Ông
Wakasugi Kouzo, thẩm phán tòa hình sự ở địa phương nọ khi
còn trẻ là một con chiên rất sùng đạo.
Nhưng hiện nay ông không còn
theo đạo. Không ai còn nhận ra là ông thẩm phán Wakasugi đạo
mạo trong bộ áo quan tòa ở pháp đình ấy, thời tuổi trẻ
đã từng hết lòng mộ đạo. Tuy thế, cũng giống như thương
tích của các cuộc so gươm nẩy lửa ở tuổi thanh xuân đầy
nhuệ khí của các sinh viên người Đức vẫn còn sót lại
giữa những nếp nhăn trên gương nặt già nua, sau khi họ đã
trở thành quan chức chính phủ và giờ chỉ còn là người
công bộc già yếu.
Dấu vết đó không gì khác
hơn là ở chỗ thẩm phán Wakasugi tỏ ra có một sự cảm thông
sâu xa đối với tội nhân. Nhất là nếu thấy tội nhân tỏ
ra hối hận, dù chỉ đôi chút về tội mình đã phạm, có
vẻ như đã ăn năn, thì ông thẩm phán liền tuyên án rất
bao dung đến độ công tố viên cũng không ngờ. Dĩ nhiên là
trong trường hợp này, nhất định là công tố viên thụ lý
vụ án ấy sẽ kháng nghị. Có khi kháng nghị cũng bị phủ
quyết, nhưng đôi khi trái lại, tòa trên bác bỏ phán quyết
của tòa dưới và tuyên án còn nặng hơn.
Đối với các vị thẩm phán,
việc phán quyết của mình bị bác bỏ là điều vốn không
vinh dự chút nào. Nhưng dù thế đi nữa, các phán quyết của
thẩm phán Wakasugi bao giờ cũng quá đỗi bao dung.
Hễ biết được là thẩm phán
Wakasugi sẽ xét xử, các bị cáo đều mừng rỡ đến muốn
nhẩy cẫng lên được.
Ở đời, chỉ trừ những người
hết sức độc ác làm người ta phải rùng mình kinh hãi, còn
thì hầu hết mọi người chẳng ai có ý muốn phản đối
khi thấy bị cáo được tòa tuyên án khoan hồng. Nếu bị
cáo ít nhiều có điểm nào khiến người ta cảm thông được,
thì bản án càng nhẹ người ta càng có cảm giác khoan khoái
là khác. Hơn nữa, những người có ít nhiều quen biết với
bị cáo thì người ta vui mừng cũng là chuyện đương nhiên.
Cũng vì vậy, cũng không gì lạ là không biết từ bao giờ
thẩm phán Wakasugi đã trở thành vị quan tòa nổi tiếng.
Tất nhiên, suy nghĩ về tội
phạm của thẩm phán Wakasugi hoàn toàn khác với các vị thẩm
phán bình thường khác là chuyện đương nhiên. Có thể nói
rằng ông hoàn toàn không phải là mẫu người để làm nghề
thẩm phán. Là vị quan tòa mặt mày nghiêm nghị trong bầu
không khí nặng nề u ám của tòa án, nhưng ông lại là người
tinh tế, đa cảm quá. Thực sự là chính ông vốn cũng không
một mảy may nào có ý muốn theo học ngành luật. Khi còn học
trung học đệ nhị cấp ở Tokyo, ông đã theo ban Văn, hơn
nữa còn muốn đi vào ngành Triết học. Dường như là ông
có ý muốn trong tương lai sẽ trở thành nhà giáo. Tất nhiên,
nếu là nhà giáo, ông muốn trở thành một nhà giáo chân chính
có sức gây được ảnh hưởng về mặt tinh thần đối với
mọi người. Thế nhưng tại sao Wakasugi đã quyết chí trở
thành nhà giáo, mà sau lại đổi sang ngành luật. Đó là vì
có hai nguyên nhân. Một là vì bạn đồng song mà ông rất
nể phục là Morita bỗng quyết định không theo ban Văn mà
chuyển sang ban Luật. Nghe đâu là cậu Morita này là người
luôn đứng đầu ban Văn trong suốt cả năm, nhưng đến lúc
còn độ nửa năm nữa là ra trường, thì người anh ruột
của cậu ta bảo "Học ban Văn thì sau này không sống nổi.
Hay là hãy dứt khoát mà đổi sang khoa Luật đi xem nào." Thực
tế là bấy giờ, thấy có nhiều trường hợp cụ thể ở
ban Văn tốt nghiệp ra sống rất vất vả, nên một người
rất thông minh như Morita liền quyết định đổi sang ban Luật.
Bạn Morita có thành tích học tập tốt hơn, sở học cũng
nhiều, nay vì lo cho sinh kế trong tương lai mà chuyển ban, thì
Wakasugi lúc bấy giờ cũng phải dứt khoát đồng ý theo.
Hơn nữa, Wakasugi còn gặp một
chuyện như sau. Nghe đâu là đúng vào lúc đang học lớp đệ
nhị, một đêm nọ Wakasugi đang trên dốc Tomizaka từ phố
Kasuga đi về phía chùa Dentsu-in. Khi đi lên được chừng nửa
con dốc, thì thấy có hai ba người đứng xúm xít trước của
hiệu sữa ở bên phải đường đi lên dốc. Không biết có
chuyện gì, Wakasugi bèn đứng lại, thì từ trong hiệu sữa
có một người đàn ông lực lưỡng trông như bọn thợ thuyền
đang giải các ông ăn mặc chỉnh tề mà tay thì bị trói lại,
đi ra. Tưởng rằng chỉ có thế, nhưng nào ngờ sau đó có
đến mấy tốp người như vậy đi ra. Tốp nào cũng thế,
người trói có vẻ là người lao động, còn người bị trói
là các vị ăn mặc chỉnh tề, nên trông rất kỳ quặc. Bây
giờ nghĩ lại thì đó là các vị này đã sa chân vào chỗ
cờ bạc nên cũng chẳng có gì lạ. Nhưng Wakasugi bấy giờ
chưa từng trải chuyện đời, trông thấy thế thì quá đỗi
ngạc nhiên, cứ ngẩn người ra. Đúng lúc ấy có một cậu
thanh niên tiến đến trước mặt Wakasugi. Dường như cậu
thanh niên này còn ít từng trải hơn cả Wakasugi, cậu ta cũng
không hiểu gì về sự việc đang diễn ra trước mắt, nên
đã tiến lại gần cửa vào hiệu sữa mà dòm vào trong nhà.
Bấy giờ dường như không còn kẻ tội phạm nào để trói,
một người đàn ông cũng có dáng dấp thợ thuyền, đi tay
không từ trong hiệu sữa ra, thấy người thanh niên đứng
chắn ở cửa vào làm vướng chân mình thì quát bảo "Tránh
ra! Xem cái gì hả?" Chẳng những thế, anh ta còn hùng hổ đẩy
người thanh niên phải lùi lại. Đương nhiên là cậu thanh
niên này không biết rằng đó là viên cảnh sát, là hạng
người nắm trong tay một thứ quyền lực mà cậu ta không
có. Cậu vừa quát "Làm cái gì thế!", vừa xấn xổ xông vào
viên cảnh sát.
Tức thì, viên cảnh sát ấy
vừa quát lại "Cái gì! Chống hả? Muốn chống thì hãy tới
đồn cảnh sát!" vừa hung hãn trói quặt cậu thanh niên lại.
Chắc hẳn là trong khi những người đồng sự đều giải
được con mồi tóm được đem về, chỉ có mỗi mình anh ta
là ra về tay không, nên viên cảnh sát này cảm thấy hơi khó
chịu. Vì vậy, nên có lẽ anh ta mới nẩy ra cái tà ý là
hãy cứ trói một người giải về đồn đã, bất kể đó
là ai,
Cậu thanh niên nhận ra đó
là viên cảnh sát thì hơi lúng túng, thế nhưng cậu ta cũng
cố kháng cự lại. Nhưng viên cảnh sát có sức lực hơn,
không khó khăn gì để trói cánh tay phải của cậu thanh niên
lại, cuối cùng anh ta đã lôi cậu thanh niên đi đấy là gì.
Chắc là anh ta định bụng sẽ gán cho cậu thanh niên tội
danh "Gây trở ngại cho việc thi hành công vụ", hay thế nào
cũng được, miễn là lôi được cậu ta về đồn cảnh sát.
Hơn nữa, lôi cậu thanh niên đi được một quãng cách chỗ
Wakasugi và một vài người đang đứng đấy chừng mấy mét,
hình như viên cảnh sát còn tát cậu thanh niên hai ba cái, đến
nghe được cả tiếng tát. Có lẽ theo thể chế đã tiến
bộ như hiện nay, hẳn là cảnh sát thời nay không còn hành
hung như viên cảnh sát này. Nhưng vào thời Wakasugi còn học
trung học, tức là mười mấy năm trước đây, rõ ràng là
cảnh sát vẫn làm như vậy.
Đang ở tuổi thanh niên đa
cảm, không lạ gì là Wakasugi thấy vậy đã tức giận đến
tột độ. Nhân quyền bị hủy hoại, con người bị nhục
mạ. Người coi trọng chính nghĩa như Wakasugi bất bình quá,
đến nổi cả da gà. Và toàn thân run rẩy kinh hãi, vì thấy
quyền lực quốc gia bị bọn người man rợ lạm dụng đến
như thế.
Tối hôm ấy, về đến cư
xá rồi Wakasugi vẫn không nguôi được lòng căm phẫn trước
hành vi bất chính của viên cảnh sát. Đi nằm rồi, Wakasugi
vẫn còn thao thức mãi. Lúc ấy trong lòng Wakasugi chợt nẩy
ra ý nghĩ sau này sẽ học Luật, để dùng lời lẽ khẳng
khái cương trực mà biện hộ cho những người vô tội.
Nguyên nhân sâu xa khiến Wakasugi
chọn ngành Luật hẳn là từ đó. Nhưng nguyên nhân trực tiếp
có lẽ là vì bạn Morita mà cậu vẫn nể phục bỗng bỏ ngang
ban Văn mà chuyển sang học Luật. Thời bấy giờ chưa có tình
trạng sinh viên khoa Luật quá đông như hiện nay, nên việc
đổi sang học Luật cũng dễ dàng. Nhưng lẽ ra sẽ trở thành
luật sư, xong Wakasugi thấy nghề thầy cãi có vẻ phàm tục
và thực tế quá nên không thích, do đó ngay trước khi ra trường,
cậu đã đổi ý mà trở thành công chức ngành tư pháp.
Với lý lịch như thế, so với
các vị thẩm phán thông thường khác, thẩm phán Wakasugi là
người hướng nội, nhân đạo hơn, nên ông không hề có cái
tật coi kẻ ác hay tội nhân là tạo vật khác với người
bình thường, thì cũng là điều đương nhiên. Ngoài ra, quan
niệm về tội lỗi của ông Wakasugi đa phần chịu ảnh hưởng
của Thiên Chúa giáo, theo đó có thể thấy động cơ đưa
đến mọi hành vi phạm tội đều là thuộc tính của con người,
vậy thì làm sao ta có thể hoàn toàn ghét bỏ tội nhân được.
Máu chảy trong huyết quản của tội nhân có khác gì với
máu chảy trong huyết quản của ta đâu, quan niệm quá đỗi
nhân đạo như thế nơi một vị thẩm phán có lẽ luôn có
tác động tâm lý đến ông khi đưa ra phán quyết. Một tình
cảm khác nữa cũng có tác động tâm lý đối với ông Wakasugi,
đó là bằng bất cứ giá nào, ông nhất quyết không để
cho có người bị tội oan. Về chuyện xét xử ở tòa, người
ta hay nhắc đến câu cách ngôn như một điều răn rằng
"Dù tha nhầm chín người có
tội, cũng đừng kết tội oan một người ". Có lẽ điều
răn này luôn tác động mạnh đến những suy tư trong lòng
ông Wakasugi.
Nói cách khác, các phán quyết
của thẩm phán Wakasugi rất đỗi bao dung có lẽ cũng là kết
quả đương nhiên, từ phẩm cách nhân đạo của vị thẩm
phán này.
Tuy thế, thỉnh thoảng không
phải là không có trường hợp thẩm phán Wakasugi cũng bị
chỉ trích là quá bao dung mà quên rằng cũng cần phải có
hình phạt. Nhưng, ngay cả những người đã từng phê phán
ông như thế, khi biết được rằng nhân cách của thẩm phán
Wakasugi đã hình thành trên nền tảng sâu xa của một lý tưởng
rất vững chãi, thì chẳng bao lâu họ cũng quên hẳn và không
còn chỉ trích ông nữa.
Trong những phán quyết của
thẩm phán Wakasugi có không biết bao nhiêu bản án rõ rệt
là đã được suy xét thấu đáo đến cả về tình, và đầy
sự cảm thông.
Một trong những vụ án khiến
thẩm phán Wakasugi nổi tiếng, là trường hợp người anh phóng
đãng thường hay vòi tiền cha mình cuối cùng bị cha từ chối,
đã tức giận cầm gậy đánh cha, khiến người em cũng có
mặt ở đấy đã đập một gậy làm anh lăn ra chết. Nếu
là những vị thẩm phán thông thường thì cho dù cảm thông
mà thương tình cho bị cáo, nhưng cái tội danh "giết thân
tộc bề trên mình" khiến vị quan tòa dù độ lượng đến
đâu chăng nữa, có lẽ cũng tuyên án tù 5 năm. Thế nhưng
đồng thời với án tù 5 năm trừng phạt tội đã gây ra,
thẩm phán Wakasugi đã không quên cho tội nhân được hưởng
ân huệ tù treo.
Bị cáo này đã được đến
150 người làng- đứng đầu là ông trưởng thôn- ký thỉnh
nguyện thư xin tha tội, nên khi nghe tuyên án, đương sự và
cả làng ai nấy đều nhẩy múa vì vui mừng.
Nếu đã kể ra vụ này, thì
còn mấy vụ nữa cũng đáng kể. Thẩm phán Wakasugi đã tận
dụng tối đa ân huệ án tù treo, có thể gọi đấy là những
giọt lệ hình sự chan tình người vào công việc vận hành
pháp luật vốn có tính cách máy móc, và chắc hẳn là đối
với quan tòa thì đó cũng là một điều thú vị.
Vì thế, trong thành phố nọ
với dân số trên năm vạn người, hễ nói đến thẩm phán
Wakasugi thì đó là vị thẩm phán danh tiếng, tiếng tăm lẫy
lừng.
Thế nhưng đúng vào thời điểm
danh tiếng ông Wakasugi lên đến tột đỉnh, đã xẩy ra câu
chuyện sắp kể sau đây. Có lẽ ai cũng đã từng một vài
lần đọc thấy trên báo địa phương, là ở vùng Kansai thỉnh
thoảng lại xẩy ra một vụ đạo tặc Zigoma mà thủ phạm
là học sinh trung học đệ nhất cấp. Đây là một yếu tố
khiến cho các bậc thức giả vin vào đấy mà phê phán phim
ảnh, cho rằng đó là do ảnh hưởng xấu của phim ảnh. Vừa
đúng lúc ấy, ở địa phương nọ cũng xẩy ra một vụ Zigoma
học sinh, đã thu hút sự chú mục của dân chúng trong vùng.
Hơn nữa, bị can là một học sinh ưu tú đang làm trưởng
lớp, lại thêm mặt mày trắng trẻo khôi ngô tuấn tú, nên
không lạ gì là mọi người đều rất đỗi kinh ngạc.
Cách phạm tội thì cũng rập
khuôn, đó là cậu thiếu niên đã gửi thư hăm dọa một nhà
phú hộ ở ngoài thành phố, nội dung dài dòng đại khái là
"Đến tối ngày mấy tháng mấy phải đem 200 yên- gói trong
giấy báo - để ở dưới cổng đền Hachiman. Nếu không, sẽ
bị ném bom nổ thiêu rụi cả nhà". Nhà ấy cho đây chỉ là
trò nghịch ngợm ác ý, nên mặc kệ không thèm để ý, thì
mới kinh ngạc làm sao là vào tối hôm trước ngày giao hẹn
trong thư, trước cổng nhà phú hộ ấy nghe có tiếng nổ thật
lớn. Tuy nhiên, cũng có thể đây chỉ là chi tiết do báo chí
thêm thắt vào bản tin. Vì cậu thiếu niên thủ phạm khai
rằng cậu đã ném cùng một lúc cả ba quả pháo lớn, nên
sự thực là tiếng nổ cũng không lớn lắm đâu. Vì có thư
hăm dọa, nên nghe đâu cả gia đình nhà phú hộ cũng có thắc
thỏm, nên khi nghe thấy tiếng nổ thì sợ xanh cả mặt- chi
tiết này thì hẳn không phải là do người kể chuyện thêm
thắt vào-. Nếu bỏ qua sẽ thành chuyện lớn, nên nhà ấy
liền tức tốc sai người đến sở cảnh sát khai báo đầu
đuôi sự việc từ khi có thư hăm dọa gửi đến. Đã lâu
ngày không có án mạng nào xảy ra, cảnh sát đang khổ sở
vì nhàn rỗi chẳng có việc để làm, nên nghe khai báo thì
như có làn sinh khí thổi vào, hớn hở bắt tay ngay vào việc.
Đến ngày giờ hẹn, do thủ phạm đã định, tức là vào
đêm hôm sau đó, trưởng ty cảnh sát cùng một viên chức
và sáu nhân viên dưới quyền, tất cả đều cải trang, đến
vây quanh khu rừng có đền thờ, trong đó có hai viên cảnh
sát- một người có võ nhu đạo bậc sơ cấp và một người
đấu kiếm bậc đệ tam cấp-, tới nấp sẵn trong bóng của
cổng đền. Và rồi một gói giấy báo trông như thể là bọc
tiền đã được đặt ngay dưới chiếc cổng ấy.
Tối hôm ấy là một đêm trăng
đẹp, đẹp đến nỗi làm cho các viên cảnh sát đợi đạo
tặc Zigoma xuất hiện cũng phải thấy nao lòng. Họ đã đợi,
đợi mãi đến sắp phát chán, thì đúng lúc ấy có một người
đàn ông choàng áo khoác, nhanh thoăn thoắt bước lên con đường
dốc thoai thoải đi lên đền. Các viên cảnh sát nín thở
thủ thế chờ xem người ấy có hành vi nào khả nghi thì sẽ
xông ra. Tức thì người ấy đến dưới cổng đền, dừng
chân lại, nhìn quanh một vòng, rồi, chẳng phải là hắn đã
khẽ cầm bọc giấy báo ấy lên, dù trong bóng đêm cũng thấy
rõ đấy là gì. Nhanh như ánh đèn điện bật sáng, viên cảnh
sát có võ nhu đạo nhẩy ra như thể sư tử vồ mồi. Anh ta
nhẩy chồm ra tưởng chừng sẽ phải một phen quần thảo
ghê gớm lắm, nhưng không ngờ là cánh tay vạm vỡ của người
cảnh sát đã chạm vào một thân mình mảnh mai như của nữ
nhi. Theo tiếng còi của viên cảnh sát có kiếm thuật, năm
người cảnh sát khác dưới quyền trưởng ty cùng xông vào,
nhưng khi thoạt trông thấy cậu thiếu niên này, mọi người
đã phải nhìn nhau ngơ ngác.
Thế nhưng, cậu thiếu niên
yếu đuối ấy quả đúng là thủ phạm của vụ hăm dọa
hụt này.
Khỏi phải nói là cậu thiếu
niên này đã bị dư luận bàn tán rất xôn xao và đang chờ
ngày ra tòa. Nhìn chung, vì còn là trẻ vị thành niên nên lẽ
ra sẽ được xem là tội nhẹ mà không bị giam cầm, nhưng
việc thực sự dùng đạn pháo hăm dọa đã đem lại hậu
quả rất bất lợi cho cậu.
Tuy nhiên cho dù cậu có bị
kết tội trong phiên tòa dự bị và sẽ bị đưa ra xét xử
chăng nữa, những người tỏ ra thông cảm với cậu vẫn còn
hy vọng. Là vì người xét xử sẽ là thẩm phán Wakasugi, họ
nghĩ không đời nào mà quan thẩm phán lại xử cậu thiếu
niên phải bị án ngồi tù.
Tòa đã mở phiên xử đầu
tiên. Trong phần chất vấn mở đầu của thẩm phán Wakasugi,
ông đã tỏ ra rất cảm thông với bị cáo. Cậu thiếu niên
bị cáo cũng dõng dạc khai đúng tội của mình. Có lúc quan
thẩm phán cũng phải ngao ngán vì sự táo bạo của cậu ta.
Sự thực có lẽ là cũng giống như các cậu thiếu niên thích
mạo hiểm thường hành động liều lĩnh, rồi cứ thế mà
phạm tội lúc nào không biết.
Tóm lại, đây chỉ là khuynh
hướng mơ mộng đặc biệt thường thấy ở tuổi thiếu niên,
nhưng rồi đương sự đã lỡ sai đường lạc lối. Thẩm
phán Wakasugi thừa hiểu tâm lý thanh thiếu niên và thông cảm
được. Vì vậy khi nghe công tố viên trong phiên tòa này nghiêm
khắc luận tội, mà tỏ ra không hiểu chút nào về tâm lý
thanh thiếu niên, trong lòng ông đã cảm thấy không thể nào
đồng ý được.
Trước khi nghe lời biện hộ
thật hùng hồn của luật sư, dường như trong thâm tâm, quan
thẩm phán đã định bụng sẽ ban án tù treo. Luật sư trổ
tài biện hộ trong gần hai giờ đồng hồ. Bài hùng biện
của luật sư nhấn mạnh đâu như là ở chỗ cái tội mà
cậu thiếu niên đã phạm không phải là lỗi ở cậu, mà
là lỗi ở xã hội.
Hay nói cách khác, chủ đích
của bài hùng biện là muốn nói rằng đó là tội của các
nhà giáo dục và phim ảnh. Thực ra dưới mắt của quan thẩm
phán, nhìn cậu thiếu niên mặt xanh rờn đang thành khẩn chờ
đợi, có lẽ chẳng ai mà không động lòng thương. Cậu thiếu
niên có khuôn mặt tròn trắng trẻo trông thật dễ có cảm
tình. Người ta không khỏi có ý nghĩ cho rằng, chẳng qua đấy
chỉ là trò đùa nghịch của thiếu niên đã bị cảnh sát
phóng đại lên, tạo thành một vụ hăm dọa tống tiền.
Lúc ấy thẩm phán Wakasugi vừa
nghe luật sư hùng biện mà vừa hồi tưởng lại thời niên
thiếu của chính mình. Thế rồi ông nhớ rõ mồn một cái
lần bị đứa bạn tinh nghịch bày trò ban đêm lẻn vào ăn
trộm trong vườn táo nhà hàng xóm. Đó là một sự mạo hiểm
khá lãng mạn khiến cậu cảm thấy rất thích thú. Theo kiến
giải của luật pháp thì hiển nhiên đó là một vụ trộm
cắp ngoài trời. Thế nhưng, nếu mọi trò nghịch ngợm tự
do phóng khoáng có tính cách mạo hiểm ở tuổi trẻ đều
bị coi là có tội, thì liệu là có chính đáng hay không. Thực
sự là trong lòng thẩm phán Wakasugi đã đầy ắp sự cảm
thông đối với cậu thiếu niên này. Và dĩ nhiên là việc
cậu là học sinh giỏi lại làm trưởng lớp cũng khiến quan
thẩm phán có cảm tình chứ chẳng không.
Phiên tòa hôm ấy bế mạc,
và ngày tuyên án sẽ là Thứ Hai tới đây.
Các số báo ra ngày hôm sau
tường thuật lại quang cảnh ở pháp đình đã dự đoán như
thể là một điều chắc chắn rằng cậu thiếu niên đáng
được hưởng án tù treo. Những người cảm thông với cậu
thiếu niên cũng tin là thế mà không chút nghi ngờ.
Thế rồi vào tối Thứ Sáu,
tức là ba hôm trước Thứ Hai, ngày sẽ đưa ra phán quyết,
tình cờ có một sự việc đã xẩy ra cho thẩm phán Wakasugi.
Số là vào tối hôm Thứ Sáu,
hôm ấy lại nhằm vào một ngày nào đó trong tháng ba, là
lúc ở nhà thẩm phán Wakasugi, vợ ông mới sinh con xong còn
đang ở cữ. Bà đã sinh ba cậu con trai, nhưng vì lần này
trở dạ lâu lắm mới sinh được, nên sinh xong thì bị yếu
vì mất sức, ai trông thấy cũng phải ái ngại giùm. Các cậu
bé thường vẫn còn nô đùa cho đến khuya, xong hôm ấy trời
mới tối đã bị bắt phải đi ngủ. Chỉ còn thẩm phán Wakasugi
là vừa thỉnh thoảng đánh tiếng hỏi thăm vợ nằm ở gian
phòng bên cạnh, vừa đọc sách trong thư phòng mãi đến tận
khoảng 12 giờ đêm. Khi đồng hồ vừa điểm 12 tiếng, quan
thẩm phán đi nghỉ trên bộ nệm mà cô giúp việc đã trải
trong phòng. Ông đánh tiếng hỏi thăm vợ ở phòng bên cạnh,
nhưng dường như người vợ đã say ngủ nên không nghe có
tiếng trả lời.
Khoảng vài giờ đồng hồ
trôi qua, thẩm phán Wakasugi chợt thức giấc, bỗng nghe có
tiếng lục cục trong phòng khách bên cạnh phòng của vợ ông.
Ông đoán là lũ chuột chạy trên kệ trong phòng khách, nên
nhắm mắt lại ngủ tiếp, nhưng tiếng động ấy vẫn kêu
lục cục mãi.
Ông Wakasugi nghĩ bụng, ngày
thường lũ chuột có khi nào phá phách trong phòng khách đâu
nhỉ, rồi mãi sau đó mới chợt hiểu ra nguyên nhân. Đó là
vì trên kệ có để nhiều hộp bánh và giỏ hoa quả làm quà
thăm sản phụ cho vợ ông. Khi nghĩ ra điều đó, ông định
đánh tiếng đuổi chuột, nhưng rồi lại e làm vợ đang ngủ
ở phòng bên cạnh sẽ giật mình, ông bèn nhỏm dậy, choàng
chiếc áo khoác gập để bên gối, và bật đèn điện đã
tắt khi đi ngủ. Ông đi rón rén để khỏi làm vợ thức giấc,
bước về phía phòng khách, và mở cửa phòng ra. Qua cánh cửa
đã được mở ra, ánh đèn trong thư phòng chiếu sang căn phòng
bên cạnh nhưng chỉ soi sáng được một khoảng ở giữa phòng.
Ông không nghĩ ngợi gì cả, cứ thế bước vào phòng bên
cạnh, nhưng chỉ trong khoảnh khắc, một tình huống bất thường
đã xảy ra ở góc phòng, phía có kê chiếc tủ khiến ánh
sáng đèn điện không soi tới.
Có người, có kẻ trộm! Như
bị điện giật, thẩm phán Wakasugi đứng sững lại. Tức
thì trong bóng tối, một gã đàn ông to lớn vạm vỡ hiện
ra sừng sững trước mặt ông. Cho đến nay, thẩm phán Wakasugi
đã thấy không biết bao nhiêu là những tên trộm hay kẻ cướp,
kẻ sát nhân khúm núm đứng sau vành móng ngựa. Họ thường
cúi gầm đầu xuống, có vẻ thành khẩn và dúm dó.
Nhưng tối hôm ấy đứng trước
mặt ông là tên trộm thực sự, là hạng người không hiền
lành chút nào cả. Bị bắt quả tang, tên trộm lại có vẻ
hung tợn. Tương quan lực lượng ở đây không phải là giữa
quan tòa với bị cáo, mà là sự đọ sức không lường trước
được giữa hai con người hoàn toàn xa lạ với nhau. Một
giây, hai giây, rồi ba giây, tên trộm không động đậy, ông
Wakasugi cũng đứng yên. Ông cảm thấy một cảm giác khó chịu
như toàn thân bị đè xuống. Nhưng trong lúc như thế, lý trí
của ông đã cố hết sức tìm một cách đối phó tốt nhất.
Vì thể diện đàn ông cũng có, để giữ oai phong của một
vị thẩm phán cũng có, ít nhất cũng phải bắt tên trộm.
Thế nhưng, nghĩ đến việc tiếng vật lộn khủng khiếp sẽ
làm kinh động người vợ bị hậu sản, và lại thêm sự
kinh hoàng và nguy hiểm sẽ gây ra cho ba đứa con yêu thơ dại
đang ngủ trong căn phòng ở bên kia phòng khách, ông không thể
nào đưa tay ra được.
Ông còn nghĩ cả đến việc
đưa cho tên trộm này một món tiền lớn và bảo hắn cứ
thế rút lui đi cho là khác, nhưng làm thế thì còn gì là oai
phong của một vị thẩm phán. Đúng lúc đó, ý tưởng " Hãy
để cho tên trộm chạy thoát" bỗng lóe lên trong đầu ông,
Ông bèn vừa lùi lại hai ba bước đề phòng tên trộm có
thể bất ngờ tấn công, vừa lấy hết sức bình sinh ra hét
thật to, nhưng nào hay là tiếng hét ấy đã đem lại một
hậu quả không ngờ. Tiếng hét của ông chưa dứt, vợ ông
nghe tiếng hét của chồng ở phòng bên đã hoảng sợ mà kêu
rú lên. Đồng thời ba đứa con yêu ở bên kia phòng khách
cũng giật mình khóc toáng cả lên.
Tên trộm có vẻ như giật
mình vì tiếng kêu của năm người vợ chồng con cái nhà này,
nên biến mất lúc nào không hay. Và dĩ nhiên là hắn không
lấy trộm một thứ nào cả.
Thế nhưng, vợ ông Wakasugi
trong người đang yếu, lại bị kinh động như thế, nên chả
trách mà bỗng bị sốt cao. Sáng hôm sau, thân nhiệt lên đến
gần 40 độ và cứ thế nóng sốt suốt cả ngày. Hơn nữa,
bà rất dễ bị kích động, chỉ một tiếng động nhỏ cũng
đủ khiến bà run sợ. Bác sĩ riêng chữa bệnh cho bà còn
bắt đầu cảm thấy lo ngại cho cả mạng sống của bà nữa.
Lại thêm, ba đứa con yêu của ông từ đêm xảy ra vụ trộm
đã trở thành những đứa bé nhút nhát hay sợ sệt.
Bản thân ông Wakasugi cũng vẫn
còn bị ám ảnh bởi cái cảm giác bất an nặng trĩu khó chịu
đến ngạt thở, trong giây phút đã phải đối mặt với kẻ
trộm.
Ông Wakasugi vừa nhớ lại rõ
mồn một trong đầu cái cảm giác khó chịu vì bị trộm vào
nhà lúc ấy, vừa suy nghĩ như sau. Trong suốt 14, 15 năm từ
khi ra trường đến nay, mình chỉ nghĩ đến tội ác và cho
rằng công việc của mình là có trách nhiệm dùng hình phạt
nào cho tương xứng với tội ác ấy. Nhưng thực ra, liệu
là mình đã thực sự suy nghĩ một cách đúng đắn về tội
ác hay chưa. Phải chăng mình đã chỉ nghĩ về tội ác một
cách trừu tượng, chỉ đứng về phía tội nhân mà suy nghĩ
về tội ác mà thôi. Phải chăng mình đã quen chỉ nhìn thấy
trước mắt các bị cáo khúm núm một cách thành khẩn, hiền
lành, mà chưa bao giờ suy xét đến sự uy hiếp hinh hãi mà
người bị hại phải hứng chịu.
Nghĩ như thế, thẩm phán Wakasugi
cảm thấy lý tưởng làm nền tảng cho những phán quyết của
mình lâu nay lần hồi bị lung lay. Kẻ đạo tặc đã vào nhà
ông, nếu nói về tội danh thì đó là ăn trộm hụt, nhưng
nghĩ tới ảnh hưởng tai hại mà cả gia đình ông đang gánh
chịu, thì phải sợ đến nổi da gà. Vợ ông vì bị kinh động
nên đã lên cơn sốt và vì thế mà suy yếu dần, giả sử
là rồi vì vậy mà bị chết, thì cho dù hình thức chỉ là
ăn trộm nhưng hậu quả hiển nhiên là đã giết chết vợ
ông. Còn những ảnh hưởng nguy hại đến ba đứa con ông,
không thể dùng tiền mà đền bù được, cũng là những thiệt
hại lớn. Hơn nữa, cảm giác bị ức chế khó chịu và tâm
lý bất an mà chính bản thân ông đang gánh chịu, cho dù là
vô hình, nhưng đó cũng chính là thiệt hại lớn lao.
Lần đầu tiên trong đời,
ông Wakasugi mới thấu hiếu đến tận xương tủy, tác hại
mà tội ác gây ra. Điều đó lật đổ tận gốc rễ quan niệm
về tội ác của thẩm phán Wakasugi lâu nay. Sau đêm bị nạn,
lần đầu tiên trong lòng ông mới trào lên cái cảm giác thù
ghét đối với tội ác, mà những kẻ tội phạm trên đời
đã gây ra. Tuy nhiên ông cảm thấy bối rối, vì động cơ
của sự chuyển hướng trong tình cảm ấy của ông có vẻ
riêng tư quá. Thế nhưng, sự thay đổi của ông Wakasugi không
phải chỉ về tình cảm, mà tư tưởng của ông cũng cho thấy
một sự chuyển hướng, làm nền tảng mỗi lúc một vững
chắc cho những thay đổi có vẻ cảm tính ban đầu.
Sáng Thứ Hai, theo đúng dự
định, phán quyết về vụ án Zigoma học sinh được tuyên
đọc. Gia đình của bị cáo dự thính phiên tòa với một
sự an tâm, tin chắc rằng cho dù không được xử vô tội,
thì thể nào cùng được hưởng án tù treo.
Nhưng ngày hôm đó, gương mặt
của quan tòa xanh xao khác thường. Và phán quyết đọc lên
nghe cũng không sang sảng như mọi khi.
Sau phần chính của phán quyết
là "Bị cáo bị án tù một năm", mọi người chờ mãi vẫn
không thấy sau đó có nói gì đến án tù treo. Nỗi thất vọng
thật sâu xa hiện rõ trên nét mặt của bị cáo cũng như những
người dự thính.
Nhưng thẩm phán Wakasugi vẫn
thản nhiên như không, sau khi đọc xong bản giải thích, ông
liền đẩy cửa rời khỏi phòng xử.
(12/2/2020)
Quỳnh Chi
dịch Wakasugi Saibanchou của Kikuchi Kan
|