Cô
đào miền Izu
(Izu no
odoriko)
Nguyên
tác: Kawabata Yasunari (1926)
Dịch:
Vũ Thư Thanh (1969)
Hiệu
đính: Nguyễn Nam Trân (2020)
|
|
Dịch
giả Vũ Thư Thanh
Dẫn nhập:
Theo kế hoạch đào tạo
của chính phủ VNCH đương thời, sinh viên Việt Nam đến Nhật
trong giai đoạn 1955-1975 thường theo học những ngành khoa học
thực dụng và không ai học văn chương. Tuy nhiên, tình yêu
đối với văn học nghệ thuật của mỗi người nhất định
không nhỏ. Do đó nhiều anh chị đã xuất hiện và nổi tiếng
như nhà văn, nhà thơ trên các tạp chí văn nghệ ở Sài Gòn.
Riêng anh Vũ Thư Thanh (1942-2004) - một trong những trưởng ban
văn hóa của Hội Sinh Viên (VSJ) lúc đó – dù chuyên ngành
Kinh Tế ở Đại Học Tôkyô, đã có nhiều tác phẩm dịch
thuật văn học từ tiếng Anh (như Người Mỹ trầm lặng của
Graham Greene) hay Nhật (Cô đào miền Izu, một phần Tiếng rền
của núi, Ngàn cánh hạc...của Kawabata Yasunari) trước khi trở
thành một chuyên gia sống bằng dịch thuật tài liệu thương
mại và kỹ nghệ.
Cô đào miền Izu đã được
đăng lần đầu tiên trên Giai Phẩm Tôkyô, nội san của một
nhóm sinh viên VN tại Nhật vào mùa xuân 1969 (do anh Nguyễn
Đình Long chủ trì) và sau đó trong Tạp chí Văn (của nhà
văn Trần Phong Giao) số đặc biệt ra ngày 15/10/1969 về nhà
văn Kawabata lúc đó vừa đoạt giải Nobel (1968). Trên nửa
thế kỷ, bản dịch của Vũ Thư Thanh vẫn được yêu chuộng
cho dù từ khi nó ra đời, nhiều dịch giả khác đã vào cuộc.
Bản dịch của Vũ Thư Thanh vừa sử dụng tiếng Việt một
cách nhuần nhuyễn, tự nhiên, tươi tắn, vừa toát ra hương
vị Nhật Bản (chẳng hạn cách nói trổng trong những câu
đối thoại) là một bản dịch đáng trân trọng. Vì lẽ đó,
từ lâu chúng tôi đã cất công tìm kiếm để phục hồi.
May mắn là có hai văn hữu đã sao chụp lại được từ một
số báo Văn cũ nằm trong thư viện và gửi tặng. Tuy lần
này có vài chỗ hiệu đính nho nhỏ với tất cả thành tâm
của một người bạn cũ mến tài anh nhưng đã cố gắng giữ
lại cái duyên dáng, tài hoa cùng tất cả những gì hay đẹp
đã làm nên phong cách dịch thuật Vũ Thư Thanh.
Cần nói thêm là chúng tôi
cũng nhân cơ hội này dịch thêm một bài giải thích ngắn
của chính Kawabata về tác phẩm để in kèm theo bản dịch..
***
|
1.
Đường núi thành ngoằn ngoèo,
đi mãi vừa chừng đã tới được gần đèo Amagi thì màn
mưa nhuộm trắng cả khu rừng sam [1]
rậm ào ào từ dưới chân núi chạy dồn lại phía tôi nhanh
khủng khiếp.
Tôi dạo đó hai mươi, đầu
đội mũ đồng phục học sinh cao đẳng, khoác ra ngoài bộ
áo kasuri [2]
xanh nước biển một manh hakama [3],
cặp học sinh khoác vắt qua vai. Một mình xuống Izu ngao du
tính ra tới nay đã được bốn hôm. Một bữa ở lại suối
nước nóng Shuzenji, hai hôm ở suối nước nóng Yugashima, sáng
nay chân đi guốc cao lõi gỗ phác [4]
mà leo lên đến đèo Amagi. Dù mải mê ngắm mùa thu của núi
đồi trùng điệp, của rừng thẳm vực sâu, lòng vẫn không
quên ước mơ đã khiến tôi phập phồng rảo bước. Đúng
lúc đó thì những giọt mưa nặng bắt đầu đập vào người.
Vội vàng trèo lên ngọn đèo dốc ngược khúc khuỷu, mãi
rồi cũng nặng nhọc tới được quán
nước chè ở đầu phía bắc, tôi vừa thở phào nhẹ người
thì cùng lúc đó đứng khựng ngay lại ở cổng. Điều tôi
hoài tưởng biết bao nhiêu đã tới đích một cách tuyệt
diệu. Đám người nhà hát rong ngồi nghỉ cả ở đấy. Thấy
tôi đứng chết trân, cô đào lẹ làng lấy ngay cái đệm
cô đang ngồi lật mặt lại đặt sang bên cạnh.
Tôi thốt độc một tiếng:
"Ê [5]...",
đặt mình ngồi xuống. Phần vừa mệt gần đứt hơi leo dốc
ban nãy, phần vì ngạc nhiên, mấy chữ "cám ơn" của tôi đã
bị vướng ngay lại trong cổ không làm sao thốt ra được.
Ngồi ngay bên cạnh, mặt giáp
mặt với cô đào khiến tôi luýnh quýnh móc vội bao thuốc
lá trong tay áo ra. Cô đào hát lại kéo cái gạt tàn thuốc
đặt trước mặt mấy người đàn bà con gái cùng đi lại
gần giùm. Tất nhiên là tôi vẫn im.
Cô đào trạc chừng mười
bảy. Tóc vấn theo lối cổ tôi không biết, bạnh ra thành
hình lạ lùng làm cho dù khuôn mặt trái xoan đoan trang trông
nhỏ hẳn lại nhưng vẫn cân xứng xinh xắn. Cảm thấy như
mình đang ngồi trước một nàng tóc rậm dài của những bức
tranh trong tiểu thuyết cổ. Cùng đi với cô đào là một người
đàn bà cỡ bốn mươi và hai cô gái trẻ tuổi khác. Ngoài
ra còn một người đàn ông trạc chừng hai lăm, hai sáu tuổi,
mặc áo cánh có dấu riêng của quán trọ suối nước nóng
Nagaoka.
Đây là lần thứ hai tôi gặp
cô đào hát. Lần trước tôi đi Yugashima đến giữa đường
thì gặp cô gần cầu Yugawa đi về hướng Shuzenji. Lần đó
tôi thấy có ba người con gái trẻ thôi và cô đào hát thì
tay bưng trống cái. Tôi ngoái đầu đi ngoái đầu lại ngắm,
nghĩ thế là tình giang hồ đã vướng vào người. Đêm thứ
hai ở lại Yugashima, không hiểu cô ở đâu trôi rong đến
quán trọ. Lúc thấy cô đứng múa hát trên sàn gỗ ngoài cổng
tôi ngồi bệt ngay xuống giữa cầu thang ngây người xem. Bữa
đó đã ở Shuzenji, hôm nay lại ở Yugashima thì hẳn ngày mai
cô sẽ vượt đèo Amagi theo hướng nam xuôi xuống suối nước
nóng Yugano. Thế nào trên bảy lý [6]
đường đèo Amagi tôi lại chẳng theo bắt kịp. Tôi đã dấn
bước và nuôi một huyễn tưởng như thế trong đầu, đâu
ngờ gặp mưa phải ghé vào trú trong quán nước mà lại tình
cờ gặp gỡ cô khiến tôi đâm ngượng nghịu.
Ngồi được một lát thì bà
lão chủ quán đưa tôi sang phòng khác. Phòng này hình như ít
khi dùng nên cửa chướng tử [7]
không có. Nhìn xuống là một cái vực đẹp, sâu hút không
thấy đáy. Tôi nổi gai ốc đến độ hai
hàm răng đánh vào nhau, người run lên lập cập. Bà lão vào
châm trà, tôi than lạnh.
- Úi dào, thưa thầy, chẳng
ướt hết cả rồi là gì. Nhà thầy tới đằng này mà sưởi,
với lại hong quần áo cho khô một chút.
Bà cụ vừa nói mà vừa như
thể kéo tay lôi tôi vào phòng sinh hoạt của gia đình mình.
Trong phòng có một lò sưởi than mà vừa kéo mở cửa tôi
đã thấy hơi nóng rực phà lại. Tôi trù trừ đứng ngoài
mép buồng. Ngồi khoanh chân bên lò sưởi là một ông lão
người xanh lè như thây ma chết đuối. Cặp mắt bệnh hoạn
vàng khè, vàng đến cả đồng tử, lờ đờ hướng về tôi.
Chung quanh ông cụ chất đống thư từ cũ với bao giấy cao
lên như núi, có bảo ông lão bị vùi trong đống giấy lộn
đó cũng không ngoa. Tôi thành đứng cứng đơ ngó vật kỳ
quái - khó có thể gọi được là một sinh vật - của cái
đống đó.
- Thưa để nhà thầy thấy
những cảnh hổ thẹn thế này thì thật là... Ấy vậy chứ
ông cụ nhà tôi đấy, nên xin nhà thầy yên tâm cho nhé. Biết
là làm khổ mắt nhà thầy nhưng không cử động được thành
thử nhà thầy chịu khó cứ để như thế cho.
Sau khi biện bạch như thế
rồi, theo chuyện bà cụ thì ông cụ đã bị trúng gió từ
lâu, toàn thân đã thành ra bất toại. Núi giấy đó hoặc
là thư từ từ các xứ viết gửi về chỉ cách dưỡng bệnh,
hoặc là bao giấy đựng thuốc trúng gió gửi mua từ khắp
các nơi về. Ông cụ nào ngồi ngóng chuyện của những khách
vượt đèo hay xem quảng cáo trong báo chí để rồi nghe theo
hết tất cả các phương cách, đặt mua hết tất cả mọi
thứ thuốc trị trúng gió không bỏ sót một thứ nào. Để
rồi những bao giấy hay thư từ ấy không hề bị vứt đi
một tờ nào mà còn đem chất đống chung quanh cho ông lão
vừa sống vừa nhìn ngắm. Lâu ngày đống giấy đã ố vàng
thành một đống rác.
Tôi không một lời đáp lại
bà lão, ngồi gục mặt xuống bên lò sưởi. Chiếc xe hơi
nào đó vượt đèo làm rung quán nước. Tôi trầm ngâm nghĩ
ngợi thắc mắc mùa thu mà đã lạnh thế này thì rồi tuyết
sẽ phủ kín ngọn đèo, tại sao ông cụ không chịu xuống
núi. Lò sưởi nóng hừng hực khiến tôi thấy rức đầu,
lại còn quần áo hơi nước bốc lên. Bà lão quay trở ra quán
nước nói chuyện với đám đàn bà con gái nhà hát rong.
- Thế đấy nhỉ? Con bé lần
trước còn dắt theo bây giờ đã chừng này rồi cơ hả? Lớn
lên cho thành đứa con gái ngoan rồi sau này thế nào mày cũng
sướng. Xinh thế này cơ mà. Con gái chóng trổ mã lắm đó.
Chưa được một giờ đồng
đã nghe tiếng người nhà hát rong lục đục sửa soạn đứng
dậy đi. Tôi cũng chẳng thấy thoải mái gì, nhưng ngực cứ
đập thình thình, không có nổi can đảm đứng dậy đi ra.
Tôi loay hoay bên lò sưởi tự nhủ cho dù cô ta có quen cuộc
sống nay đây mai đó đi nữa thì so với bước chân con gái,
tôi có đi sau mươi hai mươi chô [8]
chạy theo một lèo vẫn còn kịp. Nhưng khi cô ta đi khỏi rồi,
cơn mộng tưởng của tôi lại như được buông thả cho tự
do quay cuồng nhảy nhót. Sau khi bà lão đưa mấy người nhà
hát ra khỏi quán trở vào tôi hỏi ướm:
- Không biết hôm nay mấy người
đó họ ngủ lại ở đâu cụ nhỉ?
- Thưa thầy, chứ cái giống
ấy ngủ ở đâu ai là người biết được. Thưa thầy, cứ
tùy theo đâu có khách thì ngủ lại ở đấy ạ. Đêm nay liệu
liệu chứ chắc gì có chỗ nào mà ngủ.
Những lời hàm ý khinh bỉ
quá đáng của bà cụ bốc tôi đứng dậy, nếu thế thật,
tối nay ta sẽ cho cô đào ngủ lại ở phòng trọ của ta.
Bà cụ nài nỉ tôi bảo ngồi đợi thêm mươi phút nữa cho
trời quang trở lại nhưng tôi không làm sao ngồi yên được.
- Này cụ, cố giữ gìn cho
khỏe cụ nhé. Vì trời đã trở lạnh rồi đấy.
Tôi với những lời phát ra
từ trong tâm dặn cụ ông xong đứng dậy. Ông cụ nặng nề
cử động cặp mắt vàng khè, khe khẽ gật đầu.
- Nhà thầy, nhà thầy.
Bà cụ vừa gọi vừa chạy
theo.
- Nhà thầy cho như thế này
phí quá.
Không biết nói sao rồi ôm
cứng cái cặp của tôi, không chịu buông ra, từ khước thế
nào cũng cứ bảo để cho tiễn ra đến đàng kia một tẹo
không thì không bằng lòng. Đi đã được cả một chô rồi
mà bà cụ vẫn lẽo đẽo theo lập đi lập lại mấy lời:
- Thưa phí quá. Thưa tiếp thầy
đạm bạc quá. Đã nhớ rõ được mặt thầy rồi. Lần sau
xin thể nào thầy cũng ghé qua cho.
Chỉ để lại có mỗi một
đồng năm mươi tiền, khiến tôi thảng thốt đau đớn, nước
mắt muốn trào ra vì cảm động. Nhưng vì muốn rảo bước
đi cho kịp cô đào làm tôi một phần cũng thấy những bước
chân chập choạng của bà cụ làm phiền. Mãi rồi cũng tới
cửa hầm đèo.
- Xin cảm ơn cụ. Cụ ông ở
nhà có một mình, xin cụ quay trở lại cho.
Lúc đó bà cụ mới chịu buông
cái cặp cho tôi. Đường hầm tối, những giọt nước lạnh
rơi lộp độp. Cửa ra hướng nam Izu là một khoang sáng nhỏ
đằng trước. |
2.
Ra khỏi hầm, con đường đèo
với hàng cọc sơn trắng viền một bên uốn khúc lượn ngoằn
ngoèo. Trong cảnh sắc đẹp như tranh vẽ dưới lưng chừng
đèo đằng xa tôi thấy bóng dáng bọn nhà hát. Đi không đầy
sáu chô, tôi đã theo kịp họ nhưng không biết làm thế nào
để có thể lỏng chân bước ngay được một cách tự nhiên,
tôi đành cứ phải làm ra vẻ lãnh đạm, vượt lên đi trước
bọn đàn bà con gái mất. Anh đàn ông đang đi một mình trước
độ mươi ken[9]
thấy tôi liền dừng lại.
- Chân thầy đi nhanh quá hà.
Đã tạnh hẳn rồi.
Tôi thở phào nhẹ bước đi
ngang với anh ta. Anh ta hết hỏi chuyện này lại bắt chuyện
khác. Thấy hai người nói chuyện, đám đàn bà con gái đằng
sau cũng lon ton chạy lại.
Người đàn ông vác trên vai
một hòm mây lớn. Người đàn bà cỡ bốn chục tuổi ẵm
một con chó nhỏ. Cô gái lớn nhất xách tay nải, cô nhỏ
một hòm mây, người nào người nấy khệ nệ hành lý. Riêng
cô đào hai tay bưng trống cái được đặt trong khung. Người
đàn bà bắt chuyện này chuyện kia hỏi tôi.
- Học sinh cao đẳng đấy.
Cô gái lớn thì thầm với
cô đào. Tôi quay lại thì cô vừa cười vừa tiếp:
- Có phải không ạ? Em thì
chỉ biết được bấy nhiêu.Mấy thầy học sinh hay ra đảo
chơi ấy mà.
Bọn họ ra toàn là người
ở bến Habu của đảo Oshima cả. Từ xuân đến giờ bọn
họ đã bỏ đảo đi lưu diễn. Dạo này, phần thì trời đã
trở lạnh, phần thì công việc mùa đông chưa tới nên cả
bọn mới tính đi Shimoda ở mươi ngày rồi sẽ theo đường
suối nước nóng Ito quay về đảo. Nghe tiếng Oshima, tôi thấy
lòng trào ý thơ, lại say đắm ngắm mái tóc mỹ miều của
cô đào. Tôi hỏi đủ chuyện về Oshima.
Cô đào quay sang nói với mấy
cô kia:
- Học sinh ra đấy bơi đông
lắm nhé.
- Có phải hè không?
Tôi quay lại hỏi làm cô đào
thẹn thùng khe khẽ nói chừng như thể đáp lại.
- Cả mùa đông nữa.
- Cả mùa đông nữa?
Cô đào liền quay sang nhìn
mấy cô kia cười.
- Mùa đông mà cũng tắm được
sao?
Tôi hỏi lại làm cô đỏ hồng
mặt lên, làm ra vẻ nghiêm trang và khe khẽ gật đầu. Bà
cỡ bốn chục tuổi cười bảo:
- Con bé này rõ vớ vẩn.
Đường đến Yugano chạy dọc
theo thung lũng sông Kawazu xuống dốc trên một đoạn hơn ba
lý. Vượt qua khỏi ngọn đèo thì từ sắc trời đến sắc
núi cũng cảm thấy rõ là của một xứ miền nam. Từ nãy
tôi với anh đàn ông mải mê nói hết chuyện này sang chuyện
kia đã trở thành thân thiết. Chẳng mấy chốc đã qua khỏi
mấy làng nhỏ như Oginori hay Nashimoto và khi Yugano hiện ra dưới
chân núi với mấy nóc nhà mái rạ, tôi đánh bạo nói để
tôi cùng đi cho xuống tới Shimoda. Anh ta hết sức mừng rỡ.
Khi tới trước nhà ngủ bình
dân [10]
của Yugano, người đàn bà cỡ bốn chục tuổi, vẻ mặt vừa
như định nói dạ thôi xin chào thì anh ta nói giùm.
- Thày này bảo muốn được
đi theo đấy.
Bà ta liền không khách sáo
đáp:
- Đâu dám. Gọi là đi cho có
bạn đường thì những kẻ ngu muội như chúng tôi cũng có
thể đôi lúc giúp cho thầy đỡ thấy buồn chán. Mời thầy
vào nghỉ chút ạ.
Mấy cô gái dáng chừng như
nói có gì đâu, lặng yên bẽn lẽn ngắm nhìn tôi một chặp.
Tất cả cùng vào quán, trèo
lên gác bỏ hành lý. Chiếu lót và vách giấy đều đã cũ
bẩn. Cô đào bưng nước trà từ tầng dưới lên, khi ngồi
xuống chỗ tôi thì mặt ửng đỏ, tay run lập cập làm tách
trà như muốn rơi khỏi khay, vừa mới sợ rơi định đặt
khay xuống thì nước đã sóng xuống chiếu rồi. Thấy cô
đào thẹn luống cuống quá, tôi vội bưng lấy tách nước.
- Ấy, hư quá. Con bé này lại
động cỡn lên rồi đấy. Này, này..
Bà cỡ bốn chục tuổi cau
mày, ném cái khăn lau [11]
xuống sàn, chừng như nóng giận lắm. Cô đào nhặt cái khăn,
phục sát xuống mặt chiếu sợ sệt.
Mấy lời nói bất ngờ đó
khiến tôi quay lại tự kiểm chính mình. Huyễn tưởng được
khơi nhúm lên qua những lời bà lão bên đèo vụn vỡ trong
tôi. Đúng lúc ấy bà ta nhìn tôi chăm chăm:
- Thầy học sinh có bộ kasuri
xanh dương đẹp quá nhỉ?
Và quay sang hỏi đi hỏi lại
cô gái ngồi bên cạnh.
- Bộ kasuri của thầy đây
cũng giống như thứ của thằng Tamiji nhà mình nhỉ, giống
chứ nhỉ? Chắc cùng một thứ nhỉ?
Bà cũng tự kiểm tra mấy lần
cho chắc rồi bảo tôi:
- Tôi có thằng cháu để ở
quê cho đi học, bây giờ nhớ ra nó. Bộ kasuri của nó đâu
có khác. Độ này kasuri xanh dương lên giá thật là khổ cơ
thầy.
- Trường nào thế?
- Trường tầm thường [12]
năm thứ năm.
- Thế ạ. Năm thứ năm tầm
thường thì...
- Cháu nó học ở trường tỉnh
Kofu cơ đấy. Chúng tôi ở Oshima lâu thôi chứ thật ra quê
ở mạn Kai, Kofu cơ.
Nghỉ được độ một giờ
thì anh đàn ông đưa tôi lại một nhà trọ khác. Cho tới
khi đó tôi vẫn cứ ngỡ là sẽ ở cùng một nhà trọ với
mấy người nhà hát này. Tôi với anh ta đi xuống đường
trải sỏi, bước qua một dãy bậc đá, khoảng được độ
một chô thì tới một cây cầu vắt ngang qua vũng tắm công
cộng của một con suối nước nóng nhỏ. Bên kia cầu là nhà
tôi trọ.
Vừa xuống chỗ tắm riêng
của của nhà trọ thì anh đàn ông cũng xuống. Anh tự cho
biết năm nay anh hai mươi bốn, vợ hai lần hoặc sẩy thai
hoặc đẻ non làm con chết cả. Anh ta mặc áo cánh có dấu
riêng của suối nước nóng Nagaoka nên tôi đoán anh ta cũng
là người miền ấy. Nhất là anh ta, từ nét mặt cho tới
cách ăn nói đều tỏ ra con người hiểu biết khá rộng khiến
tôi nghĩ anh hoặc vì thích chuyện lạ hoặc vì yêu con hát
mà đi vác hành lý đến đây chăng.
Tắm xong tôi liền ra ăn trưa.
8 rưỡi sáng mai đi khỏi Yugano mà bây giờ mới 3 rưỡi.
Anh đàn ông trước khi ra về,
từ dưới vườn ngước lên chào tôi. Tôi gói tiền ném xuống:
- Cầm lấy mua hồng mà ăn.
Xin lỗi vì đứng ở lầu hai.
Để từ chối, anh giả vờ
như tôi ném quá tay không bắt được, nhưng vì gói giấy nằm
rơi dưới vườn, anh ta quay lùi lại vừa nhặt lên vừa nói.
- Để rơi thế này có lỗi
quá.
Rồi ném lên trả lại. Gói
tiền rớt trên mái tranh. Tôi ném lại lần nữa anh ta mới
bắt lấy đi.
Từ lúc mặt trời lặn đến
giờ, mưa rơi như trút. Núi xa núi gần gì cũng trắng xóa
cả, con suối nhỏ đằng trước thoắt chốc đã đục ngầu
và như gầm lên. Tôi đã đinh ninh mưa to thế này chắc đám
mấy cô đào không đi hát rong được mà vẫn không sao ngồi
yên, dù đã thử xuống tắm hai, ba lần. Trong buồng trời
đã nhá nhem tối. Ngọn đèn điện thả từ trên xà ngang xuống
một cái khoang vuông thông với phòng bên cạnh đã được
bật lên. Đèn điện ở đây một ngọn được thắp cho hai
phòng.
Thì thình thình thình. Gữa
tiếng mưa đổ rào rào tôi nghe tiếng trống cái vẳng xa xa.
Tôi kéo mở cửa che mưa mà như xé toạc để nhoài người
ra ngoài. Tiếng trống như đang gần lại dần. Mưa gió phật
vào đầu tôi, tôi nhắm mắt lắng tai nghe, muốn biết xem
tiếng trống cái đang ở đâu và đến đây bằng ngả nào.
Chẳng mấy chốc nghe được tiếng shamisen [13].
Nghe được giọng con gái ngân dài. Nghe được tiếng cười
nói ồn ào. Tôi hiểu ra là đám nhà hát đã được gọi tới
chầu tiệc ở quán ăn trước nhà trọ bình dân. Tôi phân
ra được hai, ba tiếng con gái với ba, bốn giọng đàn ông.
Tôi đợi chắc xong ở đằng đó rồi sẽ rong lại đây. Nhưng
bữa rượu dường như đã vượt khỏi giới hạn của sự
vui vẻ và thành ra ồn ào cợt nhả. Thỉnh thoảng lại nghe
tiếng con gái lanh lảnh ré lên, xuyên qua màn đêm như những
lằn chớp. Bao nhiêu thần kinh tôi dựng cả dậy, cứ để
cửa mở ngồi ngây không biết trong bao lâu. Mỗi khi nghe một
tiếng trống cái, lòng tôi lại tươi hẳn lên.
- À, cô đào vẫn còn ngồi
hầu tiệc. Hãy vẫn còn ngồi đánh trống.
Tiếng trống cái mà dừng là
tôi không chịu được. Tôi như luồn dưới đáy mưa để
nghe.
Rồi tôi nghe thấy tiếng chân
bước loạn xạ một hồi không hiểu là đang nhảy nhót hay
là rượt đuổi nhau. Rồi im lìm. Mắt tôi sáng quắc lên.
Tôi muốn nhìn thấu qua màn đêm để hiểu cái yên lặng này
có nghĩa gì. Có phải đêm nay cô đào bị vùi dập ô uế
không? Đóng cửa che mưa xong rồi mà vẫn thấy băn khoăn khổ
sở. Lại vào tắm, dội nước ào ào. Mùa thu như được trời
mưa rửa sạch cho trăng sáng vằng vặc.
Đi chân không ra khỏi bể tắm.
Chẳng có thể làm gì hơn được. Đã quá 2 giờ.
Kawabata
đến thăm trường quay Izu no odoriko (1963)
|
3.
Sáng hôm sau, khoảng mới hơn
9 giờ đã thấy anh đàn ông đến chỗ tôi. Vừa ngủ dậy
nên tôi rủ anh ta đi tắm cùng.Trong một ngày thu tiết tiểu
xuân ấm áp quang đãng sau một ngày mưa, nằm trong lòng con
suối nhỏ lượng nước vừa dâng cao dưới ánh nắng miền
nam Izu thì ngay nỗi băn khoăn tối qua tôi cũng chỉ còn thấy
như một giấc mơ. Nhưng tôi cũng thử hỏi ướm anh ta.
- Tối qua mãi tới khuya mà
hãy còn huyên náo quá nhỉ?
- Gì? Thầy nghe thấy à?
- Nghe thấy.
- Dân địa phương ấy mà.
Cái giống dân địa phương là chỉ có ồn ào bậy bạ. Không
sao mà thấy thú vị được.
Anh ta đáp như chẳng có chuyện
gì khiến tôi cũng đành im.
- Ở vũng tắm đằng kia mấy
thằng cha đó đang xuống đấy. Kìa, bọn hắn như đang ngó
lại đằng này nhận ra cười, rõ ghét.
Theo tay anh ta chỉ, tôi chìn
về phía vũng tắm đằng trước. Nổi bập bềnh trên làn
hơi nước nóng là bảy, tám thân xác đàn ông trần truồng.
Từ phía trong tối, tôi thấy
như vừa có bóng con gái khỏa thân đột nhiên chạy vụt ra,
đứng sát mép bờ để quần áo, dáng như sắp nhảy xuống
nước, hai tay duỗi thẳng ra đằng trước chừng đang gọi
ai đó. Cô gái lõa lồ đến cái khăn mặt cũng không có. Nhìn
kỹ thì ra là cô đào. Tôi ngắm nhìn cặp chân thon dài như
hai cành vông non, toàn thân nõn nà mà thấy như vừa bị ai
dội một gáo nước lạnh vào tim. Rồi tôi thờ phào ra một
cái thật mạnh và cười lên sằng sặc. Rõ là đồ trẻ con.
Trẻ con đến nỗi còn ham vui mà tồng ngồng chạy ra ngoài
nắng, cái thứ trẻ con vẫn còn phải đứng kiễng chân lên
cho bằng được người lớn. Tôi khoan khoái cười mãi. Đầu
óc tôi trong sáng hẳn ra. Bao nhiêu bụi bậm trong đó đều
như đã được rũ sạch.
.Vì mái tóc của cô đào quá
dày, làm cô như gái 17, 18, lại còn thắng bộ để diễn trò
đã khiến tôi suýt hiểu lầm.
Anh đàn ông lên phòng tôi được
một lúc thì cô gái lớn cũng tới xem mấy luống cúc, cô
đào qua đến giữa cầu. Bà cỡ bốn mươi lúc đó từ vũng
tắm đi ra nhìn theo hai người. Cô đào tự nhiên rụt cổ
lại, cười như thể nói bị mắng em phải về, rồi vội
vàng trở gót. Bà cỡ bốn mươi tuổi đi lại đến tận cầu
nói với sang:
- Mời thầy sang chơi.
Cô gái lớn cũng nói như thế
rồi cùng về với mấy người kia. Anh đàn ông thì ở chơi
mãi đến chiều.
Nữ diễn
viên Yoshinaga Sayuri (vai Kaoru)
Buổi tối, đang đánh kỳ [14]
(goban) với mấy người lái giấy thì nghe tiếng trống cái
dưới vườn. Tôi nhỏm người định đứng dậy:
- Đám hát rong đến rồi.
- Ừm, chán chết. Cái của
ấy. Nè, nè, tới phiên thầy đấy. Tôi đã đi đây rồi này.
Ông lái giấy đang mải mê
thắng phụ, tay không rời nổi bàn cờ. Tôi đang bối rối
không biết làm sao thì mấy người nhà hát chừng như đã
sắp sửa quay gót. Anh đàn ông từ dưới vườn đánh tiếng:
- Chào thầy.
Tôi ra ngoài hiên vẫy gọi.
Mấy người nhà hát đứng dưới vườn thì thầm bàn với
nhau một hồi xong ba cô con gái lần lượt theo anh đàn ông
đi lên gác.
-Chào mọi người.
Họ chống nhẹ tay xuống sàn
cúi chào tôi như kiểu mấy người nghệ giả (geisha). Trên
bàn kỳ, bất chợt trận thế của tôi bắt đầu lộ vẻ
thua.
- Thế này thì chẳng còn cách
nào. Cho tôi hàng.
- Làm gì có chuyện đó chứ.
Bên tôi đây mới bết đấy. Kể ra cả hai đều đã hết
quân.
Người lái giấy không ngẩng
đầu lên nhìn mấy người nhà hát, càng đánh ông ta càng
chăm chú, ngồi đếm từng ô. Mấy cô gái sau khi để trống
với shamisen vào một góc, lấy bàn cờ tướng [15]
ra chơi sắp năm [16].
Bàn kỳ tôi đã thắng để cho thua mất rồi mà ông lái giấy
vẫn còn kèo nhèo:
- Đánh thêm ván nữa, một
ván nữa thôi, thầy nhé.
Nhưng không còn thấy hứng
thú, tôi chỉ cười trừ khiến ông lái giấy phải chịu bỏ
cuộc đứng dậy.
Mấy cô gái xích lại gần
bàn kỳ.
- Đêm nay thế vẫn còn đi
quanh đâu nữa chứ hả?
- Vâng, còn phải đi nữa chứ.
Anh đàn ông đáp xong nhìn mấy
cô gái.
- Làm thế nào? Hay là tối
nay hãy nghỉ việc để chơi đi.
-Sướng quá, sướng quá.
- Thế có sợ bị mắng không?
- Mắng gì. Đi bấy nhiêu rồi
cũng không có khách còn gì.
Thế là mọi người cùng chơi
sắp năm vớ vẩn mãi cho tới 12 giờ khuya mới ra về.
Cô đào đã đi rồi mà tôi
vẫn không làm sao ngủ được, đầu óc cứ tỉnh như sáo,
đành ra hiên thử gọi:
- Này, ông lái giấy. Này, ông
lái giấy.
- Hở?
Rồi một ông gần sáu mươi
tuổi ở trong buồng hăm hở nhào ra:
- Tối nay cả đêm đấy. Đánh
chờ sáng á.
Tôi cũng thấy mình hết sức
là háo chiến. |
4.
Đã hẹn sáng hôm sau 8 giờ
khởi hành đi khỏi Yugano. Tôi lấy cái mũ săn mua ở trước
bãi tắm công cộng đội vào đầu còn cái mũ học sinh cao
đẳng nhét xuống dưới đáy cặp, đi đến nhà trọ bình
dân bên đường cái. Thấy cửa lầu hai mở toang, tôi chẳng
ngần ngại gì leo lên thì cả gia đình nhà hát hãy còn nằm
trên sàn. Tôi chưng hửng, đứng chết trânngoài hành lang.
Trên sàn ngay dưới chân tôi,
cô đào mặt cứ đỏ ửng lên, úp hai bàn tay che lấy mặt.
Cô ta cùng nằm một chỗ với cô gái nhỡ, mặt hãy còn nguyên
lớp phấn son trang điểm tối qua. Son ở môi và ở hai quầng
mắt đã thâm lại. Dáng nằm dễ thương in thấm lòng tôi.
Chừng cô đào bị chói nên trở mình lại, rồi vẫn che lấy
mặt trườn người chui ra khỏi đệm, ra hiên ngồi xuống,
gọn gàng gập mình lễ phép cúi chào cảm ơn thầy tối qua,
làm tôi đứng đó bối rối luống cuống.
Anh đàn ông ngủ cùng với
người con gái lớn nhất. Cho tới phút đó tôi vẫn không
một chút nào ngờ hai người lại là vợ chồng.
- Thật quả là có lỗi lắm
đấy. Vẫn tính là bữa nay lên đường nhưng dường như tối
nay có đám hát chầu, chúng tôi đã định ở nán lại thêm
một ngày nữa xem sao. Nếu thế nào hôm nay thầy cũng phải
lên đường thì xin được thầy ghé qua thăm lại ở Shimoda.
Chúng tôi đã định là sẽ ngủ lại ở quán bình dân tên
Koshuya nên thầy sẽ tìm thấy ngay.
Nghe bà cỡ bốn mươi tuổi
nửa người chui ra khỏi đệm ngồi trên sàn nói thế, tôi
cảm thấy như mình bị tống cổ đuổi đi.
- Thầy để ngày mai đi được
không thầy? Tại mợ tôi chẳng có chịu nghe, cứ bắt phải
nán lại thêm một ngày. Có bạn đường thích lắm chứ. Ngày
mai đi cùng thầy mà.
Nghe anh đàn ông nói thế, bà
ta thêm vào:
- Thầy tính như thế đi. Biết
là được thầy cho đi cùng thế này mà nói những chuyện
ích kỷ đâu có được. Ngày mai thì dẫu cho có mưa gươm
cũng vẫn xin đi vì ngày kia bốn mươi chín ngày đứa cháu
đi đường mà mất. Từ lâu chúng tôi vẫn tính để xuống
Shimoda, lòng không vẩn chuyện gì làm cho nó bữa kỵ bốn
mươi chín ngày nên thế nào cũng phải xin đi cho kịp. Nói
ra thì thật là thất lễ nhưng cũng là một cái duyên không
ngờ run rủi, xin thầy ngày kia khấn giùm cho cháu bé một
câu với nhé.
Và thế là tôi hoãn ngày đi
lại, xuống dưới nhà. Để đợi mấy người trở dậy, tôi
mới vừa vào gian làm việc sổ sách bẩn thỉu của nhà trọ
để nói chuyện chơi với mấy người làm trong đó thì đã
thấy anh đàn ông xuống rủ đi tản bộ. Đi dọc con đường
cái xuống phía nam một chút là tới một cây cầu tuyệt đẹp.
Hai chúng tôi đi dọc lan can cầu. Anh ta lại đem chuyện mình
ra kể. Anh ta đã có lần gia nhập một ban tân kịch [17].
Ngay bây giờ, đôi khi anh vẫn còn diễn kịch ở Oshima. Tay
nải của anh thò ra một bao kiếm nhưng theo anh, nó chỉ để
dùng trong những khi ngồi hát hay diễn tuồng mà thôi. Quần
áo chén bát hay những gia cụ khác đựng trong mấy cái hòm
mây đó.
- Tôi vì lẫm lỡ, tấm thân
này đã xuống bùn nhơ, nhưng may còn được người anh ở
Kofu vẫn giỏi giang nối nếp nhà. Thế nên tôi cũng chỉ là
tấm thân bỏ đi.
- Tôi vẫn cứ cho anh là người
miệt suối nước nóng Nagaoka đấy.
- Thế ạ. Người con gái lớn
nhất là nhà tôi đấy, kém thầy một tuổi, mười chín đấy
mà màn trời chiếu đất thành ra hai lần đẻ non cả. Con
thì nuôi khoảng được một tuần thì hết thở, còn nhà tôi
bây giờ người vẫn chưa khỏe hẳn. Bà ấy là mợ sinh ra
nhà tôi. Cô đào là em ruột tôi.
- Hả? Anh mà có em gái mới
mười bốn thì...
- Nó đấy. Đành rằng chỉ
có nó là tôi thấy không muốn bắt làm những công việc như
thế này, nhưng tình cảnh lại còn nhiều chuyện éo le lắm.
Rồi anh ta cho tôi biết tên
anh ta là Eikichi, vợ là Chiyoko và em là Kaoru. Chỉ có người
con gái còn lại, mười bảy, tên là Yuriko, mới là người
sinh trưởng và mướn được ở Oshima thôi. Eikichi hết sức
mủi lòng, mặt gần như muốn khóc, đăm đăm nhìn theo dòng
nước.
Quay trở về, tôi thấy cô
đào hát mặt đã rửa sạch hết lớp phấn son, đang khom lưng
xuống bên đường vuốt ve đầu con chó. Trước khi quay trở
về nhà trọ tôi bảo cô:
- Lại chơi.
- Vâng, nhưng một mình thì..
- Thế thì cùng tới với anh
cô.
- Em sẽ tới ngay.
Một lát sau Eikichi đến nhà
tôi trọ,
- Tất cả đâu?
- Bọn con gái bị mợ nhà tôi
mắng nên không đến được.
Nhưng hai người vừa chơi sắp
năm được một lát thì tất cả cùng tới, qua cầu rồi rầm
rầm leo lên gác. Cũng như mọi lần trước, tất cả cùng
ngồi xuống hành lang, lễ phép gập mình cúi đầu chào xong
vẫn ngần ngừ ngồi nguyên ở ngoài. Nhưng rồi Chiyoko đứng
lên trước tiên.
- Đây là phòng tôi mà, tất
cả muốn làm gì xin cứ tự nhiên.
Ở chơi được độ một tiếng,
mấy người nhà hát xuống bến tắm riêng của nhà trọ. Mọi
người đều vật nài tôi xuống tắm chung, nhưng vì có tới
ba cô gái trẻ thành ra tôi giữ ý, nói dối họ là xin được
xuống sau.
Cô đào hát thoắt một cái
đã thấy lên ngay, lập lại lời của Chiyoko:
- Chị em bảo thày đến để
chị cọ lưng cho [18].
Tôi thay vì xuống tắm lại
đi đánh sắp năm với cô đào. Tôi không ngờ cô ta đánh
hay đến thế. Nghe nói thì Eikichi với mấy cô gái kia đều
bị cô ta hạ dễ dàng. Sắp năm thì thường thường đánh
với người khác tôi đều thắng cả mà hôm ấy tôi phải
dốc toàn lực ra. Được đánh mà không phải vờ đặt một
quân nào hớ hênh thấy cũng khoái. Vì chỉ một mình hai người
nên lúc đầu cô ta ngồi xa xa, lấy tay với tới đặt con.
Nhưng dần dần mải đánh quên để ý xích gần lại, cúi
sát xuống bàn, mái tóc đen óng đẹp kỳ lạ của nàng như
chạm vào ngực tôi. Đột nhiên mặt nàng đỏ hồng lên.
- Em xin lỗi. Sắp bị mắng
kìa.
Rồi bỏ hết đá xuống đứng
bật dậy chạy đi. Bà mẹ đã đứng trước bãi tắm công
cộng từ hồi nào rồi. Chiyoko và Yuriko cũng vội vàng đi
lên, lén đi về thẳng không ghé cả qua chào tôi. Hôm đó
Eikichi cũng ở lại chơi từ sáng cho tới mãi chiều. Ông chủ
quán trọ tính mộc mạc tử tế khuyên tôi đừng tốn cơm
cho những người như thế. Đến tối, khi tôi đến đằng
quán trọ bình dân thì là lúc cô đào đang học bà mẹ đánh
shamisen. Thấy tôi đến, cô ta liền dừng đánh, sau nghe lời
bà mẹ mới lại ôm đàn lên. Mỗi lần giọng ca hơi cất
cao lên tí là bà mẹ lại bảo:
- Đã nói cao giọng là không
được mà cứ.
Eikichi đang bận ê a tụng gì
không biết ngồi hát chầu trên lầu hai tiệm ăn trước mặt,
ngồi ở bên này cũng trông thấy.
- Điệu gì thế nhỉ?
- Điệu utai [19]ấy.
- Utai mà sao lạ quá.
- Vì ông ấy trò nào cũng mó
vào [20],
có hiểu là đang hát gì đâu hở thầy.
Vừa lúc ấy thì người đàn
ông khoảng trên dưới bốn mươi đến đây làm nghề hàng
gà (toriya) mướn phòng ở quán trọ này kéo cửa ngăn gọi
mấy cô gái sang cho ăn. Cô đào cùng với Yuriko cầm đũa sang
phòng bên khoắng vào trong nồi canh gà torinabe còn thừa. Khi
theo mấy cô trở về phòng bên này, đến nửa chừng ông hàng
gà vỗ nhẹ tay vào vai cô đào. Bà mẹ làm mặt dễ sợ:
- Ấy này không có được đụng
vào con bé đó chớ. Con gái tân đấy.
Cô đào hát vừa gọi bác,
bác vừa vòi ông hàng gà đọc chuyện Mito Kômon mạn du kí [21]
cho nghe. Nhưng ông ta bỏ về ngay. Không thể nói thẳng nhờ
tôi đọc tiếp được, cô đào đánh bạo khẩn thiết xin
bà mẹ nói tôi đọc giùm. Tôi cầm cuốn truyện lên chờ
đợi một điều. Y như rằng cô đào xích lại gần tôi. Khi
tôi bắt đầu đọc, mặt cô ta đã sát lại gần tưởng như
cô ta áp người lên vai tôi, dáng hết sức chăm chú, mắt
sáng long lanh, để hết tâm trí nhìn vào trán tôi không chớp
mắt. Hình như cô đào có tật cứ đến giờ này thì phải
có người đọc truyện cho thì phải. Lúc nãy tôi cũng thấy
mắt cô ta chụm lên mặt ông hàng gà. Cặp mắt đen to như
thế này thì chỉ một mình cô đào là người làm chủ đẹp
nhất. Nếp gấp hai mí mắt xinh không thể nói được. Miệng
cô cười tươi như hoa. Tả nụ cười mà dùng câu cười tươi
như hoa thì thật đúng với cô đào.
Được một lúc thì có người
bên quán ăn sang đón. Cô đào hát vừa khoác áo vừa dặn:
- Vì em về liền nên chờ em
về đọc tiếp cho nhé.
Rồi nàng đi ra hiên, ngồi
xuống cúi đầu gập mình chào.
- Xin phép thầy em đi.
- Đừng hát đấy nhé.
Nghe bà mẹ dặn, cô đào vừa
bưng trống vừa đầu nhè nhẹ. Bà mẹ quay sang tôi:
- Vì bây giờ là lúc đang vỡ
giọng cho nên.
Cô đào leo lên lầu hai quán
ăn, ngay ngắn ngồi vỗ trống. Tôi trông thấy rõ dáng lưng
nàng như nàng đang ngồi ngay phòng bên cạnh. Nghe tiếng trống,
tim tôi đập lên sung sướng. Bà mẹ nhìn sang bên kia nói:
- Có tiếng trống là thấy
bữa hát chầu nổi hẳn lên thầy nhỉ?
Chiyoko và Yuriko cũng đi sang
bên đó. Khoảng 1 giờ sau cả bốn người cùng về.
- Được bây nhiêu.
Cô đào bỏ vào tay bà mẹ
năm mươi tiền bằng bạc kêu lách cách. Tôi lại đọc tiếp
Mito Kômon mạn du ký một hồi. Mọi người lại đem chuyện
đứa nhỏ vì đi lưu diễn mà mất ra kể. Đứa nhỏ sinh ra
trong suốt như nước, không đủ sức khóc thế mà cũng sống
được tới một tuần.
Lòng tốt bình thường của
tôi, tấm lòng không một chút tò mò cũng không khinh rẻ như
thể tôi đã quên đi họ là những người hát rong, dường
đã thấm thía vào lòng họ. Chuyện bữa nào tôi sẽ đến
thăm nhà cửa họ được định xong xuôi lúc nào không hay.
- Ở nhà ông mình được chứ
nhỉ? Ở đấy vừa rộng mà đưa ông đi chỗ khác lại yên
nữa, muốn ở đến bao giờ cũng được mà học hành cũng
dễ.
Mọi người bàn tán với nhau
xong bảo tôi:
- Có hai căn nhà nhỏ mà căn
ở phía núi thì gần như để không ấy.
Lại thêm chuyện đến Tết
tôi sẽ tới giúp họ, tất cả mọi người sẽ diễn kịch
ở cửa Habu cũng định xong. Con tim lang bạt không khiến cho
họ nhìn đời cay đắng như tôi nghĩ hồi mới đầu. Điều
họ là những người phóng khoáng còn nguyên lành hương vị
hoang dã cũng truyền qua người tôi. Vẫn biết họ đều là
mẹ con anh em, nhưng tôi cảm thấy sợi dây ràng buộc gắn
bó họ với nhau là tình yêu thương ruột thịt thân thiết.
Riêng cô người làm Yuriko vẫn biết đang ở lứa tuổi dễ
thẹn thùng nhưng trước mặt tôi lúc nào cũng trầm ngâm ủ
dột.
Quá nửa đêm tôi ra về. Mấy
cô gái theo tiễn chân. Cô đào đã quay guốc [22]
lại cho tôi rồi. Cô thò đầu ra ngoài cửa, ngắm bầu trời
sáng và bảo:
- Á á ông trăng. Ngày mai ở
Shimoda, sướng quá à. Kỵ bốn chín ngày đứa nhỏ xong xin
mợ mua cho cái lược mới rồi còn có nhiều mục khác nữa
cơ. Dẫn em đi xem chiếu bóng nhớ thầy.
Bầu trời mang nhiều hương
vị quê hương nhất cho cuộc đời lang bạt của những kẻ
đi rong hát quanh các suối nước nóng vùng Izu Sagami chính là
bầu trời bến cảng Shimoda. |
5.
Mấy người nhà hát lại chia
nhau mang hành lý giống bữa vượt đèo Amagi. Con chó nhỏ ôm
trong vòng tay bà mẹ thò chân ra như đã quen cuộc đời hồ
hải. Vừa ra khỏi Yugano là đường lại len giữa đồi núi.
Ánh nắng ban mai trên biển chiếu ấm sườn núi. Chúng tôi
ngắm nhìn về hướng mặt trời. Bãi biển Kawazu mở rộng
chói lọi đón những kẻ đang đi về mạn sông Kawazu.
- Kia là đảo Oshima đấy nhỉ?
Cô đào đáp:
- Thầy có thấy nó lớn không
nào?. Ra chơi nhớ thầy.
Không biết có phải tại trời
thu trong xanh quá mà sao chỗ biển gần mặt trời mờ sương
như giữa tiết xuân. Từ đây đến Shimoda còn phải đi ngót
năm lý nữa. Biển bị che khuất một lúc không thấy. Chiyoko
hồn nhiên cất tiếng ca.
Nửa đường thì đến một
con đường tắt gần hơn được hai mươi chô nhưng là đường
núi hiểm trở khó đi và một con đường cái dễ đi hơn.
Hỏi tôi chọn con đường nào thì tất nhiên là tôi chọn
con đường gần hơn.
Đường lá rụng trơn trượt,
dốc ngược, len lỏi giữa các gốc cây. Càng mệt thở phì
phò thì ngược lại tôi như kẻ đến lúc phải liều, càng
đặt hai bàn tay nắm lấy đầu gối như muốn kéo dài thêm,
cố nhanh chân bước. Nhìn đi nhìn lại thì cả bọn đều
bị rơi lại đằng sau, thành ra chỉ còn nghe được tiếng
nói vọng ra như từ mấy thân cây.
Cô đào một mình vén cao tà
áo, thoăn thoắt và lầm lũi theo sau tôi. Cô không bước tới
gần hơn cũng không lùi lại, lúc nào cũng giữ cách tôi khoảng
một ken. Tôi quay lại bắt chuyện thì cô ta như thể giật
mình vì bất ngờ, vừa chúm chím cười ngừng lại đáp. Thấy
cô đào bắt chuyện, tôi đứng lại chờ, định để cho cô
ta theo kịp thì cô ta cũng ngừng lại mất, cho tới khi tôi
bước đi mới chịu bước. Đến những khúc đường khúc
khuỷu hiểm trở hơn tôi lại càng rảo bước thêm nữa, cô
đào vẫn theo sau tôi một ken không đổi và chăm chú leo tới.
Rừng núi lặng im. Những người khác đã rơi lại tít đằng
sau không còn nghe thấy cả tiếng nói chuyện nữa.
- Tokyo nhà thầy ở đâu?
- Không. Tôi ở trong ký túc
xá của trường.
- Em cũng biết Tokyo nữa. Đi
múa ngày hội thưởng hoa [23].
Ngày bé nên bây giờ chẳng còn nhớ gì.
Rồi cô đào hỏi tôi như là:
"Thầy còn cha không?" hay "thầy đã đến Kofu bao giờ chưa?"
Hết chuyện này chạy sang chuyện khác. Cô đem những chuyện
đến Shimoda sẽ xem chiếu bóng hay chuyện đứa bé chết ra
nói.
Đã đến đỉnh núi. Cô đào
hát ngồi xuống cỏ khô, gỡ trống ra và lấy khăn lau mồ
hôi. Rồi cô ta tự hào khen cặp chân của mình. Bất ngờ
cô nhỏm dậy quỳ ngay dưới chân vuốt lại gấu manh hakama
cho tôi. Tôi rụt người lại một cách bất chợt khiến cô
đào sụm đầu gối xuống. Cứ quỳ nguyên như thế bò quanh
phủi quần áo cho tôi xong kéo vạt áo vén lên xuống, cô đào
bảo tôi lúc đó đang đứng hổn hển thở:
- Ngồi xuống đi thầy.
Vừa ngồi xuống thì một đàn
chim nhỏ bay ngang tới. Yên lặng đến nỗi tôi nghe được
cả tiếng lá khô xào xạc trên cành nơi đàn chim đang đậu.
- Sao thầy đi nhanh thế?
Cô đào hát chừng như thấy
nóng lắm. Tôi lấy ngón tay gõ binh binh lên mặt trống làm
đàn chim sợ bay đi.
- Hà, khát nước.
- Để em đi kiếm nhé?
Nhưng chẳng mấy chốc cô đào
đã chui ra khỏi những lùm cây đã úa vàng rồi trở lại
ngay với hai tay không
- Hồi ở Oshima em làm gì nhỉ?
Thế là đường đột cô ta
kể hai, ba tên con gái, bắt đầu kể chuyện gì tôi chẳng
hiểu đầu đuôi. Hình như không phải là chuyện ở Oshima
mà là hồi còn ở Kofu, chuyện mấy cô bạn ngày cô ta còn
đi học cho đến năm thứ hai trường tầm thường thì phải.
Cô đào hễ nhớ gì kể nấy.
Mười phút sau thì ba người
trẻ kia cũng nặng nhọc tới đỉnh núi còn bà mẹ phải đợi
thêm mười phút nữa. Lúc đi xuống Eikichi và tôi cố tình
chậm lại sau vừa thủng thẳng xuống vừa nói chuyện. Đi
vừa mới được độ hai chô đã thấy cô đào từ bên dưới
chạy lên:
- Ở dưới kia có suối, nhanh
lên đi vì em chờ thày xuống mới uống.
Nghe thấy nước, tôi chạy
đi. Từ trong khe đá dưới bóng cây, nước trong vắt tuôn
trào ra. Mấy người đàn bà con gái đứng quanh suối. Bà mẹ
bảo:
- Chà, xin mời thầy uống trước.
Cho tay vào thì nước vừa đục lên mà nghĩ là nếu uống
sau đàn bà con gái chắc là ô uế.
Tôi lấy tay vục nước uống
còn mấy cô gái đứng thong dong chung quanh và không bỏ đi.
Họ làm những việc như là cầm khăn mặt lau mồ hôi.
Lúc xuống núi để ra đường
cái đi Shimoda, tôi thấy một vài đám khói đốt than. Tôi
ngồi xuống đống củi bên cạnh đường nghỉ một lát. Còn
cô đào thì ngồi ở giữa đường, lấy chiếc lược mầu
hoa đào chải bộ lông xồm cho con chó. Bà mẹ mắng nhẹ:
- Không sợ gãy hết răng lược
hả?
- Không sao, Đến Shimoda mua
lược mới cơ mà.
Còn tôi, suốt từ Yugano vẫn
định rồi sẽ xin cái lược gài tóc vòng [24]
đó nên thấy nàng lấy chải cho chó thì không bằng lòng.
Bên kia đường, rừng trúc
thật nhiều. Tôi với Eikichi đi trước một vài bước, vừa
đi vừa khen cây trúc này, cây trúc kia mà làm gậy thì vừa
đẹp. Cô đào hát vụt chạy đi mang về một cây trúc to cao
hơn người.
- Làm cái gì vậy?
Eikichi hỏi làm cô đào hơi
luống cuống đưa tôi cây trúc nói:
- Em biếu thầy cây gậy. Em
chặt cây trúc lớn nhất đấy.
- Không được đâu. Chặt cây
trúc lớn người ta biết mình lấy trộm, nhỡ bị bắt hỏi
có phải khổ không? Mang trả lại.
Cô đào quay trở lại bụi
trúc, lần này cô đem về cho tôi một cây to vừa bằng ngón
tay giữa. rồi đứng bên bờ ruộng gập người thở hổn
hển chờ mấy người kia. Tôi và Eikichi vẫn cứ đi, trước
khoảng năm, sáu ken.
- Cứ nhổ ra trồng răng vàng
vào thì đâu có sao.
Tiếng cô đào đột nhiên lọt
vào tai khiến tôi quay lại thì thấy cô ta đang cùng đi với
Chiyoko còn bà mẹ đi với Yuriko, chậm hơn hai người một
chút. Chiyoko hình như không thấy tôi ngoái đầu lại, đáp:
- Thì vậy. Bảo thầy ấy thế
đi.
Dường như chuyện bàn tán
về tôi thì phải. Chiyoko chê hàm răng tôi mọc xấu nên cô
đào mới đem chuyện răng vàng ra đáp lại thì phải. Tôi
cảm thấy mình đã trở nên có những tình cảm thân thiết
với những người này đến cái độ nghe họ đem những chuyện
mặt mũi mình ra bàn cũng không để tai nghe và cũng không thấy
khó chịu. Sau một lúc họ thấp giọng, tôi lại nghe thấy
tiếng cô đào:
- Người tử tế đấy nhỉ?
- Ờ thì vậy. Trông có vẻ
là người tử tế.
- Thật đúng là người tử
tế nhỉ. Người tử tế thì tốt chứ nhỉ?
Mấy lời nói đơn thuần này
chứa đựng cả một âm hưởng mạnh mẽ. Đó là tiếng nói
của tình cảm bộc lộ một cách non nớt. Ngay đến tôi cũng
tự cảm thấy mình là người tốt. Mắt long lanh tôi ngước
lên ngắm những đồi núi trùng điệp sáng rỡ. Dưới khóe
mắt tôi thấy cay mờ đi. Hai mươi tuổi đầu mà bị dày
vò đến khổ sở không chịu được vì tự thấy tại mình
mồ côi khiến tâm tính bị hư hỏng, dằn vặt khổ sở đến
nỗi tôi phải xuống Izu chơi cho khuây khỏa. Cho nên không
một lời nào có thể tả hết được lòng tri ân của tôi
khi được khen với những ý nghĩa tầm thường của thế gian
rằng mình là người tốt. Những ngọn núi kia sáng rỡ lên
vì đã đến gần biển Shimoda. Tôi múa cây gậy trúc lúc nãy
làm đứt băng những ngọn cỏ mùa thu.
Giữa đường tôi thấy rải
rác những tấm biển đề ở cổng làng: "Cấm dân hát rong
ăn mày vào làng." |
6.
Qua cửa bắc Shimoda một chút
là tới nhà ngủ bình dân Koshuya. Tôi theo mấy người hát
rong vào trong quán, leo lên tầng hai. Gọi là tầng hai nhưng
chẳng khác gì một cái gác xép ngay sát dưới mái vì trần
không có mà ngồi xuống thành cửa sổ là mái nhà đụng vào
đầu.
Bà mẹ hỏi đi hỏi lại cô
đào:
- Vai có đau không hả? Tay có
đau không hả?
Cô đào tay vẫy như khi đánh
trống đáp:
- Không đau. Đánh được mà,
đánh được mà!
- Gớm, may quá.
Tôi bưng thử cái trống lên:
- Ái chà, nặng ghê.
Cô đào hát vừa cười vừa
nói:
- Nặng hơn là thầy tưởng
nhiều nhé. Nặng hơn là cặp sách của thầy nhiều nhé.
Bọn người nhà hát và những
người trọ trong quán chào hỏi nhau rối rít. Thì ra ở đây
toàn là những kẻ hát rong hay đi bán dạo cả. Shimoda chẳng
khác nào là chỗ nghỉ cánh cho những con chim thiên di. Cô đào
phát cho lũ trẻ đang chen nhau vào phòng những đồng xu bằng
đồng. Tôi vừa định bước ra khỏi quán thì đã thấy cô
đào vừa quay hộ guốc lại vừa nói thầm một mình.
- Nhớ dẫn đi xem chiếu bóng
nhé.
Tôi với Eikichi được một
người trông tướng mạo như dân giang hồ chỉ dẫn cho tới
nửa đường về ngôi nhà trọ nghe đâu do ông trưởng xóm
trên làm chủ. Vào tắm xong, tôi cùng Eikichi dùng cơm trưa
với cá tươi mới đánh.
- Cầm lấy chút này ngày mai
mua hoa cúng cháu hộ tôi.
Vừa nói tôi vừa đưa gói
tiền nhỏ cho Eikichi đem về. Sáng mai tôi phải đáp chuyến
tàu biển sớm để về Tokyo. Tiền đi đường đã cạn. Tôi
nói tại công việc nhà trường thành ra những người nhà
hát muốn cố giữ tôi lại cũng không được.
Ăn trưa chưa được ba tiếng
đồng hồ đã thấy xong bữa cơm chiều. Tôi một mình qua
một cây cầu lên mạn bắc Shimoda. Trèo lên ngọn Shimoda-fuji
ngó nhìn xuống bến. Trên đường về tôi ghé vào Koshuya thì
bọn người nhà hát đang dùng cơm với canh gà torinabe.
- Mời thầy vào xơi với chúng
tôi một vài miếng. Bọn đàn bà con gái đã thò đũa vào
làm ô uế cả nhưng là kỷ niệm mai mốt thầy còn nhớ lại
mà cười cho vui.
Bà mẹ vừa nói thế vừa lấy
trong hòm mây ra thêm một cái chén với một đôi đũa đưa
cho Yuriko đi rửa đem vào. Tất cả mọi người lại bảo ngày
mai vì là ngày kỵ của đứa bé nên xin tôi nán lại thêm
nhưng tôi núp sau cái khiên công việc nhà trường không bằng
lòng. Bà mẹ mới nhắc lại:
- Như thế đến kỳ nghỉ đông
này chúng tôi tất cả sẽ xin ra đến tận tầu rước thầy.
Thầy nhớ cho biết ngày đến nhé. Chúng tôi đợi đấy. Mà
không có được ở nhà trọ đâu đấy nhé. Chúng tôi xin ra
tới tận tầu đón thầy.
Khi trong phòng chỉ còn có Chiyoko
và Yuriko tôi mới rủ đi xem chiếu bóng. Chiyoko lấy tay ấn
vào bụng, mặt mũi xanh xao bảo:
- Em hãy còn mệt lắm. Cứ
đi đường thế này thì người yếu đi.
Còn Yuriko lần lì không nói
không rằng. Cô đào đang ở tầng dưới đùa với mấy đứa
trẻ con trong nhà trọ, thấy tôi liền ôm lấy bà mẹ vòi
xin cho phép đi xem, nhưng rồi quay ra, mặt mũi sượng sùng
như vừa bị mắng, sửa quay lại guốc cho tôi.
- Sao thế? Thì cho nó đi một
mình đã sao.
Eikichi cũng nói vào giúp mà
bà mẹ vợ vẫn không bằng lòng.
Tại sao dẫn đi một mình thì
không được, tôi hết sức lấy làm lạ. Lúc bước ra khỏi
cổng tôi thấy cô đào ngồi vuốt ve đầu con chó, mặt mũi
ủ rũ đến nỗi tôi muốn dỗ cô ta một vài câu. Nhưng cô
đào không đủ can đảm cất đầu lên nhìn tôi.
Tôi đi xem một mình. Cô giải
thích ngồi đọc lời thuyết minh bên một ngọn đèn dầu
hỏa. Ra khỏi rạp, tôi về ngay quán trọ tì tay lên thành
cửa sổ nhìn mãi xuống phố cảng ban đêm không biết trong
bao lâu. Phố xá tối đen. Tôi nghe như có tiếng trống từ
xa vọng về không ngừng. Nước mắt tự nhiên rơi lã chã
không hiểu vì cớ gì. |
7.
Buổi sáng hôm sau, đang ăn
sáng lúc 7 giờ để đi thì Eikichi từ dưới đường gọi.
Anh ta lụng thụng trong haori the vân đen. Anh đóng bộ đồ
lễ này chắc để đưa tiễn tôi. Mấy người con gái không
thấy đâu cả làm tôi chợt cảm thấy buồn. Eikichi lên phòng
xong thì bảo:
- Mọi người đều muốn đưa
thầy cả nhưng vì tối qua thức khuya quá không dậy kịp nên
đành xin thất lễ cùng thầy. Có dặn tôi xin thầy mùa đông
này thế nào cũng đến chơi cho.
Ngoài đường gió mùa thu buổi
sáng lạnh. Đi được nửa chừng Eikichi ngừng lại mua bốn
bao thuốc lá ngon hiệu Shikishima, hồng và thuốc ngậm cho thơm
miệng hiệu Kaoru vừa cười tủm tỉm vừa đưa tôi:
- Em nó tên là Kaoru mà, trên
tầu ăn quýt thì không tốt chứ hồng có bị say sóng ăn vẫn
còn được, xin thầy dùng.
- Tặng anh cái này.
Tôi đội cái mũ săn lên đầu
anh, lôi chiếc mũ đồng phục học sinh trong cặp ra, vừa vuốt
lại các nếp nhăn vừa cùng cười với nhau.
Tới gần bến đò, lòng tôi
thót lại vì thấy bóng cô đào ngồi co ro bên bờ nước.
Nàng ngồi không nhúc nhích, im lặng cho tới khi tôi tới đứng
bên cạnh. Lớp phấn son tối qua hãy còn nguyên trên khuôn
mặt cô ta làm tôi thêm cảm động. Lớp phấn hồng quanh quầng
mắt cho khuôn mặt còn hum húp của cô ta một vẻ đoan trang
non dại. Eikichi hỏi:
- Mấy người khác có tới
không?
Cô đào lắc đầu.
- Mọi người còn ngủ cả
hả?
Cô đào gật đầu.
Khi Eikichi đi mua vé ra bến
với vé lên tầu, tôi khơi hết chuyện này bắt sang chuyện
khác nhưng cô đào chỉ đăm đăm nhìn ra chỗ lạch thông với
cửa biển không đáp lại một lời nào. Tôi chưa nói hết
câu mà nàng đã gật đầu như người ở trong mộng.
Đúng lúc đó thì:
- Ớ cụ, người này được
hà.
Mấy người trông dáng như
phu phen đến gần tôi.
- Thầy học trò, thầy lên
Tokyo học đấy hả. Thấy thầy, muốn cậy một việc đây,
đưa bà cụ này lên Tokyo giúp cho được không hà? Bà lão
tội nghiệp. Thằng con làm phu mỏ bạc ở Rendaiji hà, vừa
rồi có chứng cảm mạo hay lây làm chết cả con lẫn dâu.
Còn có ba đứa cháu nhỏ như vầy hà. Không biết làm sao hơn,
bọn này mới bàn nhau đưa bà lão về xứ. Quê ở Mito mà
bà lão không biết gì hết trơn, nên tới Reiganjima thì đưa
bà lão lên tàu đi Ueno cho nhá. Phiền thật đấy nhưng bọn
này chắp tay lạy thầy, ấy cứ trông trình cảnh này mà giúp
hộ cho nhá. Thầy cũng thấy tình cảnh tội đấy chứ há.
Bà cụ đứng ngơ ngác trên
lưng địu một đứa nhỏ hãy còn bú, hai tay dắt hai đứa
trẻ gái, đứa nhỏ ba tuổi, đứa lớn năm tuổi. Trong cái
tay nải trông dơ dáy, tôi thấy lòi ra một nắm cơm to với
mấy quả mơ muối khô (umeboshi). Mấy người thợ mỏ đã
thương chăm nom bà lão, thì tôi cũng vui vẻ nhận thay cho họ.
- Nhờ thầy cả đấy.
- Cám ơn. Bọn tôi lẽ ra phải
đưa bà lão cho đến Mito, nhưng như thế thì không được
ạ.
Mỗi người một câu, mấy
người thợ mỏ chào tôi. Bến đò đã rung mạnh lên mà cô
đào vẫn chỉ đăm đăm nhìn một phía, không chịu hé môi.
Khi tôi nắm vào thành cầu lên tầu quay lại thì thấy nàng
như muốn nói Sayonara, nhưng rồi cũng chỉ gật đầu thêm
một cái. Cầu treo đã rút xuống. Eikichi cầm cái mũ tôi cho
lúc nãy vẫy lia lịa. Từ xa tôi bắt đầu thấy cô đào cũng
cầm một cái gì màu trắng vẫy.
Cho đến khi chiếc tầu máy
đã đi khỏi biển Shimoda và mũi nam bán đảo Izu đã khuất
hẳn ở đằng sau, tôi vẫn đứng tựa lan can tầu rướn tầm
mắt ra khơi cố nhìn về phía Oshima. Tôi cảm thấy như đã
xa cô đào từ lâu lắm. Tôi quay nhìn vào khoang tầu xem bà
lão bây giờ thế nào thì thấy mọi người trên tầu đã
quây quần chung quanh an ủi. Yên tâm tôi mới sang buồng bên.
Biển Sagami hôm đó sóng to, ngồi xuống lắm khi bị vật hết
sang phải lại sang trái. Người làm trên tầu đã thấy đi
qua đi lại phát mấy chiếc ống nhổ con bằng kim loại. Tôi
kê cặp làm gối nằm xuống. Đầu óc hoàn toàn trống rỗng
nên tôi không còn ý niệm gì về thời gian. Nước mắt lã
chã rơi xuống cặp. Đầm đìa đến nỗi thấy lạnh ở má
phải lật mặt cặp sang bên kia. Đằng trước tôi có một
cậu con trai đang nằm. Cậu là con một ông chủ xưởng máy
ở Kawazu lên Tokyo sửa doạn thi nhập học nên khi thấy tôi
đội mũ đồng phục của trường Ichi-kô [25]
thì tỏ vẻ mến tôi. Nói chuyện được một vài câu thì
cậu ta hỏi:
- Thưa anh, anh có chuyện gì
buồn thế hả anh?
- Đâu có, tại mình vừa từ
biệt người quen đấy mà.
Tôi đã trả lời hết sức
thành thật. Cho dù có bị thấy là mình đang khóc tôi cũng
vẫn coi như thường. Lúc đó tôi không còn nghĩ ngợi gì.
Tôi chỉ như người đang thiêm thiếp ngủ trong niềm hân hoan
thoải mái.
Biển tối hồi nào không hay
mà đã thấy ánh đèn của Ajiro và Atami. Bụng thấy cồn cào
đói. Cậu nhỏ mở vỉ tre ra, tôi lấy sushi quấn nori [26],
ăn làm như quên đi mất đó là đồ của người khác. Tôi
thọc cả tay vào trong túi áo măng tô của cậu ta lục lọi.
Lòng tôi lúc đó đẹp đẽ thánh thiện như một khoảng hư
không nên cho dù được đối xử niềm nở đến thế nào
cũng vẫn chấp nhận như chuyện tự nhiên phải thế. Sáng
mai, nếu có đưa bà lão đến tận trạm Ueno mua vé cho đi
Mito sớm tôi thấy cũng là một chuyện quá ư tất nhiên. Tôi
cảm thấy bất cứ điều gì cũng có thể dung hợp được.
Đèn trên tầu đã tắt. Mùi
cá tươi trên tầu cùng với mùi biển càng lúc càng nặng.
Trong bóng đêm đen, hơi nóng của cậu nhỏ truyền sang làm
ấm người tôi. Tôi cứ để mặc cho nước mắt rơi lã chã,
rơi đi hết để sau đó chỉ còn cái khoái cảm ngọt ngào
của sự không còn gì.
(1926)
|
NHÂN
NÓI VỀ TÁC PHẨM IZU NO ODORIKO
Nguyên
tác: Kawabata Yasunari
Dịch:
Nguyễn Nam Trân
|
Kawabata
và nữ diễn viên Yoshinaga Sayuri (1963)
Lần đầu tiên tôi đi Izu là
năm 20 tuổi (1919) và từ chuyến du hành ấy đã đẻ ra tác
phẩm Izu no odoriko (Cô đào miền Izu) nay đã đưa vào quyển
đầu tiên của bộ Toàn tập. Trong Yugashima no omoide (Kỷ niệm
về Yugashima), nguyên là bản sơ thảo của Izu no odoriko, tôi
đã thuật lại: "Hồi đó, tôi hai mươi tuổi, nhằm mùa thu
tôi vừa lên năm thứ hai được nửa năm. Đây là lần đầu
tiên từ khi lên thủ đô, tôi mới làm một chuyến du lịch
cho đúng nghĩa". Lên lớp vào tháng 7, đến tháng 9 tôi bắt
đầu niên học mới.
Trong Izu no odoriko, có đoạn
tôi viết: "Hai mươi tuổi đầu mà tâm hồn đã bị dày vò
khổ sở không chịu được, tự thấy mình vì mang mặc cảm
mồ côi khiến tâm tính không bình thường, đến nỗi tôi
phải tìm xuống Izu chơi cho khuây khỏa". Mặt khác, trong Yugashima
no omoide tôi lại viết: ""Năm thứ 1, thứ 2, khi sống nội
trú trong trường Ichi-kô, tôi đã vô cùng chán nản. Có lẽ
vì so với 5 năm trên ghế trường trung học, khung cảnh phòng
trọ lẫn nhà bếp đều khác hết. Hơn nữa, tôi chỉ lo lắng
về cái mầm mống bệnh não sót lại từ buổi thiếu thời
nên không ngớt cảm thương và xót xa cho số phận của mình.
Vì thế mà tôi đã lên đường xuống thăm miền Izu". Tuy tôi
có viết rõ ràng về động cơ của chuyến đi nhưng giờ đây
nghĩ lại thì tôi thấy mình đã để cho tình cảm chi phối
quá nhiều. Tôi nói là mình từng phản tỉnh một cách nghiêm
khắc về điều đó nhưng tôi chẳng biết đã thực sự phản
tỉnh hay không. Bởi vì tôi nghĩ rằng mình vốn không phải
là loại người nghiêm khắc với bản thân.
Thế nhưng trong Yugashima no omoide
tôi đã viết như sau:"Mỗi cái câu cô đào bảo tôi là một
người tốt (ii hito) và được Chiyoko tán đồng đã đủ làm
cho lòng tôi được gột sạch, trở nên trong vắt. Tôi nghĩ
mình là một người tốt. Phải rồi. Mi là một người tốt.
Tôi tự trả lời như vậy. Một câu nói bình thường gọi
tôi là người tốt đã rọi sáng lòng tôi. Khi đi từ Yugashima
xuống Shimoda, dù suy xét về mình thế nào, tôi cũng chỉ thấy
tôi là một người bạn đường tử tế. Ý tưởng được
trở thành một người như thế đã khiến lòng tôi vui. Lúc
ở bên song cửa ngôi nhà trọ ở Shimoda hay khi ngồi trong con
tàu biển, tôi đều cảm thấy thỏa mãn về mình vì đã được
cô đào hát cho là một con người tốt.Tôi đã nhỏ những
giọt nước mắt sung sướng khi nghĩ đến người con gái đáng
yêu đã đánh giá mình như vậy. Bây giờ nhìn lại mới thấy
điều đó thật là lạ lùng. Chả nhẽ lúc đó mình ngây thơ
đến thế". Nhưng dù sao, chắc chắn điều đó đã là một
phần của động cơ giúp tôi viết nên Izu no odoriko. Và có
lẽ nó cũng là lý do khiến cho độc giả yêu mến tác phẩm
này.
Với Izu no odoriko cũng như với
Yukiguni (Xứ Tuyết, 1935-47), tôi đã viết để bày tỏ lòng
biết ơn đối với tình yêu. Izu no odoriko là tác phẩm bộc
lộ điều đó một cách chân phương (sunao) nhất. Còn trong
Yukiguni thì nó đã thể hiện sâu sắc với nhiều đau khổ
hơn.
Trong Izu no odoriko, tôi hầu
như không mô tả phong cảnh bên đường từ Shuuzenji đến
Shimoda. Tôi không đặc biệt có chủ tâm tả cảnh. Mùa hạ
năm 24 tuổi (1923), tôi viết nó ở Yugashima nhưng không định
công bố, đến năm 28 tuổi (1927), mới sửa chữa vài chỗ
rồi chép ra. Lúc đó tôi tính sẽ bổ sung vài đoạn tả cảnh
nhưng rồi bỏ không làm.Tuy vậy, dĩ nhiên là tôi có tô chuốt
(mỹ hóa) cho các nhân vật ở vài chỗ.
Năm Shôwa thứ 8 (1933), lúc
Izu no odoriko được dựng thành phim [27],
vấn đề mỹ hóa nhân vật này đã được tôi đề cập đến:"Cô
đào năm đó 14 tuổi (ta) thì năm nay (1933) cũng đã 33 . Kỷ
niệm còn hiện ra rõ rệt trong tôi là vết son đỏ ở đuôi
mắt khi cô đang nằm ngủ. Đó là một màu son kiểu xưa.Lần
đó là chuyến đi hát rong của đoàn.Về sau họ về định
cư ở cảng Habu trên đảo Ôshima và mở một cửa hàng ăn
nho nhỏ. Họ còn trao đổi thư từ một ít lâu lúc tôi còn
ở nội trú trong trường Ichi-kô. Tuy mặt mày không thể giống
nhau nhưng phải nói là nữ diễn viên Tanaka Kinuyo (1909-1977)
đã vào vai cô đào rất khéo. Đặc biệt là cái dáng đằng
sau lưng của cô với cái cổ áo hanten [28]
thả lửng trên vai. Nói chung cách cô đóng trò một cách đầy
hứng khởi và thân tình làm tôi rất bằng lòng. Cô Wakamizu
Kinuko trong vai chị dâu thể hiện được như thật cái mệt
mỏi của vai một người đàn bà vừa sinh non đã phải đi
đường. Vì cô không được dùng để diễn một cảnh nào
nên vẻ biếng nhác u sầu lại càng hợp với vai của cô.
Trên thực tế, đó là một sự phí phạm vì cô là một người
đẹp. Chính ra cặp vợ chồng thật của người anh mà cô
thủ một vai thì khổ sở vì viêm nhọt (haremono), sáng sáng
đau nhức tay chân, không ra khỏi giường ngủ. Người anh mỗi
khi đi tắm suối nước nóng đều phải thay thuốc cao dán
nơi chân. Trong bể tắm, họ không thể nào tránh được cái
nhìn của tôi. Còn chuyện đứa trẻ mới đẻ ra đã trong
suốt chắc có lẽ là hậu quả của chứng bệnh này.
Tôi viết Izu no odoriko một
cách trôi chảy. Duy có một vấn đề làm tôi hơi lúng túng
là không biết có nên nói tới chứng bệnh này không. Nếu
tôi viết nó ra, có lẽ Izu no odoriko đã biến thành một tác
phẩm khác đi một chút.
Tuy không hề có ác ý nhưng
không hiểu sao cái chứng viêm nhọt kia đã gây ấn tượng
mạnh mẽ và bám theo tôi không thua gì vệt son đỏ nằm ở
đuôi mắt cô đào. Bà mẹ thì bẩn. Con mắt, cái miệng của
cô đào và đường nét trên khuôn mặt tuy đẹp một cách
khác thường nhưng mũi có hơi nhỏ. Tôi không viết ra những
điều ấy làm chi vì tôi thấy nó không đáng nói. Duy cái
chứng viêm làm chân họ sưng phồng là điều mà 4, 5 hôm liền,
tôi suy nghĩ cả đêm đến sáng, nhức cả đầu mà không biết
có nên viết về nó hay không. Nếu viết ra chắc tôi sẽ hối
hận, còn như không viết thì tôi sẽ bị hình ảnh viêm nhọt
bám theo làm cho nhức đầu. Con người ta thật lạ, nơi họ
có cái làm mình ghê tởm nhưng cũng có cái làm mình yêu mến.
Tôi bảo tôi và họ có "trao
đổi thư từ" thì cũng là nói quá lời.Chỉ có ông anh cô
đào gửi cho tôi hai, ba tấm bưu thiếp thôi. Phía họ tin chắc
như bắp là tôi sẽ ra đảo Ôshima, ông anh viết rằng đến
Tết sẽ có diễn tuồng và yêu cầu tôi xuống giúp. Lúc chia
tay ở Shimoda, tôi cũng tin chắc là vào dịp nghỉ Đông, tôi
sẽ ra đảo Ô shima để gặp lại họ.Thế nhưng vì không
có tiền nên tôi đã bãi bỏ dự định. Nếu tôi cố gắng
thì cũng sẽ tạo được dịp đấy nhưng tôi đã không thử
cố gắng. Sau đó, tôi nhớ là tôi có nhận được bưu thiếp
cho biết họ đã lên Tôkyô để múa vào dịp lễ thưởng
hoa ở Asukayama [29].
Thế nhưng họ chỉ gửi bưu thiếp cho tôi sau khi đã về đến
đảo.
Trong số các trứ tác của
tôi, Izu no odoriko là tác phẩm được độc giả yêu mến nhất
nhưng đối với tác giả của nó thì vẫn có chỗ chưa được
bằng lòng. Tôi muốn bảo rằng hai tác phẩm Haru keishiki (Phong
cảnh mùa xuân) và Onsen yado (Nhà trọ suối nước nóng) đáng
được yêu chuộng hơn. Tuy nhiên, gần đây, lâu ngày đọc
lại Izu no odoriko nhân nó được chọn vào Hosokawa tùng thư
(?), tác giả mới có dịp đối mặt với tác phẩm của mình
một cách trung thực.
K.Y.
Tư liệu tham khảo:
1. Kawabata Yasunari, Izu no odoriko,
Vũ Thư Thanh dịch thành Cô đào miền Izu đăng trên số báo
Văn, số ngày 15 tháng 10 năm 1969. Bản chụp ảnh do hai nhà
giáo Nguyễn Nam và Đào Lê Na gửi tặng.
2. Kawabata Yasunari, Izu no odoriko,
trong Tuyển tập 7 truyện ngắn cùng tên của Kawabata, Sôryuusha
(Sáng Long Xã) , Tôkyô xuất bản, 1980. Nguyên tác Nhật ngữ.
3. Kawabata Yasunari, Izu no odoriko,
trong Tuyển tập 8 truyện ngắn cùng tên của Kawabata (có phần
bình luận, thuyết minh của tác giả và niên biểu sáng
tác), Kadokawa Bunko, Tôkyô, sơ bản 1951, bản sử dụng: 1992.
Kawabata Yasunari, Izu no odoriko,
Sylvie Regnault Gatier và Suematsu Hisashi dịch sang Pháp văn (La
Danseuse d’Izu) trong Tuyển tập nhan đề Kawabata, Romans et Nouvelles,
La
Pochothèque, Livres de Poche xuất bản, Paris , 1997.
___________ |
[1]
- Sam là tên Hán của cây Sugi (tuyết tùng, Japanese cedar)
[2]
-Kasuri: Một thứ áo kimono may bằng vải dày, thường là vải
xanh đậm có điểm chấm trắng.. .
[3]
- Hakama: Một thứ khố để mặc ra ngoài kimono của đàn ông
trong những dịp cần ăn mặc đứng đắn.
[4]
- Hoo-no-ki (phác), một loại cây họ mokuren (magnolia) hay được
dùng để làm dụng cụ, bàn tủ vv
[5]
- Ê: một tán thán từ như những chữ
ừ hay dạ
của tiếng Việt thay cho lời cảm ơn.
[6]
- Lý: khoảng hơn 3, 9 km nhưng nói theo kiểu xưa thì chỉ có
700m.
[7]
- Cửa chướng tử (shôji): trong một căn nhà Nhật, các buồng
được ngăn bằng những cửa kéo dán giấy bản hoặc giấy
bồi. Riêng những cửa không phải ngăn giữa các buồng mà
thông với bên ngoài, để che cho mưa khỏi làm hư giấy còn
có lớp cửa kéo khác bằng ván mỏng hay bằng tôn gọi là
cửa che mưa. Tiếng Nhật hai thứ cửa này lần lượt là shôji
và amado.
[8]
- Chô: khoảng 109 mét.
[9]
- Ken: Nếu là đơn vị đo chiều dài thì ken = 1, 818 m. Mươi
ken = khoảng 20m
[10]
- Nhà trọ bình dân (Kichinyado) giá rẻ hoặc lấy vật dụng
(củi, gạo) thay cho tiền phòng..
[11]
- Tenugui: vuông khăn có thể sử dụng nhiều cách như lau mặt
hay đi tắm.
[12]
- Trường tầm thường (Jinjô), ý nói giáo dục cơ sở (nghĩa
vụ) trong chế độ giáo dục Nhật trước Thế chiến thứ
hai và tương đương với bậcTiểu học bây giờ.
[13]
- Shamisen: một thứ đàn giống như đàn tam (đàn ba dây) của
ta.
[14]
- Kỳ: một lối đánh cờ của Trung Hoa truyền sang Nhật và
thành phổ thông. Trên thế giới, cờ này được gọi là cờ
"go" hay cờ vây. Cờ được đánh trên một bàn vuông, mỗi
chiều gồm 18 ô và định thắng thua theo đất ô trống vây
chiếm được. Lối chơi rất giản dị nhưng chơi cho cao hết
sức khó.
[15]
- Cờ tướng của Nhật (Shôgi).
[16]
- Chơi sắp năm: dịch chữ gomokunarabe, một thứ cờ ca rô
nhưng không được đánh hai nước ba mà phải nước ba-bốn
hay bốn bốn mới được.
[17]
- Tân kịch (Shingeki, Shimpa), biến thể của nhà hát Kabuki,
có thể xem như tuồng cải lương.
[18]
- Phong tục cọ lưng hộ người khác (vì là chỗ tự mình
thì khó đưa tay chạm tới) trong phòng tắm là chuyện thường
thấy ở Nhật
[19]
- Dao (utai): Khúc hát trong khi diễn tuồng Nô.
[20]
- Yaoya : ý nói người bá nghệ, làm đủ mọi thứ.
[21]
- Truyện dã sử về những cuộc du hành diệt trừ tham quan
ô lại của ông phó Shôgun tên Tokugawa Mitsukuni (tức Mito Kômon).
[22]
- Tục lệ Nhật Bản sắp xếp bằng cách quay đầu guốc lại
cho người vào nhà để tiện cho họ lúc ra về.
[23]
- Hanami: Hội thưởng hoa anh đào khoảng đầu tháng 4.
[24]
- Lược vòng = lược hình bán nguyệt thường được cài trên
búi tóc.
[25]
- Trường Ichi-kô: Nguyên là Dai-ichi Kôtô Gakkô (Đệ nhất
cao đẳng học hiệu), là trường nổi tiếng nhất ở Nhật
như trường Bưởi của ta thời tiền chiến. Trường này là
một phân bộ dạy những sinh viên trong mấy năm đầu của
trường Đông Kinh đại học.
[26]
- Nori: rong biển Nhật sấy khô.
[27]
- Đây là bộ phim Izu no odori đầu tiên. Hãy còn 5 bộ tiếp
theo với những nữ diễn viên thuộc các thế hệ sau như Yoshinaga
Sayuri (1963), Naitô Yôko (1967) và Yamaguchi Momoe (1974) vv...
[28]
- Áo khoác không cài khuy kiểu Nhật, giống như áo bông, người
lao động thường mặc để phòng lạnh.
[29]
- Một vùng đồi ở nội thành,thời Edo là địa điểm thưởng
hoa (hanami) có tiếng. Nay đã trở thành công viên. |
|