Dẫn nhập:
Gào Trăng Trong Núi (Sangetsuki,
Sơn Nguyệt Ký) mượn tích Nhân Hổ Truyện, một thiên truyền
kỳ đời Đường do Lý Cảnh Lượng soạn, được trích từ
tác phẩm Cựu Tiểu Thuyết do Ngô Tăng Kỳ biên. Tuy nhiên,
chắc chắn thể nghiệm thân xác bị suyễn hành hạ của Nakajima
Atsushi cũng góp phần không nhỏ vào việc xây dựng tác phẩm.
Qua nó, chúng ta thấy bóng dáng Hoá Thân (Metamorphose) (người
biến thành sâu) của văn hào Tiệp gốc Do Thái Frank Kafka và
những truyền thuyết về người hóa sói ở Âu Châu nhưng
diễn ra trên một bình diện và mang một ý nghĩa khác.
Nguyên tác ra mắt độc giả
năm 1941 trên tờ Bungakukai (Văn Học Giới) đã được nhà
xuất bản Kadokawa in khổ bỏ túi từ 1968 và tái bản đến
lần thứ 55 năm 2003.
***
Lý Trưng [1]
người Lũng Tây [2]
học rộng tài cao, cuối năm Thiên Bảo [3],
tuy hãy trẻ mà đã thấy tên đề bảng hổ, được bổ ngay
chức Úy ở Giang Nam. Tính tình Lý ngang bướng, chẳng coi ai
hơn mình, không chịu nổi phận hèn kém nên chỉ ít lâu đã
treo ấn về vườn. Nằm khểnh ở núi cũ, đóng cửa tuyệt
giao người đời, mê mải làm thơ quên hết ngày giờ. Lý
nghĩ thay vì ôm chức lại quèn suốt ngày quì gối trước
bọn thượng quan nhơ bẩn, chi bằng theo đuổi nghiệp thơ
để trăm năm sau danh thơm hãy lưu truyền hậu thế. Tuy nhiên,
tên tuổi nào có thấy đâu mà cái nghèo cứ bám miết làm
Lý không khỏi bực bội. Từ đấy, mặt mày tiều tụy, gầy
guộc xác ve. Ngoài cặp mắt với cái nhìn sắc cạnh riễu
cợt, chẳng còn tìm đâu ra dấu vết phong thái trẻ trung,
đôi má tròn căng của ông tân tiến sĩ ngày đăng khoa. Chỉ
được vài năm, không kham nỗi cảnh túng quẫn, Lý vì miếng
cơm manh áo vợ con, đành khuất tiết, khăn gói về Đông nhận
một chức quan nhỏ địa phương. Làm như thế một phần cũng
vì đã tuyệt vọng về đường thi phú. Bè bạn đồng lứa
ngày xưa ai nấy đều đã đường mây nhẹ cánh nhưng không
nói cũng thừa biết, việc phải nhận mệnh lệnh từ lũ xưa
kia Lý vẫn cho là lục tục thường tài mà không thèm để
mắt tới là cực hình cho lòng tự ái của kẻ một thuở
tài danh. Lý đâm ra tức tối nóng nảy, bắt đầu cảm thấy
không kìm được triệu chứng cuồng khí đang bốc lên trong
người. Cách đó một năm, khi có việc quan phải đi xa, đến
chỗ trọ bên bờ sông Nhữ Thủy thì bệnh bỗng phát ra. Nửa
đêm, mặt mày chợt biến dạng, Lý đứng trên giường gào
hú những âm thanh lạ lùng không ai hiểu nổi rồi cứ nguyên
như thế nhảy xổ xuống, chạy như ma đuổi vào trong đêm
tối. Lý không bao giờ trở về nữa. Cho người kiếm khắp
núi non rừng rú quanh vùng cũng chẳng đâu ra vết tích. Từ
dạo ấy, không còn ai rõ hành tung.
Năm sau, có quan Giám Sát Ngự
Sử người quận Trần tên gọi Viên Tham phụng mệnh xuống
miền Lĩnh Nam, dọc đường ngủ đỗ đất Thương Ô. Sáng
hôm sau, mới tờ mờ đất, quan đang sửa soạn lên đường
thì chức dịch lại giữ nhà trạm cho biết đoạn đường
sắp tới thường có hổ ra vồ người nên bộ hành phải
đợi trời sáng rõ mới dám đi. Bây giờ hãy còn quá sớm,
quan nên đợi thêm chốc nữa. Thế nhưng Viên Tham có lẽ cậy
tùy tùng đông đảo, gạt phắt lời khuyên của dịch lại.
Khi đoàn người đang nương theo bóng trăng tà đi ngang truông
cỏ giữa rừng thì đúng như dự đoán, một con mãnh hổ chợt
từ lùm cây phóng vọt ra. Hổ mới dợm chồm về phía Viên
Tham thì thoắt cái đã quay ngoắt vào bụi rậm. Giữa lùm
cây bỗng nghe có tiếng người thì thào lập đi lập lại
" Suýt chút nữa xúc phạm đến cố nhân!". Giọng nói ấy
Viên Tham có dịp nghe ở đâu rồi. Tuy đang kinh hãi nhưng trong
đầu Viên Tham bỗng như có ánh chớp loé ra, sực nhớ mới
kêu lên: "Tiếng nói kia có phải của bạn ta là chàng Lý Trưng
không?" Viên Tham vốn đỗ Tiến Sĩ đồng khoa, là một người
bạn thân trong số người hiếm hoi mà Lý nhận làm bạn. Có
lẽ chỉ vì Viên tính khí ôn hoà, không xung khắc với cái
kiêu căng ngạo mạn của Lý.
Bẵng một lúc, trong lùm cây
không thấy ai đáp. Thế rồi nghe tiếng khóc thút thít nghẹn
ngào vọng ra từng hồi. Một đỗi sau, mới có giọng trầm
trầm trả lời: " Vẫn còn gọi tôi là Lý Trưng đất Lũng
Tây được đấy!".
Viên Tham quên cả sợ, xuống
ngựa tiến lại gần lùm cây, bồi hồi kể lể nổi nhớ
nhung lâu ngày vắng bạn. Lại hỏi tại sao không chịu ra khỏi
lùm để gặp nhau. Lúc ấy mới nghe giọng Lý Trưng trả lời
cho biết ngày nay mình đã mang hình quái vật gớm ghiếc thì
đâu dám bước ra chào cố nhân mà không khỏi thẹn. Hơn nữa,
có chường mặt chỉ làm bạn cũ sinh lòng khiếp sợ và ghét
bỏ mà thôi. Tuy nhiên hôm nay không hẹn mà gặp cố nhân giữa
đường thì lòng mình vô cùng cảm khái quên mất tị hiềm.
Thế thì cho dù một khoảnh khắc, chỉ xin đừng đem lòng
ghê tởm cái vỏ ngoài xấu xí kinh khiếp mà cho gã Lý Trưng
ngày xưa được trò chuyện đôi lời .
Về sau Viên Tham nghĩ lại mới
thấy lạ lùng nhưng thực tình lúc đó quan đã đối phó với
tình huống dị thường này hết sức tự nhiên, không hề
kinh động. Quan bèn truyền lệnh cho đội ngũ tùy tùng dừng
chân lại và một mình đứng trước bụi rậm trò chuyện
với cái tiếng người kia. Họ hết trao đổi về những tin
đồn ở kinh đô, tin tức bạn bè cũ, địa vị của Viên
bây giờ rồi đến lượt Lý Trưng chúc mừng Viên Tham. Sau
bao câu chuyện ân cần với giọng thân mật như thuở còn
trai trẻ, Viên Tham mới hỏi Lý Trưng vì cớ gì để thân
phải đến nước nầy. Trong bụi cỏ, tiếng người mới thuật
hết ngọn ngành:
"Cách đây độ một năm, trên
đường đi xa, ban đêm lúc tôi ngủ đỗ ở quán trọ bên
bờ Nhữ Thủy thì chợt thức giấc và nghe như ngoài cửa
có ai gọi tên mình. Tôi mới nghe theo bước ra ngoài thì tiếng
kêu từ trong bóng tối đôi lúc cứ tiếp tục vẫy gọi. Bất
giác, tôi đuổi theo tiếng gọi ấy và sau một hồi chạy
bất kể trời đất như trong cơn mơ, tôi đến tận bìa rừng.
Thế rồi không biết tự lúc nào, hai bàn tay tôi đã cào lấy
mặt đất và nương theo đó phóng đi. Tôi cảm thấy trong
người dào dạt một nguồn sinh lực sung mãn giúp tôi trèo
vượt đá ghềnh thoăn thoắt. Nhìn lại mới thấy chỗ từ
ngón đến khuỷu tay, hình như lông lá đã bắt đầu mọc.
Lúc trời sáng thêm một chút, đến chỗ dòng sông dưới thung
lũng nhìn hình thù in trên mặt nước thì thấy mình đã hóa
hổ rồi. Lúc đầu còn tưởng là hoa mắt, sau lại ngỡ đang
ở trong giấc chiêm bao. Bởi vì tôi từng có kinh nghiệm lúc
đang ở trong giấc mộng lại thấy mình nằm mộng nữa kia.
Đến khi thấy cần phải hiểu đây không phải là mộng mị
gì cả, tôi mới đâm ra thẫn thờ. Rồi khiếp sợ. Một sự
sợ hãi sâu xa vì biết rằng bất cứ chuyện gì quái lạ
đến đâu cũng có thể xảy ra. Thế nhưng cớ gì tai nạn
lại đổ lên đầu tôi thế nhỉ. Không hiểu được. Hoàn
toàn không hiểu nổi. Chắc số trời bắt tôi phải sống
cái kiếp nầy mà không cần cho biết lý do, chỉ nên lẳng
lặng chấp nhận định mệnh đã an bài. Tôi đã định hủy
mình. Có điều lúc tôi chực chết đi cho yên bỗng có con
thỏ chạy qua trước mặt. Nhân tính liền biến đâu mất.
Khi cái thằng người trong tôi bừng mắt dậy thì mồm tôi
đã dây đầy máu thỏ, bên cạnh lông thỏ rụng vương vãi
rồi. Đấy là kinh nghiệm làm hổ đầu tiên trong đời tôi.
Còn nói chi biết bao điều tôi tiếp tục làm kể từ ngày
ấy.
Duy có một đôi giờ trong ngày,
tình cảm con người trở lại trong tôi. Khi ấy, tôi vẫn còn
sử dụng được tiếng người và có khả năng suy nghĩ những
điều khá phức tạp như xưa. Hãy còn nhớ làu làu nội dung
sách vở kinh sử. Lúc đó tôi có dịp đem cái lòng con người
để đánh giá hậu quả những hành vi tàn ngược tôi đã
làm trong lốt hổ, rồi lúc nhìn lại số phận mình, tôi thấy
không có gì đáng thẹn, đáng sợ và đáng tức hơn. Tuy nhiên
theo thời gian, những giây phút trở về với bản tính con
người càng ngày càng ngắn lại.
Tôi hãy còn lấy làm quái lạ
tìm hiểu tại sao mình lại hóa hổ nhưng mấy lúc gần đây,
có khi bất đồ tự hỏi tại sao trước kia mình là người
cơ nhỉ. Đó mới là điều đáng sợ. Mai mốt, cái phần tình
cảm con người chắc sẽ bị tập quán thú vật chôn biến
đi chăng? Khác nào nền móng cung điện cổ xưa bị vùi trong
đất cát. Cứ như thế, một ngày khi quên hết cái quá khứ
làm người rồi thì chỉ còn là một con hổ hung hăng, gặp
cố nhân ở giữa đường nhận không ra, có vồ ăn thịt cũng
chả cảm thấy chút hối hận. Thế thì người lẫn thú, cả
hai trước kia là loài gì thế? Trước đó hãy còn nhớ gốc
gác sau dần dần quên bẵng đi và cứ ngỡ hình thù hiện
tại mang trên thân xác mới là cái ta xưa nay? Nhưng thôi, chuyện
đó ra sao cũng được! Để mặc tình cảm con người sót lại
trong lòng biến mất đi có khi còn giúp mình sống hạnh phúc
hơn. Dầu vậy cái phần con người trong ta nó lại không sợ
gì hơn là rơi vào cảnh đó. Ôi, buồn làm sao, lo làm sao mà
cũng xót xa làm sao mỗi lần nghĩ đến khi mình sẽ quên đi
có lúc đã làm người. Tình cảm này ai thấu cho ta. Chắc
nào ai biết được ! Nếu có, phải là người sống cùng hoàn
cảnh. À nầy, phải rồi ! Trước khi tôi hoàn toàn hết còn
là người, chỉ xin cố nhân giúp cho một chuyện.
Nãy giờ, cả Viên Tham lẫn
đám tùy tùng đều nín thở, lắng tai nghe tiếng nói lạ lùng
từ trong lùm cây vọng ra. Giọng ấy lại tiếp tục :
Không dám yêu cầu gì quá quắt.
Lý tôi bình sinh làm thơ và những mong nhờ đó để chút danh
lại trên đời. Nay sự nghiệp chưa thành mà số phận đã
ra nông nỗi nầy. Xưa kia sáng tác được vài trăm bài vẫn
chưa có dịp cho lưu hành ở đời. Bản thảo bây giờ cũng
không nhớ để đâu. May là trong số đó vẫn còn thuộc lòng
vài chục. Chỉ mong bác giúp ghi chép gìn giữ hộ. Không phải
tôi muốn dựa vào đó để dương danh thi sĩ. Thơ tôi hay dở
mặc lòng nhưng nó tượng trưng cho những gì một đời đeo
đẳng đến nỗi cửa nhà khánh tận, tính khí cuồng điên.
Nếu không gửi gắm một chút lại đời sau thì chết đi khó
lòng nhắm mắt.
Viên Tham bảo bộ hạ đem giấy
bút rồi theo tiếng nói trong bụi mà ghi chép lại. Giọng Lý
Trưng từ lùm cây vang ra sang sảng. Dài ngắn cả thảy trên
ba mươi bài, văn thể cao nhã, ý nghĩa phiêu dật, chỉ đọc
qua một lượt đã thấy bài nào cũng bộc lộ tài năng phi
phàm của tác giả. Tuy trong bụng không khỏi khen thầm nhưng
Viên Tham mơ hồ cảm thấy quả tình không có gì để nghi
ngờ năng khiếu trời cho của Lý mà quái lạ, các tác phẩm
coi như vượt hẳn người đời thế nầy xem ra hãy thiêu thiếu
một cái gì.
Sau khi đã để tuôn trào những
vần thơ cũ, giọng của Lý Trưng đột nhiên đổi khác, như
thể tự trào :
"Đáng thẹn cho tôi, ngày nay
đã mang cái lốt gớm ghiếc nầy rồi mà vẫn cứ muốn nhìn
thi tập của mình bày trên án thư của khách phong lưu tài
tử đất Trường An. Nằm dài trong hang đá mà còn mơ mộng
chuyện đâu đâu. Cứ chế riễu tôi đi ! Thằng đàn ông đáng
thương, nhà thơ thì không thành mà lại thành hổ (Viên Tham
nghe và chợt nhớ cái tật thích tự trào của Lý Trưng ngày
còn trẻ mà đau lòng cho bạn) . Được rồi, để bác có thêm
dịp cười cợt, tôi xin ứng khẩu đọc mấy vần thơ nói
lên cái tâm sự bây giờ của tôi. Nó là bằng cớ cho thấy
trong xác hổ nầy vẫn còn có chút Lý Trưng :
Ngẫu nhân cuồng tật thành
thù loại,
Tai hoạn tương nhưng bất
khả đào.
Kim nhật trảo nha thùy cảm
địch,
Đương thì danh tích cộng
tương cao.
Ngã vi dị vật bồng mao hạ,
Quân dĩ thừa diêu khí thế
hào.
Thử tịch khê sơn đối minh
nguyệt,
Bất thành trường khiếu đãn
thành hao.
(Lỡ mắc bệnh cuồng mang
xác lạ.
Tai họa bao vây, trốn thế
nào?
Nanh vuốt ngày nay ai chẳng
sợ,
Nhớ xưa danh tiếng một thời
cao.
Tôi thân quái vật vùi truông
cỏ,
Bác ngựa xe quan thế mạnh
bao!
Đêm nay khe núi nhìn trăng
sáng,
Muốn rống thê lương, thoắt
nghẹn ngào"
Lúc đó, trăng tàn, ánh sáng
tỏa bàng bạc, móc trắng thấm ướt mặt đất, gió lạnh
len qua hàng cây báo hiệu ngày sắp rạng. Mọi người hầu
như đã quen với không khí quái dị, chỉ than thầm cho cái
thái độ khinh bạc của nhà thơ. Lý Trưng lại nói tiếp :
"Tôi vừa thưa không biết cớ
gì mình ra nông nỗi nầy nhưng suy đi nghĩ lại thì sự thể
xảy ra không phải hoàn toàn vô cớ. Khi tôi còn là người,
tôi lại cố kiếm cách lánh đời. Họ bảo tôi ngạo mạn,
tự cao tự đại. Nhưng ai nào biết cho thái độ đó chỉ
bắt nguồn từ tính nhút nhát của tôi. Dĩ nhiên, ngày xưa
trong xóm ngoài làng, được xem như kẻ tài năng xuất chúng,
tôi làm gì không khỏi tự kiêu. Nhưng phải nói cái tự kiêu
đó xuất phát từ tính nhát nhúa mà thôi. Một đằng tôi
muốn mượn văn chương để lưu danh với đời, một đằng
lại ngại tìm thầy, kết bạn hòng trao đổi giồi mài thêm.
Nói cách khác đi, cứ như là cao ngạo không muốn chung đụng
với những kẻ lục tục thường tài. Nhưng điều đó cũng
là do lòng tự tôn phát xuất từ nhát nhúa và e thẹn. Sợ
làm hao phẩm chất châu ngọc của mình đi nên không gắng
công khắc khổ rèn cập. Tin rằng mình đã có được phân
nửa chất ngọc, không chịu xuống ngang hàng với hàng ngói
vỡ gạch vụn. Rồi dần dần lìa bỏ cuộc đời, xa lánh
loài người. Uất ức tủi hờn đã nuôi dưỡng cái lòng ngạo
mạn và tính nhát nhúa ngày thêm lớn.
Người ta ai cũng phải dạy
cho thuần một con mãnh thú trong người. Bản sắc con thú như
rập khuôn với tính tình của ta. Trong trường hợp tôi, con
thú đó là lòng ngạo mạn do e thẹn sinh ra. Nó là tính hổ.
Con hổ đó đã làm tôi đánh mất thân danh, làm khổ vợ con,
làm tổn thương bè bạn. Tóm lại, bên ngoài thân xác biến
dạng thế nào thì lòng tôi cũng biến chất theo thế ấy.
Bây giờ nghĩ lại tôi thấy chính mình đã làm uổng phí cả
chút tài mọn mình có. Cái câu răn đời thường thấy ở
cửa miệng người ta là " Cuộc đời nếu không làm gì cả
thì thấy nó dài nhưng có chuyện làm thì lại rất ngắn "
thường được đem ra mà đùa nhưng sự thực, cái mối lo
lắng hèn nhát ngại mình " phô cho người ta thấy cái tài
hãy còn non nớt " để rồi đâm ra bê trễ không chịu khắt
khe với bản thân mới là tất cả cái dở của tôi. Có biết
bao nhiêu người tài nghệ thua sút tôi xa nhưng họ một lòng
một dạ trau giồi nên đã đường đường thành những nhà
thơ. Giờ mang xác hổ rồi, tôi mới thấm thía điều đó.
Mỗi lần nghĩ đến, tôi cảm thấy tâm can dày vò vì hối
hận. Nhưng tôi hết còn sinh hoạt như người thường nữa
rồi. Giả dụ giờ đây trong đầu tôi có nghĩ được một
bài thơ hay. Liệu có cách nào truyền đạt cho người khác
biết không?
Hơn nữa đầu óc tôi mỗi
ngày càng giống hổ thêm. Biết sao đây, hở trời! Bao tháng
ngày bỏ phí hỏi tìm đâu ? Lần hồi tôi không chịu nổi
nữa. Mỗi lúc như thế, tôi trèo lên mỏm đá trên đỉnh
núi đằng kia, hướng về thung lũng hoang vu mà gầm. Tôi muốn
đem nỗi buồn đang đốt cháy ruột gan thổ lộ cho ai kia được
biết. Tối hôm qua, tôi lại lên chỗ ấy ngước nhìn vầng
trăng gào thét. Để một ai đó hiểu dùm nỗi thống khổ
trong tôi. Tuy nhiên, muông thú nghe tiếng tôi gầm thì sợ hết
vía, chỉ biết nằm bẹp dí. Cả núi rừng sương móc chung
quanh chắc chỉ xem đó là tiếng rống của con hổ trong cơn
giận dữ cuồng điên. Chồm lên không, phục xuống đất mà
gào đi nữa, chẳng có lấy một người thấu được lòng.
Cái thuở làm người cũng thế, có ma nào hiểu cho con tim nhạy
cảm, dễ bị tổn thương của tôi đâu! Cái bộ lông đẫm
ướt nầy, đâu chỉ vì thấm mỗi sương khuya".
Dần dà, màn đêm bốn bề
rồi cũng vén lên. giữa mấy hàng cây vọng từ đâu đến
âm hưởng tù và báo hiệu bình minh rúc nghe buồn bã.
"Phải từ biệt mà thôi". Giọng
Lý Trưng cho biết cái giờ bước vào vòng mê muội ( giờ
phải trở về kiếp hổ) sắp điểm rồi. "Thế nhưng trước
khi chia tay xin nhờ cậy thêm điều nữa. Đó là chuyện vợ
con. Gia đình tôi còn ngụ ở quê cũ đất Khách Lược, đến
nay họ vẫn không rõ những gì đã xảy đến cho tôi. Khi cố
nhân từ miền Nam trở về, có thể nào nhắn hộ với họ
là tôi đã chết rồi không ? Chuyện xảy ra hôm nay xin kín
tiếng cho. Nói ra thì quá trơ trẽn nhưng xin thương xót lũ
cô nhi mà lo toan để mai sau chúng nó không phải chết đói
chết rét vệ đường thì ơn ấy không gì sâu dày hơn".
Nói vừa dứt lời, trong bụi
rậm lại vang ra tiếng khóc thảm thiết. Viên Tham cũng mắt
lệ lưng tròng xin nhận lời bạn phó thác. Nhưng giọng của
Lý Trưng thoắt trở lại cái khẩu điệu tự trào khi nãy
:
"Đáng lẽ ra phải nói chuyện
nhờ vả nầy trước tiên nhưng thuở làm người tôi chỉ
nghĩ đến cái thi nghiệp chẳng ra gì của tôi thôi chứ có
lo vợ con phải đói lạnh đâu. Vì điều đó mà bị đọa
xuống hàng cầm thú cũng nên!"
Ngoài ra Lý còn nhắn thêm với
Viên Tham khi từ phương Nam trở về xin chớ mượn con đường
nầy nữa. Bởi vì lúc đó mình đã mê muội, không nhìn ra
người cũ mà nhảy ra vồ cũng nên. Rồi sau khi giã biệt,
đi đến chỗ gò cao cách đó chừng một trăm bước, nhớ
quay mặt nhìn lại một lần cho. Để biết rõ hình dạng của
tôi bây giờ. Không phải muốn khoe tư thế hùng dũng mà chỉ
cho bác thấy hình thù xấu xa gớm ghiếc để mai sau qua chốn
nầy, bạn dù có thương cũng ghê tởm không muốn tìm gặp
nữa.
Họ Viên hướng về bụi rậm
nói mấy câu thân ái để từ biệt rồi lên yên. Bên trong
bụi lại văng vẳng tiếng khóc thê thiết không gì cầm lại
được. Viên Tham bao lần ngoái về hướng bụi rậm rồi ra
roi đi trong nước mắt.
Như lời Lý dặn, đoàn người
ngựa lên tới gò cao mới quay lại, đảo mắt nhìn cái truông
giữa rừng cây ban nãy. Tức thì một con hổ từ trong cỏ
rậm phóng ra, leo lên đường cái và nhòm về hướng họ.
Hổ ngẩng đầu lên nhìn vầng trăng giờ đây đã nhạt nhòa,
gầm lên độ hai ba lần, xong quay mình lao vào bụi rậm rồi
không thấy hình dáng đâu nữa.
Dịch
ngày 20/10/2003
Cập nhật
23/08/2020
Nguyễn
Nam Trân
Thư mục tham khảo:
1-Nakajima Atsushi, Sangetsu-ki (Sơn
Nguyệt Ký ? Gào trăng trong núi) trong Tuyển tập cùng tên,
Nxb Kadokawa, Tôkyô, sơ bản 1968, tái bản lần thứ 55 năm 2003.
Nguyên tác Nhật ngữ.
2-Nakajima Atsushi, Ivan Morris dịch
Sangetsu-ki thành Tiger-Poet (Hổ thi sĩ), trong Tuyển tập Modern
Japanese Stories - An Anthology, Ivan Morris chủ biên, Nxb Tuttle, Tokyo,
sơ bản 1967, tái bản lần thứ 23 năm 1997. Bản ngoại văn
tham chiếu
----------
[1]
- Trong truyền kỳ của Lý Cảnh Lượng, Lý Trưng vốn dòng
dõi hoàng tộc.
[2]
- Thuộc tính Cam Túc bây giờ.
[3]
-
Niên hiệu thời Đường Huyền Tông (742-756)
|