này đến nhà khác trong vòng thân thuộc, vào nội trú rồi
trọ học nhiều nơi, tôi đã đánh mất khái niệm về một
mái ấm gia đình.Tôi không nghĩ gì khác hơn là rong chơi khắp
nơi và cho đến ngày nay, vẫn chưa hề muốn ghé mắt xem bản
gia phả của dòng họ mình hiện đang được cất giữ trong
một ngăn kéo của tủ thờ tổ tiên đặt ở nhà O-Miyo, người
duy nhất mà tôi tin tưởng. Ngay cả ông tôi cũng đã dặn
tốt hơn là đừng đem nó cho mấy người anh em họ của tôi
xem. Tôi không hề trách móc ông về việc ấy, cho dù trong
đầu tôi có hơi bấn loạn nhưng tôi luôn luôn tin ở sự
sáng suốt và lòng cao thượng của những người đã khuất.
HẬU TỰA II
Tôi từng viết "Sau khi đã
làm tiêu tán tài sản của gia đình trong những lần đầu
tư chứng khoán sai lầm, chú Shimaki của tôi đã bán đổ bán
tháo đến cả tủ bàn trong phòng khách". Chính ra việc bán
đồ đó là do các người em họ của tôi chủ trì và chỉ
xảy ra sau khi chú tôi đã mất chứ bình sinh chú ấy là một
người đáng tin cậy và cẩn thận.Còn như khi tôi nói là
cái rương con bố tôi dùng khi đi chẩn bệnh có đầy những
cuốn nhật ký chứa đựng tâm tình của thời niên thiếu
thì cũng hơi phóng đại. Những cuốn nhật ký này ghi chép
từ thời vào trung học, tôi đã gìn giữ hầu như tất cả,
ngoài ra, chúng không đến nổi nhiều như vậy.
Tôi vẫn nhớ cái rương con
- tạm gọi như vậy - mà bố tôi đã mang theo mỗi khi ông
đi chẩn bệnh. Mấy ông thầy thuốc thời đó ít khi dùng
những thứ rương con đáy cứng và rộng như thế đâu. Mặt
khác, tôi cũng không nhớ trong cái rương đó, có bao nhiêu
trang trong số "30 trang nhật ký tôi đã viết hồi học trung
học". Lý do là năm 27 tuổi, khi tôi chép lại nó, những tờ
chép nguyên văn những kỷ niệm năm 16 tuổi đã tản mát cả
và có nhiều chỗ bị rách. Tuy nhiên khi chỉnh lại thứ tự
trước sau, tôi đã tìm ra được hai trang nhật ký, đó là
trang thứ 21 và 22. Làm sao nó có thể bị nhét vào đây?. Có
lẽ nó còn sót lại sau một cuộc hủy hoại. Tôi bèn đặt
vào cuối bản in. Nhìn chung thì có thể nghĩ rằng cả một
tập nhật ký chưa tới 30 trang. Bởi vì hai trang ấy ấy không
được viết một cách bình thường với mỗi chữ trên dưới
và đúng vào từng ô. Cho dù một trang có 20 hàng và trang kia
21 hàng, và tôi không chắc nó nằm trong một tập có 30 trang.
Rốt cuộc, tôi xem hai trang
nói trên là một bộ phận của tập "Nhật ký năm 16 tuổi"
và đã giữ chúng lại. Tuy không thấy ghi ngày tháng nhưng
rõ ràng là nó ăn khớp với nội dung tập nhật ký tôi vừa
kết thúc. Vì lẽ đó, tôi đã đặt hai trang ấy vào Hậu
Tựa thứ hai này.
***
-Ôi tôi đau đớn quá. Ôi!
Ôi! Biết rằng đã là con người ai ai rồi cũng phải chết
cho dù kẻ đó muốn chống trả lại nó.
Tiếng của ông thều thào làm
tôi phải lắng tai mới nghe nổi.
-Ông nói gì đó?
-...(đoạn này không đọc
được).
-Ông muốn nói về mình à?
-Con người ai cũng phải chết!
-Hở?
Trong cửa miệng của tất cả
mọi người - ngoại trừ ông tôi - thì câu nói trên không
có gì đáng chú ý. Thế nhưng nếu đó là lời ông thốt ra,
thì nó mang một ý nghĩa đặc biệt và đã khơi dậy trong
tôi dòng liên tưởng đã khiến cho tôi rơi vào trong một thế
giới hãi hùng (5 chữ không đọc được).
Giọng than vãn thật nhỏ và
đứt quãng cũng như hơi thở ngắn của ông tôi nghe như âm
thanh của người đang buồn nôn. Tình trạng sức khỏe của
ông suy sụp trông thấy.
-Ô! O-Miyo đấy hả? Bà thấy
tôi sao? Dù sáng hay chiều, bữa trưa bữa tối, tôi như người
sống nửa thực nửa mơ. Nghe nói chuyện ông Trời, tôi lo
quá. Chả lẽ ổng bỏ tôi sao?
O-Miyo trả lời:
-Làm gì có chuyện đó, cụ.
Ông Trời đâu có thế...Ông Trời quí cụ lắm.
-Cả năm , tôi có trả đồng
nào đâu! (Ông tôi muốn nói chuyện mình đã tiêu tiền
đi vay mà không chịu trả lãi). Ví dụ...cho dù chỉ là
một món nợ 10 Yen. Tôi lo quá...lo quá!
Ông tôi lập lại ít nhất
mười lần câu nói ấy đến độ mỗi lúc ông càng kiệt
sức.
-Ông ạ! Hay để con gọi bác
sĩ đến? Nhỡ ông có mệnh hệ nào, con biết ăn nói làm sao
với người trong nhà!
(Tôi không ghi lại câu ông
trả lời. Tôi đã nghĩ ông sẽ từ chối nhưng ngược lại
với điều tôi tiên liệu, ông đã ậm ừ chấp thuận. Tôi
còn nhớ là ông có vẻ buồn bã.)
Bà già O-Tsune đã vội vã đi
kiếm ông bác sĩ ở Yadogawara.
O-Miyo chủ trương rằng ông
ấy hiện không có nhà.
-Thưa cụ, tôi đã nhận được
tiền đằng Samba (ngôi làng của chú tôi) và tôi cũng
đã trả cho cánh Obata tiền nhà ta vay bằng tiền của Tsunoe
(làng
cô em út của ông tôi). Thành thử cụ đừng lo lắng gì
nữa.
-Thế ư? Càng tốt! Càng tốt!
Niềm vui của ông pha lẫn đau
đớn.
-Con bảo ông nằm im nhưng ông
phải khấn khứa mới được. Nam Mô A Di Đà Phật! Nam Mô
A Di đà Phật.
Thôi rồi. Chắc ông tôi không
còn được bao lâu nữa.Tôi không chắc mình có thể sử dụng
tất cả những trang giấy đã mua về.
Trong khoảng thời gian O-Miyo
vắng mặt, mắt ông tôi đã hết thấy đường. Giờ đây,
cái chết đã đóng ấn lên ông.
Tôi ngừng viết và lo sợ về
viễn tượng những điều sẽ xảy ra sau cái chết của ông
tôi. Tôi nghiệp cho tôi, chỉ còn mỗi một thân côi ở giữa
đất trời.
Ông tôi lắp bắp mấy câu
niệm Phật.
-Xem này! Cại bụng tôi giờ
đã mềm ra rồi. Cho tới bây giờ, lúc nào nó cũng cứng và
sưng phồng.
O-Tsune từ xa về cho biết bác
sĩ vắng mặt thật.
-Ngày mai, ông ấy mới từ
Ôsaka về đến. Nếu cụ không đợi được thì tôi sẽ đi
kiếm bác sĩ khác.
O-Miyo hỏi:
-Bây giờ, mình tính làm sao?
O-Tsune nhận xét:
-Nhưng đâu có gì gấp gáp
phải không?
-Thật vậy, không có gì đến
nổi khẩn cấp đâu ạ.
Tôi trả lời mà lòng se thắt
khi nghe tin vị bác sĩ vắng nhà.
Ông tôi bắt đầu ngáy trở
lại. Chẳng lẽ ông buồn ngủ?
Miệng ông mở lớn, hai mắt
lim dim, nằm đó như cái xác không hồn.
Dưới ánh sáng chập chờn
của ngọn đèn dầu đặt ở đầu giường, hai cái bóng bà
già ngồi im lặng, tay chống lấy cằm.
-Bon bon ơi! Làm sao bây giờ
hở con. Ông đau quá!...Để ông như thế này có khi tốt hơn.
Mặt tôi đầm đìa nước mắt:
"Nhật ký năm 16 tuổi" kết
thúc với câu chuyện xảy ra vào ngày 15 tháng Năm, theo dó
thì O-Miyo vì bận công chuyện không thể đến nữa và được
thay thế bằng O-Tsune. Nhưng tôi còn phải kể thêm về cái
ngày O-Miyo trở lại nhà chúng tôi. Do đó, khi tôi viết trong
phần Hậu tựa là "Nhật ký năm 16 tuổi của tôi chấm dứt
nơi đây" thì đó là điều không chính xác. Thực ra thì lý
do là khi văn bản được ấn hành, tôi chỉ có phần nhật
ký chép đến ngày 16 tháng Năm. Phần còn lại, nghĩa là đoạn
tính từ ngày 16 và đoạn mà tôi chép ra đây còn bao gồm
vài ngày khác nữa. Nhưng có lẽ những trang ấy đã thất
thoát.
Năm 15 tuổi [9],
sau khi ông tôi mất, tôi không còn cha mẹ ông bà gì nữa và
mất cả ngôi nhà.
Trong hậu tựa, tôi đã viết:
"Khi tôi tìm ra tập giấy này thì có một điều mà tôi cho
là quái dị: tôi không còn nhớ mảy may những chuyện xảy
ra trong cuộc sống hằng ngày tôi đã viết ra. Những năm tháng
ấy đi đâu mất rồi? Chả nhẻ nó lại bốc hơi? Có thể
lã con người đã tan loãng vào trong quá khứ".
Cái làm cho tôi sửng sốt là
tôi đã sống trong nhiều tháng trời mà không giữ lại một
kỷ niệm nào. Có thể xem đó như một điều bí ẩn số một
của tập "Nhật ký năm 16 tuổi" này.
Nếu tôi có quên đi cái quá
khứ đó đi nữa, không có nghĩa là nó mất đi hoặc tôi muốn
xóa bỏ nó khỏi ký ức. Tôi không phải là kẻ dám biến
đổi dòng thời gian hay ý nghĩa của cuộc đời. Duy có điều
chắc chắn là tôi từng trải qua các biến cố ấy và tôi
muốn trưng nó ra như một chứng từ.
Trí nhớ tôi thuộc hạng tồi
nên tôi không dám chắc về điều chi hết. Nhiều khi tôi còn
nghĩ rằng người sống thoải mái là người quên được tất
cả.
Điều bí ẩn thứ hai là lý
do nào khiến tôi viết nhật ký. Một điều chắc chắn: khi
biết cái chết của ông tôi gần kề, tôi muốn ghi lại diễn
tiến của nó bằng văn tự.Thế nhưng, khi nghĩ lại, mới
có 15 tuổi mà sao tôi đã có thể ngồi bên cạnh một người
sắp chết để viết nhật ký hết ngày này qua ngày nọ.
Trong đoạn viết về ngày 8
tháng 5, tôi đã ghi rằng: "Tôi bày mấy trang giấy ra trước
mặt. Tôi ngồi cạnh bàn viết trong khi O-Miyo ngồi trên chiếu
tatami. Cả hai đang nghe ông tôi kể lại những kỷ niệm thân
thương của mình.".
Tôi ghi là "bàn viết" nhưng
chính ra chỉ là chiếc ghế đẩu có gắn một cây đèn cầy
ở bên góc. Tôi nhớ là đã chép nhật ký ấy trên cái ghế
đẩu.
Ông tôi hầu như đã mù nên
không thể biết được là tôi đang ghi lại lời ông nói.
Cho dù là có nằm mơ, tôi cũng
không thể tưởng tượng là tập nhật ký của tôi lại được
in ra như tác phẩm văn học. Nếu độc giả có cơ hội đọc,
xin xem đây như những ghi chép chớp nhóang tại chỗ chứ không
phải là tác phẩm của một tài năng văn học lâu năm chín
muồi.
Nhân vì tôi chỉ ghi chép lần
hồi những lời ông tôi nói nên tôi không có thời giờ trau
chuốt câu văn. Câu cú cứ tự nhiên nối đuôi nhau xuất hiện,
nhiều nơi nét chữ còn không đọc được.
Ông tôi mất năm 75 tuổi.
Kawabata Yasunari
(1914)
Tạp chí Bungei Shunjuu (5/1925)
Thư mục tham khảo:
-Kawabata Yasunari, Juurokusai no
nikki (Nhật ký năm 16 tuổi) trong Tuyển tập Izu no Odoriko (Cô
đào miền Izu) gồm 6 đoản thiên do Shôryuusha (Sáng Long Xã)
xuất bản, Tôkyô, 1980. Nguyên tác Nhật Ngữ.
-Kawabata Yasunari, Juurokusai no
nikki (Journal de ma seizième année) do Suzanne Rosset dịch sang Pháp
văn, trong Kawabata L’Adolescent, Récits autobiographiques (Thời
niên thiếu của Kawabata. Những thiên tự truyện), Albin Michel,
Paris xuất bản, 1992. Bản ngoại văn tham chiếu.
|