Catherine
O' Flaherty sinh năm 1850 tại Saint - Louis, Missouri, bố gốc người
Ái Nhĩ Lan, mẹ gốc Pháp, lớn lên trong môi trường đa văn
hoá, từ nhỏ đã nói tiếng Pháp đồng thời với tiếng Anh.
Theo học bậc tiểu học và trung học tại một trường công
giáo với các nữ tu. Ở nhà, được nuôi dạy bởi mẹ, bà,
và bà cố. Sự giao tiếp thường xuyên với những người
phụ nữ ở chung quanh giúp cô bé sớm có nhận xét về vai
trò của phái nữ trong gia đình và xã hội, định hình cho
những ý tưởng và quan niệm cá nhân của nhà văn tương lai.
Kate Chopin ( Kate là Catherine,
Chopin là họ chồng ) chịu nhiều đau thương mất mát ngay
khi còn nhỏ. Cha chết vì tai nạn đường sắt khi mới lên
năm (1855), bà cố, người đã dạy cho cô tiếng Pháp và văn
hoá Pháp, qua đời năm 1863. Trong thời Nội chiến Hoa Kỳ (
1861 - 1865 ), cô lại mất thêm người anh ( tham gia đội quân
của Liên minh miền Nam - Confederate - ).
Kate Chopin kết hôn năm 1870
với Oscar Chopin, một thương gia chuyên buôn bán bông vải,
và cũng là người gốc Pháp .Từ năm 1871 đến 1879, Kate Chopin
sinh được 5 trai và 1 gái, và số phận rủi ro vẫn không
buông tha, Kate lại chịu tang chồng năm 1882, chỉ sau mười
hai năm chung sống. Trở thành quả phụ năm 32 tuổi, Kate Chopin
vừa nuôi con, vừa tiếp tục công việc của chồng, và không
tái giá.
Đây là chân dung Kate Chopin
giai đoạn này, như ghi nhận của nhà phê bình Barbara Ewell:
" Kate là một người khá
nổi bật và quyến rũ. Không cao lắm, có khuynh hướng mập
ra, thực sự xinh đẹp, mái tóc nâu dày, dợn sóng, sớm điểm
bạc, đôi mắt nâu sáng trong. Bạn bè nhớ nhiều nhất là
thói quen im lặng và sự nhanh trí kiểu Ái Nhĩ Lan, thêm điểm
nhấn là biệt tài bắt chước. Một bà chủ nhà duyên dáng,
dễ tính, thích cười, thích âm nhạc và khiêu vũ, đặc biệt
là kiểu nói chuyện thông minh, bà có thể diễn đạt quan
điểm cá nhân với sự thẳng thắn đáng ngạc nhiên."
Sau khi chồng chết không
lâu, Kate Chopin trở về sống tại St- Louis để con cái có
điều kiện học hành tốt hơn. Năm 1885, đến lượt mẹ Kate
Chopin qua đời.
Một bác sĩ sản khoa, cũng
là bạn thân của gia đình, khuyến khích Kate viết văn, như
là một liệu pháp chống buồn nản và cô đơn sau khi chồng
và mẹ lần lượt đi xa. Nghe theo lời khuyên, Kate bắt đầu
cầm bút và truyện ngắn đầu tiên của bà đã được đăng
trên tờ St Louis Post Dispatch năm 1889, và một năm sau, bà hoàn
thành cuốn tiểu thuyết At Fault.
Hơn mười năm tiếp sau đó,
Kate Chopin vừa duy trì hoạt động xã hội, vừa không ngừng
sáng tác, hoàn thành được trên dưới một trăm truyện ngắn.
Truyện ngắn của Kate Chopin được công bố trên những tạp
chí nổi tiếng như Vogue và Atlantic Monthly. Hai tuyển tập lần
lượt ra mắt: Bayou Folk, 23 truyện (1894), A Night in Acadie, 21
truyện (1897). Giới phê bình có người cho là truyện chỉ
có tính địa phương, chỉ phản ảnh những sinh hoạt tại
vùng Louisiana và Missouri. Đến năm 1899, bà cho xuất bản cuốn
The Awakening ( Tỉnh thức ), thu hút nhiều nhận định đánh
giá trái ngược nhau. Một vài nhà phê bình khen ngợi tính
nghệ thuật của tác phẩm, nhưng cũng không ít người cho
là " nhàm chán ", " tầm thường", " không lành mạnh ", thậm
chí " độc hại ". Tất cả chỉ vì Kate Chopin là người phụ
nữ " đi trước thời đại ", thông qua các nhân vật của
mình, bà đã bày tỏ quan niệm ( và phản ứng ) về gia đình,
hôn nhân, ly dị, ngoại tình, nữ quyền, chống lại lề thói
cổ truyền ( tradition ) và quyền hành ( authority ). ( Mà đâu
chỉ trong tác phẩm, ngay trong sinh hoạt đời thường, Kate
Chopin cũng tỏ ra " tiên phong " đấy chứ: thời còn sống tại
New Orleans hay khi về một thị trấn nhỏ ở St- Louis, bà đã
làm mọi người ngạc nhiên khi đi dạo một mình, hút thuốc,
ăn mặc kiểu cách và cỡi ngựa hai chân hai bên. )
Kate Chopin qua đời đột
ngột năm 1904, xuất huyết não.
Trong một thời gian dài,
tác giả và tác phẩm bị lãng quên, ngoại trừ một số rất
ít truyện được giới thiệu trong các tuyển tập xuất bản
mấy năm sau khi tác giả qua đời.
Sự lãng quên ( bất công
và đau đớn ) này kéo dài tới gần ... 70 năm, mãi cho đến
năm 1969, khi nhà phê bình người Na Uy, Per Seyersted viết cuốn
chuyên luận về tiểu sử của Kate Chopin với nhận định:
" ( Kate Chopin ) là nhà văn
nữ đầu tiên trên đất nước mình nhìn nhận đam mê như
là một chủ đề chính thống của tiểu thuyết nghiêm túc,
công khai. Chống lại lề thói cổ truyền và quyền hành, với
một sự táo bạo mà ngày nay chúng ta khó khăn mới thấu hiểu,
với sự thành thực cương quyết, không có chút gì kích động,
bà đảm đương việc nói lên sự thật không che đậy về
mặt khuất của đời sống người phụ nữ. Bà như là người
tiên phong đề cập thẳng thắn những vấn đề dục tính,
ly dị, và sự thôi thúc của giới nữ mong muốn tồn tại
thực sự. Trong nhiều khía cạnh, bà là một nhà văn hiện
đại, nổi bật về nhận thức những phức tạp của sự
thật và tính đa dạng của tự do."
Phong trào nữ quyền ở Mỹ
phát triển ngày càng mạnh từ những năm 1960 tạo thuận lợi
cho việc đánh giá về tài năng và cống hiến của Kate Chopin.
Tác phẩm của bà được tái bản và giới thiệu trở lại.
Truyện ngắn Cơn bão ( the
Storm ) được viết năm 1898 nhưng tác giả không thể công
bố ngay vì bà biết không nơi nào chịu in một truyện đề
cập thẳng thắn và thẳng thừng về tình dục như truyện
này. ( lần đầu tiên truyện xuất hiện trong The Complete Works
of Kate Chopin, in năm 1969, tức là gần 70 năm sau khi ra đời!
).
Thông thạo tiếng Pháp, thấm
nhuần văn hoá Pháp, lúc sáng tác, Kate Chopin chịu nhiều ảnh
hưởng của nhà văn Maupassant. Ở bậc thầy của thể loại
truyện ngắn này, Kate Chopin nhận ra văn chương không phải
chỉ là hư cấu, mà là chính cuộc sống, với những con người
đang sống quanh ta. Nhà văn quan sát và ghi lại, trực tiếp
và đơn giản, những gì mình nhìn thấy. Cũng như nhà văn
Pháp, Kate Chopin thường viết lại, như kiểu ghi âm, những
lời đối đáp của nhân vật với câu chữ, ngữ điệu nguyên
thô, để người đọc tưởng mình đang nghe trực tiếp. Hãy
thử đọc đoạn này, trích trong truyện Regret ( Nuối tiếc
) để thấy điều đó:
" T ain' ispected sich as you
would know airy thing 'bout 'em, Mamzelle Aurlie. I see dat plainly yistiddy
w'en I spy dat li'le chile playin' wid yo' baskit o' keys. You don' know
dat makes chillun grow up hard-headed, to play wid keys? Des like it make
'em teeth hard to look in a lookin'-glass. Them's the things you got to
know in the raisin' an' manigement o' chillun."
Một đặc trưng khác của
Maupassant - mà Kate Chopin học tập - là cách kết cấu truyện
ngắn, câu chuyện diễn tiến theo tâm lý nhân vật, tình tiết
đan xen, và bỗng xoay sang một kết cuộc bất ngờ, tạo ngạc
nhiên thú vị cho người đọc. Thủ pháp này biểu lộ rõ
với truyện The Story of an hour ( Câu chuyện một giờ
), một trong những truyện ngắn hay nhất của Kate Chopin, được
giới thiệu dưới đây.
Có tin chồng của Louise bị
tai nạn chết. Biết nàng bị bệnh tim nên người thân và
bạn bè tìm cách báo tin khéo léo, tránh xúc động đột ngột.
Ban đầu, nàng cũng đau đớn, vật vã khóc than, rồi rút về
ngồi một mình trong phòng riêng. Nơi đây, khi bình tâm nhìn
khung cảnh bên ngoài, dường như nỗi đau dần nguôi ngoai.
Nàng quan sát những cảnh trí quen thuộc, mây bay, trời trong,
cây xanh, mưa nhẹ hạt, nàng lắng nghe những âm thanh quen thuộc,
tiếng rao hàng, tiếng nhạc, tiếng chim hót... Thế là một
cảm giác lạ lùng, hân hoan, phấn khởi xâm nhập tâm hồn
nàng. Nàng buột miệng nói: Tự do, tự do... và thanh thản
nghĩ về tháng ngày dài phía trước. Nàng sẽ được tự do
sống với sở thích và ước muốn của riêng mình.
Đến đây " câu chuyện một
giờ " tưởng chừng kết thúc được rồi. Nhưng...
Ngay lúc này anh chồng bước
vào: anh vẫn còn sống, vì trễ tàu! Khi nhìn thấy chồng trở
về, Louise lăn ra chết. Bác sĩ kết luận nàng chết vì bệnh
tim, vì quá vui mừng.
Câu chuyện kết thúc quá
bất ngờ, để cho người đọc tiếp tục suy nghĩ: có phải
thực sự Louise quá vui mừng mà chết không. Và từ đó mà
bàn thêm những điều tác giả không nói, tình yêu giữa hai
vợ chồng chẳng hạn...
Hiện nay, Kate Chopin được
xem là một khuôn mặt lớn trong nền văn học Mỹ. Tác phẩm
của bà đã được dịch ra hàng chục thứ tiếng, kể cả
tiếng Nhật, tiếng Hàn, tiếng Trung, tiếng Mã Lai, tiếng Á
Rập... và tiếng Việt.
**************
Vốn biết bà Mallard bị đau
tim, mọi người hết sức cẩn thận và dè dặt lúc báo cho
nàng tin chồng nàng đã chết. Chính em gái Josephine đã ngập
ngừng bằng những câu đứt quãng, lờ mờ tiết lộ tin. Người
bạn của chồng nàng, Richards, cũng ở đó, gần cô ta. Chính
anh ta là người đã có mặt tại toà soạn khi nhận tin tức
về thảm hoạ đường sắt, với tên của Brentley Mallard đứng
đầu danh sách những người tử vong. Anh ta chỉ có đủ thời
gian để tự mình xác minh sự thật bằng một bức điện
thứ hai, rồi vội vã ngăn trước bất kỳ người bạn nào
ít cẩn trọng, ít tế nhị hơn đến đưa tin buồn.
Nàng không nghe câu chuyện như
cách nhiều phụ nữ khác có thể nghe những tin kiểu như thế,
bị tê liệt đến độ không hiểu ý nghĩa của nó. Nàng bật
khóc, bất giác gục xuống trong vòng tay của em gái. Khi những
phút đau buồn dịu đi, nàng bước một mình về phòng riêng.
Nàng không muốn có ai đi cùng. Nàng đứng đó, mặt hướng
ra cửa sổ mở rộng, cạnh một chiếc ghế bành rộng rãi,
thoải mái. Nàng buông mình xuống ghế, chìm đắm trong sự
kiệt quệ của thể xác và dường như của cả tâm hồn.
Nàng có thể thấy trong khoảng
không gian vuông vắn trước nhà những ngọn cây lay động
trong tiết xuân mới. Hơi mưa mát dịu trong không khí. Trên
con đường bên dưới một người bán rong đang rao hàng. Các
giai điệu của một bài hát xa xôi mơ hồ vọng đến tai nàng,
rất nhiều chim sẻ đang hót vang dưới mái hiên.
Nàng ngồi tựa đầu lên đệm
ghế, hoàn toàn bất động, ngoại trừ khi tiếng nức nở
thoát ra từ cổ họng khiến nàng run lên, như một đứa trẻ
đã khóc đến khi thiếp đi mà vẫn nức nở cả trong giấc
mơ.
Nàng còn trẻ, với khuôn mặt
bình thản, xinh đẹp và những đường nét toát lên vẻ cam
chịu, thậm chí sự vững vàng của nghị lực. Nhưng giờ
đây, ánh mắt của nàng đờ đẫn, nhìn đăm đăm một điểm
cố định nào đó trên mảnh trời xanh. Đó không phải là
cái nhìn phản ảnh cuộc sống, mà là một sự ngưng đọng
về suy nghĩ thông minh.
Có một cái gì đó đang đến
với nàng, và nàng đang đợi nó trong sợ hãi. Là điều gì?
Nàng không biết, nó quá tinh
tế, khó mà gọi tên. Nhưng nàng cảm nhận được nó đang
trườn ra từ bầu trời, đến tận bên nàng qua âm thanh, mùi
hương, màu sắc ngập tràn không khí.
Bây giờ lồng ngực của nàng
đập mạnh. Nàng bắt đầu nhận ra nó , cái đang tới gần
chiếm lĩnh tâm trí nàng và nàng đang cố gắng chống chọi
bằng ý chí, bằng đôi tay yếu ớt trắng nhợt.
Khi nàng không kiềm chế được
nữa, một tiếng thì thầm bất chợt thoát ra đôi môi hé
mở. Nàng thốt ra nhiều lần trong hơi thở: " Tự do, tự do,
tự do! ". Ánh mắt trống rỗng và cái nhìn sợ hãi từ đôi
mắt nàng ra theo âm thanh đó. Tia nhìn vẫn sắc sảo, sáng
rực. Tim nàng đập nhanh khiến cơ thể ấm dần lên và dễ
chịu hơn.
Nàng vẫn không ngừng lại
để tự hỏi phải chăng một niềm vui quá lớn đã khiến
nàng choáng ngợp. Một cảm nhận rõ nét và phấn khích khiến
nàng không thể xem cảm giác này là bé nhỏ. Nàng biết rằng
nàng sẽ khóc lần nữa khi nàng nhìn thấy đôi tay dịu dàng,
thân thiết đang nắm lại khi lìa trần, khuôn mặt từng nhìn
nàng chan chứa tình yêu, giờ bất động, xám lạnh, chết
chóc. Nhưng nàng đã nhìn xa hơn, vượt qua cái khoảnh khắc
đau đớn đó, thấy hiện ra một khoảng thời gian dài sắp
tới sẽ hoàn toàn thuộc về nàng. Và nàng dang tay đón chào
khoảng thời gian đó.
Sẽ không sống cho ai khác trong
những năm tới, mà chỉ sống cho chính mình. Sẽ không có
quyền lực nào khuất phục được nàng trong sự ngoan cố
mù quáng mà với sự chiếm giữ đó đàn ông và phụ nữ
ngỡ là họ có quyền áp đặt ý chí riêng của một cá nhân
cho một cá nhân khác. Một ý định tốt hoặc xấu khiến
hành động này dường như không khác gì một tội ác như
nàng đã nhìn thấy trong thời khắc bừng tĩnh đó.
Liệu lâu nay nàng có yêu chồng?
Có đôi lúc. Thường thì không phải là tình yêu. Nhưng điều
đó nào có hề chi? Tình yêu bí ẩn chưa được giải mã,
có gì quan trọng khi nàng chợt nhận ra động lực mạnh nhất
của nàng chính là sự tự khẳng định!
Nàng tiếp tục thì thầm: "
Tự do! Thể xác và tâm hồn được tự do!"
Josephine đang quỳ gối trước
cánh cửa đóng kín với đôi môi áp vào lỗ khoá, xin được
vào phòng. " Louise, mở cửa đi, em van chị mở cửa ra. Chị
sẽ tự làm mình bệnh mất thôi! Chị đang làm gì vậy? Vì
Chúa, xin mở cửa ra! "
" Em đi đi, chị không làm mình
bệnh đâu mà sợ. " Không, nàng đã uống một loại thuốc
tiên kỳ diệu của cuộc sống từ cánh cửa mở rộng.
Trí tưởng tượng của nàng
đang bềnh bồng với những ngày tháng sắp tới. Mùa xuân,
mùa hè, tất cả mọi ngày đều sẽ thuộc về nàng. Nàng
thốt nhanh một lời cầu nguyện mong cho cuộc sống kéo dài.
Chỉ mới hôm qua nàng đã sợ hãi nghĩ là cuộc sống có thể
lâu dài.
Cuối cùng nàng cũng đứng
dậy mở cửa trước sự van nài của em gái. Có một vẻ đắc
thắng trong ánh mắt của nàng, nàng bước đi tự nhiên như
một nữ thần Chiến thắng. Nàng ôm em siết chặt và họ
cùng nhau bước xuống cầu thang. Richards đang đợi họ ở
phía dưới.
Có ai đó đang dùng chìa khoá
mở cửa. Chính là Brentley Mallard, người vừa bước vào, thân
hình còn nhuốm bụi đường, ung dung xách chiếc va li du lịch
và chiếc dù. Lúc xảy ra tai nạn anh ở cách xa nơi đó và
cũng chẳng hề biết là có tai nạn. Anh đứng ngẩn người
ngạc nhiên trước tiếng khóc xé lòng của Josephine, và Richards
vội bước nhanh để che anh ta khỏi tầm nhìn của vợ.
Khi các bác sĩ đến, họ nói
rằng nàng đã chết vì cơn đau tim - chết vì quá vui.
THÂN
TRỌNG SƠN
dịch và
giới thiệu
từ nguyên
bản tiếng Anh
( 12/2020)
( https://americanliterature.com/author/kate-chopin/short-story/the-story-of-an-hour
)
|