Dẫn nhập
Thoạt nhìn, ta có thể ngờ
rằng Meijinden là một tác phẩm của người Tàu nhưng sự
thực thì nó đã được viết bởi Nakajima Atsushi, một nhà
văn Nhật. Thế nhưng khi dựa vào sở học cổ văn của Nakajima
Atsushi và mấy từ khóa "xạ chi xạ" hay "bất xạ chi xạ"
để tìm tòi, ta bắt buộc lội ngược lên đầu nguồn văn
chương Trung Quốc. Việc tìm kiếm tuy không phải dễ nhưng
rốt cuộc, nhờ duyên may khi dịch cuốn Zen and Japanese Culture
(Thiền và văn hóa Nhật Bản) của Suzuki Daisetsu, người dịch
được biết một cách gián tiếp là Nakajima Atsushi đã lấy
cảm hứng sáng tác từ một thiên trong sách Trang Tử nhan đề
Thuật bắn cung (chương 21: Điền Tử Phương) với nội dung
như sau:
"Liệt tử trổ tài bắn
cung cho Bất Hôn Vô Nhân xem. Kéo cánh cung căng hết cỡ và
với một bát nước đặt trên khuỷu tay, ông bắt đầu bắn.
Khi mũi tên trước nhất vừa bay ra thì mũi thứ hai đã nằm
trên dây cung và mũi thứ ba đi tiếp theo. Cùng lúc, ông đứng
bất động như pho tượng...."
"Họ leo lên đỉnh núi. Bất
Hôn Vô Nhân bảo: "Nghệ thuật bắn của ông khá đấy nhưng
ông không bắn bằng cái không-bắn (bất xạ chi xạ). Hai ta
hãy thử lên núi cao và từ trên bờ vực nhìn xuống vực
sâu nghìn trượng rồi ông thử bắn xem!". Lên được núi
cao, họ đứng trên một mỏm đá nhìn xuống vực thẳm sâu
nghìn trượng. Bất Hôn Vô Nhân bước thụt lùi , chỉ để
một phần ba bàn chân bám vào mỏm đá. Xong ông gọi Liệt
tử tiến lên đằng trước. Liệt tử ngã xuống đất , người
vã mồ hôi từ đầu đến gót".
"Bất Hôn Vô Nhân mới nói:
"Bậc chân nhân nhìn lên trời xanh hay dòm xuống suối vàng,
đi cùng khắp tám phương trời mà tinh thần vẫn không hề
thay đổi. Ông chưa chi đã nao núng, hai mắt hoa lên. Như thế
thì mong gì bắn trúng đích?"
(trích Thiền và văn hóa Nhật
Bản)
***
Thành Hàm Đan nước Triệu
có một gã đàn ông tên gọi Kỷ Xương vốn lập chí trở
thành tay bắn cung đệ nhất thiên hạ. Người mà Kỷ nghĩ
rằng mình phải chọn làm thầy thật không thể ai khác ngoài
Phi Vệ, một đại cao thủ đương thời trong ngành cung tiễn.
Đó là tay thiện xạ, đứng cách trăm bước vẫn có thể
bắn xuyên qua lá liễu và trăm lần như một [1].
Kỷ Xương bèn lặn lội đến chỗ Phi Vệ để xin nhập môn.
Phi Vệ ra lệnh cho anh học
trò mới này trước tiên phải học cách không nhắm mắt.
Kỷ Xương về nhà, chui xuống gầm giường cửi của vợ,
từ đó lật người nằm ngửa ra và nhìn lên .Anh dán mắt
nhìn trừng trừng vào cai bàn đạp (maneki) [2]
đang lên xuống tới lui vun vút để luyện sao cho đôi mi không
bao giờ được nhắm. Vợ anh không hiểu mô tê ất giáp nên
lấy làm sửng sốt.Trước tiên, nàng cả thẹn vì chồng cứ
nhìn mình chòng chọc từ một tư thế quái gở và dưới một
góc độ cũng quái gở không kém.Thấy người vợ không bằng
lòng, Kỷ Xương bèn quát mắng và bắt nàng cứ phải tiếp
tục dệt. Ngày qua tháng lại, Kỷ Xương vẫn nằm dưới đất
trong cái tư thế kỳ khôi, bền lòng tập dượt cách nhìn
không chớp mắt. Được hai năm sau, cho dù bàn đạp đưa lên
xuống nhanh vùn vụt đến cọ sém lông mi, tuyệt nhiên mắt
anh vẫn không hề khép lại một lần nào. Rốt cuộc anh mới
chịu chui ra ngoài khung cửi. Đến cỡ này thì cho dù có ai
lấy một mũi nhọn đâm thẳng vào mắt, anh cũng không thèm
nháy.Cho dù có một tia lửa bắn vào hay một bụi tro bày vào
mắt, anh cũng không hề nháy. Bắp thịt trên riềm mi của
anh giờ đây hầu như đã quên mất cơ nằng phản ứng. Ban
đêm, giữa giấc ngủ say, đôi mắt của Kỷ Xương vẫn mở
trừng trừng. Kịp khi một con nhện nhỏ tới giăng tơ ở
giữa hai riềm mi anh để làm tổ thì anh mới bắt đầu cảm
thấy có tự tín để báo cáo cho thầy.
Nghe tin đó, thầy Phi Vệ bèn
nói: "Chỉ biết không nhắm mắt thôi thì vẫn chưa đủ để
học nghề bắn. Bây giờ đến giai đoạn học nhìn. Khi biết
nhìn một cách thuần thục thì nhìn bất cứ vật nhỏ nào
cũng đều thấy lớn, vật li ti cũng trở nên rõ ràng. Được
như thế rồi, lúc đó hãy quay lại báo ta hay.
Kỷ Xương lại về nhà, bắt
một con rận (shirami) [3]
từ đường khâu của áo lót rồi lấy sợi tóc của mình
mà cột nó vào. Thế rồi anh treo ở cửa sổ và tập trung
nhìn nó suốt ngày.Hết ngày này qua ngày khác, sinh hoạt của
anh là trân trân nhìn con vật treo trên thành cửa sổ. Dĩ nhiên
ban đầu nó chỉ là một con rận không hơn không kém. Qua đến
hai ba hôm sau, nó cũng chỉ là một con rận. Thế nhưng từ
hôm thứ mười trở đi, không hiểu tại sao Kỷ Xương có
cảm tưởng là nó lớn hơn chút xíu. Đến tháng thư ba thì
anh thấy nó giống như một con nhộng. Phong cảnh bên ngoài
cánh cửa sổ nơi anh treo con rận cũng dần dần biến đổi.
Ánh sáng tươi thắm của mùa xuân đã trở thành cái nắng
nỏ khốc liệt của mùa hạ, vừa mới nghĩ rằng đang có
đàn chim nhạn (kari, ngỗng trời) bay qua trên bầu trời thu
cao và trong vắt thì chưa gì đã thấy có những trận mưa
lẫn vào với tuyết (mizore) rơi từ khung trời xám để đem
giá lạnh về. Thế mà Kỷ Xương vẫn bền lòng tiếp tục
nhìn vào con côn trùng nhỏ bé lắm chân, thích cắn và gây
ngứa ngáy này. Sau khi đã thay đổi vài chục con như vậy
và theo dòng thời gian, ít nhất ba năm trời đã trôi qua. Một
hôm, bất đồ Kỷ Xương nhận ra rằng, trong mắt anh, con rận
anh treo giờ đã to ra bằng một con ngựa. "Đã đến lúc!"
Kỷ Xương vỗ vào đùi và phóng ra ngoài. Anh nghi ngờ đôi
mắt mình. Người trên đường giờ đây đều cao như ngọn
tháp, ngựa to bằng hòn núi, còn lợn thì ngang một quả đồi
và gà qué lớn như lầu thành. Kỷ Xương tung tăng chân sáo
trở về nhà, một lần nữa đứng trước mặt con rận treo
bên cửa sổ, lấy cung Yên giác (làm bằng sừng thú nước
Yên) và mũi tên Sóc bồng (cỏ bồng phương Bắc) [4]
ra mà bắn thì những mũi tên của anh đã trúng phóc và xuyên
qua quả tim của con vật bé nhỏ. Lạ nữa là lúc đó, sợi
tóc treo nó không hề đứt đoạn.
Kỷ Xương vội vàng đi đến
chỗ thầy để báo tin. Phi Vệ vui mừng khen ngợi: "Ngươi
khá lắm đấy!". Thế rồi ông đem hết những bí quyết trong
thuật bắn cung - không chừa một thứ nào - để truyền lại
cho người học trò. Sau 10 hôm đã truyền xong cho Kỷ Xương
tất cả những bí quyết thâm sâu của nghề xạ tiễn, ông
mới thử để cho Kỷ Xương bắn một lá liễu đặt cách
anh một trăm bước. Kết quả là trăm phát đều trúng cả
trăm. Hai mươi hôm sau, ông cho đặt lên khuỷu tay phải của
anh một cốc nước đầy và khi kéo cung cứng thì cũng như
lần trước, anh vẫn không bắn lệch chỗ nhắm một lần
nào, chẳng những thế, nước trong cốc cũng không hề sóng
sánh. Một tháng sau, ông cho Kỷ Xương thử phép "tốc xạ"
(bắn nhanh liên tiếp) với 100 mũi tên. Khi mũi tên thứ nhất
vừa trúng đích thì mũi thứ hai bay đuổi theo không sai phạm
chút nào và đã chẻ đuôi mũi tên trước ra làm đôi.Thế
rồi mũi tên thứ ba tiếp đó cũng bay đến và cắm khít vào
giữa mũi thứ hai. Cứ như vậy mà hết mũi này đến mũi
khác cứ nối liền nhau vừa khi mũi sau cám phập vào đuôi
mũi trước. Do đó, không có một mũi tên nào rơi xuống đất
cả. Trong nháy mắt, 100 mũi tên đều đã được bắn đi và
dính lền với nhau như chỉ có một mũi duy nhất kéo dài từ
đích nhắm ra đằng trước thành một vạch dài. Đứng bên
cạnh nhìn cảnh đó, sư phụ Phi Vệ bất giác thốt ra một
tiếng "Giỏi!" (Yoshi!)."
Hai tháng sau, Kỷ Xương lại
trở về nhà và lúc đó xảy ra một cuộc cãi vã giữa anh
và vợ. Kỷ muốn hù dọa nàng bèn tra tên Ki Vệ vào cung Ô
Hiệu [5],
dương ra hết cỡ và bắn. Mũi tên đi ngang mi mắt cắt đứt
mất ba sợi lông mi của nàng rồi bay mất hút. Thế mà người
bị bắn vẫn không hề hay biết, nàng cũng không nháy mắt
mà cứ tiếp tục thóa mạ chồng. Câu chuyện trên đây cho
thấy là về tốc độ và sự chính xác, tài bắn cung của
Kỷ Xương đã tới chỗ cực kỳ tinh diệu nên đạt được
một kết quả như thế.
Lúc đó, Kỷ Xương không còn
gì để học từ Phi Vệ nữa. Một hôm, bất chợt trong đầu
anh lóe lên một ý nghĩ thâm hiểm.
Một mình nghĩ đi nghĩ lại,
bây giờ nói về thuật bắn cung, mình chỉ còn độc mỗi
một địch thủ, đó là thầy Phi Vệ chứ không ai khác. Để
trở thành đệ nhất cao thủ trong võ lâm, nhất định là
mình phải loại trừ ông ta. Trong khi đang chờ cơ hội, một
hôm trên cánh đồng mỗi ngày anh thường qua lại, bỗng tình
cờ thấy Phi Vệ từ phía đối diện bước tới. Kỷ Xương
nhanh chóng quyết định. Anh rút tên ra và đặt lên ngắm bắn,
chẳng ngờ Phi Vệ cũng linh cảm được điều đó bèn trương
cung ra ứng phó. Khi hai người cùng bắn thì hai mũi gặp nhau
giữa đường bay và cùng rơi xuống đất. Sở dĩ khi hai mũi
tên đều rơi xuống đất, chúng không hề làm bốc lên một
hạt bụi có lẽ vì kỹ thuật của hai người đều đã đến
chỗ thần sầu. Đến khi túi tên của Phi Vệ đã cạn sạch
thì phía Kỷ Xương hãy còn được một mũi. Lợi dụng cơ
hội này, anh ta bèn nhanh nhẹn lắp tên vào và bắn đi nhưng
Phi Vệ lập tức bẻ ngay một cành cây gai (no-ibara) bên đồng,
chìa đầu nhọn ra và quật một cái vụt làm rơi mất mũi
tên đang phóng tới. Biết rằng tham vọng đặt không đúng
chỗ của mình đã thất bại, lòng Kỷ Xương bỗng bừng dậy
một tình cảm xấu hổ, một tình cảm mà nếu kế hoạch
của anh thành công, nhất định sẽ không bao giờ có. Còn
về phía Phi Vệ thì ngoài cái yên tâm vì đã thoát hiểm là
một sự thỏa mãn đối với tay nghề. Cả hai đã giúp ông
quên bẵng đi lòng oán ghét về hành động của kẻ phản
bội. Khi hai người đi xáp lại gần nhau, họ đã ôm choàng
lấy nhau ngay giữa cánh đồng. Một đỗi lâu, họ đã nhỏ
những giọt nước mắt đẹp đẽ của tình thầy trò. (Không
nên nhìn sự kiện này với con mắt của một người suy nghĩ
theo quan niệm đạo đức đời nay vì nó sẽ không thích hợp
đâu). Xưa kia có việc Tề Hoàn Công, một người thích ăn
ngon khi muốn đi tìm hương vị của một món mình chưa từng
được nếm, người đầu bếp trong cung là Dịch Nha đã đề
nghị nhà vua hãy thử thịt đứa con trai mình mà ông sẽ nấu
nướng hầu vua. Tần Thỉ Hoàng, lúc còn là một thiếu niên
16 tuổi, ngay cái đêm cha mình vừa mất, đã ba lần cưỡng
bức ái thiếp của vua cha. Nói thế để cho thấy luân lý
đạo đức của thời đại ấy đại loại là như vậy cả.
Tuy quàng vai nhau và nước mắt
rưng rưng nhưng khi nghĩ đến âm mưu đen tối khác mà đứa
học trò có thể đang nuôi trong đầu, Phi Vệ lấy làm hoảng
sợ, bèn nghĩ đến phương kế là tạo cho Kỷ Xương một
mục tiêu khác để anh ta rời bỏ những ý định đang có.
.Ông bèn hướng về đứa học trò nguy hiểm này và nói: "Những
gì ta biết, ta đã truyền hết cho ngươi rồi. Nếu như ngươi
còn mong mỏi đi đến chỗ uẩn áo sâu xa hơn của cung thuật
thì hãy về phía Tây mà tìm đến rặng núi Đại Hành, sau
đó leo lên tận đỉnh Hoắc Sơn. Trên đỉnh ấy nhất định
ngươi sẽ gặp một vị lão sư tên gọi Cam Dăng. Cụ là một
bậc đại sư tài quán cổ kim trong lãnh vực này. So với cung
thuật của cụ thì tài bắn của bọn ta chỉ là trò trẻ.
Giờ phút này, người xứng đáng làm thầy của ngươi phải
là cụ Cam Dăng chứ không ai khác.
Kỷ Xương lập tức lên đường
về phía Tây. Phi Vệ bảo rằng: "Đứng trước cung thuật
của người đó thì tài bắn của chúng ta chỉ là trò trẻ"
nhưng câu nói ấy đã chạm đến lòng tự ái của anh. Nếu
như câu nói đó phản ánh một sự thật thì ước vọng trở
thành đệ nhất cao thủ trong thiên hạ của anh hãy còn là
một câu chuyện xa vời. Anh nghĩ muốn xem tài nghệ của mình
có đúng là trò trẻ hay không thì phải gặp con người ấy
mà so tài cao thấp thì mới biết được chứ. Lòng nôn nả
với ý tưởng ganh đua, anh chỉ mong sao cho chóng đến nơi.
Gan bàn chân đã xước hết và ống chân cũng đầy thương
tích, anh còn phải leo qua những bìa đá hiểm nghèo và đi
dọc theo đường sạn đạo chênh vênh. Mãi đến một tháng
sau anh mới đến được đỉnh ngọn núi vốn là đích nhắm.
Người đang chờ đón một
Kỷ Xương hăm hở muốn so tài là ông lão có đôi mắt hiền
như mắt cừu và thân hình vô cùng mảnh khảnh, gió thổi
cũng ngã. Tuổi của cụ ta chắc đã hơn trăm. Có lẽ vì cái
lưng quá còng, mỗi lần bước đi là chòm râu bạc lại quét
lê dưới đất.
Sợ người đối thoại lãng
tai, Kỷ Xương phải nói thật to để xưng danh tánh và bày
tỏ mục đích của cuộc viếng thăm. Sau khi cho biết mình
muốn ông đánh giá tài nghệ cho, Kỷ Xương chẳng đợi người
trước mặt trả lời, đã nhanh nhẹn rút cây cung "Dương cán
ma cân" đeo trên lưng ra. Thế rồi, anh lắp một chùm tên Thạch
kiệt [6]
nhắm một đàn chim di vừa vặn bay ngang bầu trời vào lúc
đó. Khi giây cung bật thì đã thấy thân hình năm con chim lớn
xé gió rồi rơi ngay xuống đất.
Ông lão mỉm cười và phát
biểu một cách điềm nhiên:
-Bắn được như hảo hán là
đã ngang ngửa với đám thường nhân! Thế nhưng, đó chẳng
qua là cái tài "xạ chi xạ" (bắn bằng bắn).Ta xem chừng anh
bạn còn chưa biết đến cách "bất xạ chi xạ" (bắn không
cần bắn)!
Thấy Kỷ Xương đứng ngậm
câm như đang nuốt giận, lão ẩn giả bèn dẫn đường cho
anh đến một chỗ vách đá dựng đứng (tuyệt bích) cách
nơi đó chỉ có hai trăm bước. Đúng như người ta thường
gọi, đó là một vách đá "bích lập thiên nhận" (tấm vách
dựng đứng cao hàng nghìn thước) [7]
trông chẳng khác nào một tấm bình phong. Từ trên mà thử
liếc nhìn thì dòng khe ngọn suối ở dưới đáy vực sâu
đó chỉ hẹp và nhỏ như những sợi chỉ, quang cảnh ấy
dễ làm cho chóng mặt. Trong khoảng không gian ở lưng chừng
bức vách ấy có một phiến đá chông chênh chìa ra bên ngoài.
Cụ già bèn đi thẳng ra ngoài đó rồi quay lại nói với Kỷ
Xương:
-Sao? Anh bạn có thể nào đứng
ở chỗ này mà thi triển công phu như hồi nãy thêm một lần
nữa cho lão xem không?
Đến nước này, Kỷ Xương
không thể không làm theo. Anh bèn đi ra phía phiến đá và đứng
thế vào chỗ của ông cụ. Tuy nhiên, khi anh vừa dẫm lên
phiến đá thì thấy nó khẽ lung lay. Anh bèn vận sức, tập
trung tinh thần và lắp tên vào thì vừa lúc đó, ở một góc
của phiến đá, có một hòn đá nhỏ tách ra và lăn long lóc.
Khi đưa mắt nhìn theo hòn đá ấy xem nó rơi đi đâu, Kỷ
Xương bất chợt sợ hãi nằm phủ phục lên trên phiến đá.
Hai chân anh run lẩy bẩy, mồ hôi đẫm từ đầu tới gót.
Ông lão bèn cả cười và chìa
cánh tay ra kéo anh bước khỏi nơi nguy hiểm đó. Ông tự mình
đi ra đứng vào chỗ đó thay cho Kỷ Xương và nói:"Thôi, giờ
thì anh bạn ghé mắt xem cách lão bắn nhé!". Tuy mặt còn xanh
như chàm và trống ngực đập liên hồi nhưng Kỷ Xương ráng
lấy lại bình tĩnh và hỏi: "Thế còn cung? Cung của cụ đâu
nào?" bởi vì lúc đó ông lão chỉ có hai tay không. Ông lão
lại cười: "Cung ư? Nếu phải dùng cung thỉ bạn hãy còn
ở trong vòng "xạ chi xạ". Với "bất xạ chi xạ", cả đến
những thứ như cung Ô tất và tên Túc thận [8]
, ta đều không phải dùng tới.
Vừa vặn ngay trên đầu họ và
cao vút trong bầu trời, một con diều hâu nhẹ nhàng bay lượn
như đang muốn vẽ một vòng tròn. Cam Dăng đứng nhìn cái
bóng nhỏ như hạt vừng của con chim một lúc lâu rồi với
cái cung vô hình và mũi tên cũng vô hình nốt, tay dương cung
ra như một vầng trăng rằm và phóng vút mũi tên đó lên.
Thì xem kìa! Con diều không còn thấy đập cánh một tị nào
nữa mà rơi từ trên không xuống đất như hòn đá.
Kỷ Xương há hốc nhìn. Trong
lòng, anh có cảm tưởng đây là lần đầu tiên mình đã được
ghé mắt nhìn vào chỗ sâu xa uyên áo nhất của nghệ thuật
bắn cung.
Trong vòng 9 năm trời, Kỷ Xương
đã ở lại để học hỏi lão cao thủ. Lúc ấy, việc anh
đã có cơ hội tu luyện và thu thập những kinh nghiệm gì
thì không ai đoán ra được.
Thời gian 9 năm trôi qua, lúc
anh hạ sơn, người quen biết Kỷ Xương thấy mặt mày anh
đã thay đổi đến mức họ không sao nhìn ra. Cái vẻ hiếu
thắng và thần thái nhanh nhẹn của ngày xưa đã mất đi đâu
cả. Anh không biểu lộ một trạng thái tâm hồn nào, dung
mạo giờ đã thành ra đần độn, khờ khạo như ông phỗng
(tượng gỗ). Khi có dịp đến thăm ân sư Phi Vệ mà mình
lâu ngày không gặp thì người thầy cũ khi vừa thoáng nhìn
anh đã phải thốt ra một lời cảm thán: "Giờ đây ta mới
có thể xem ngươi là một tay cao thủ trong thiên hạ! Tài cán
như bọn ta không thể nào chạm được gót chân ngươi!"..
.
Thủ đô Hàm Đan chào đón
ngày về của Kỷ Xương như đón tay cao thủ đệ nhất thiên
hạ. Dĩ nhiên trong lòng ai nấy đều dậy lên niềm mong ước
được anh biểu diễn trước mắt họ để thấy những tuyệt
kỹ của cung thuật. Thế nhưng Kỷ Xương hoàn toàn không có
ý hướng đáp lại nguyện vọng thiết tha của họ. Chẳng
những thế, anh còn không muốn cầm lại cây cung. Cây cung
"Dương cán ma cân" mà ngày xưa lúc lên núi tu học, anh vẫn
mang theo người, giờ hình như không biết đã bị anh vứt
đi đâu. Để trả lời cho một người đưa ra câu hỏi ấy,
Kỷ Xương uể oải trả lời: "Chí vi bất vi, chí ngôn khứ
ngôn, chí xạ bất xạ" (Muốn làm cho đến nơi thì không làm
gì sất, muốn nói cho cạn thì đừng nói gì cả, muốn bắn
thật trúng thì đừng có bắn). "À! Té ra là thế! Những tay
danh sĩ ở kinh đô Hàm Đan vốn nói ít hiểu nhiều nên đã
đồng ý ngay với Kỷ Xương. Người được gọi là cao thủ
dù không cầm lấy một cây cung trong tay giờ đây là niềm
tự hào của họ. Kỷ Xương càng xa lánh cây cung bao nhiêu
thì lời tung hô xem anh là nhà vô địch càng ầm ĩ bấy nhiêu
Không biết bao nhiêu lời đồn
đại đã truyền từ miệng người này sang miệng người khác.
Chẳng hạn chuyện một đêm lúc trời đã quá canh ba, trên
nóc nhà của Kỷ Xương bỗng nghe có tiếng người đang bật
giây cung. Như thể họ muốn cho rằng đối với một bậc
cao thủ thì trong khi người đó ngủ, vị thần cung đạo ẩn
trong người kẻ ấy sẽ xuất hồn đi tiểu trừ yêu quái
cho ông ta được an giấc trọn đêm. Có anh lái buôn láng giềng
của Kỷ Xương quả quyết rằng có đêm mình đã nhìn thấy
trên không trung nơi nóc nhà Kỷ Xương, cái bóng ông ta đang
ngồi trên mây, còn tay thì nắm cây cung - một cảnh hiếm
thấy - và so tài cao thấp với các tay thiện xạ đời xưa
như Hậu Nghệ và Dưỡng Do Cơ. Lúc đó, đằng sau đuôi những
mũi tên các vị ấy phóng ra đều có những vệt xanh làm sáng
lòa cả bầu trời đêm và chúng chỉ biến mất trong khoảng
các chòm sao Tham Túc (Orion) và Thiên Lang (Sirius) [9].
Lại có một tay ăn trộm đã thú thực rằng một hôm hắn
định lẻn vào nhà Kỷ Xương thì khi chân định leo lên bờ
tường bỗng cảm thấy từ trong ngôi nhà im ắng đó có một
luồng sát khí bay ra nện trúng đầu làm mình văng ra ngoài.
Từ đó những kẻ nào có tà tâm đều phải đánh một đường
vòng cách xa ngôi nhà đó trong một chu vi mười chô (109m x
10) ở bốn phía, còn như lũ chim di tinh khôn thì hầu như chúng
không còn dám bay ngang qua bầu trời trên nóc nhà ông ta nữa.
Trong khi danh tiếng dậy ngất
mây xanh như thế, cao thủ Kỷ Xương ngày càng già đi. Lòng
ông đã sớm xa lạ với cung thuật nhưng từ đây, càng ngày
càng rơi vào một cõi khô khan đạm bạc hư vô tĩnh mịch.
Bộ mặt đã biến thành tượng gỗ giờ đây không còn biểu
lộ được một tình cảm nào, nói năng thì cũng ít khi mở
lời, rốt cuộc không ai còn nhận biết là ông còn hít, thở
hay không nữa. "Tôi hết biết phân biệt giữa mình và người,
giữa phải và trái. Giờ thì mắt cũng như tai, tai cũng như
mũi và mũi cũng như miệng". Đó là những lời cảm hoài của
tay cao thủ trong những ngày cuối của cuộc đời.
Từ ngày chia tay lão sư Cam
Dăng đến nay, tính ra đã hơn 40 năm. Kỷ Xương lặng lẽ
từ giã cõi đời này và ra đi như một làn khói nhẹ. Trong
khoảng 40 năm trời ấy, không một lần nào ông hở môi bàn
chuyện cung tên. Mở miệng để nói còn chưa làm thì có lý
nào ông lại có một hoạt động can dự đến hai thứ đó.
Dĩ nhiên, với tư cách của một người viết truyện ngụ
ngôn, tác giả cũng muốn tạo cho ông cơ hội làm nên một
công trạng hiển hách nào đó trước khi chia tay. Kể ra thứ
công trạng khiến cho một cao thủ được xứng danh là cao
thủ cũng có khá nhiều, nhưng mặt khác, tác giả sẽ rất
khổ tâm nếu phải viết sai lạc đi những điều đã thấy
chép trong sách cổ. Trên thực tế thì từ khi về già, Kỷ
Xương đã trở thành một kẻ vô vi mà câu chuyện kỳ dị
sau đây có thể đem trưng ra làm bằng chứng:
Hình như sự việc đã xảy
ra vào khoảng một hai năm trước khi ông qua đời. Một hôm
ông lão Kỷ Xương được mời đến chơi nhà một người
quen thì thấy trong ngôi nhà ấy có một món đồ. Rõ ràng
ông thấy quen quen như đã được nhìn nó ở đâu rồi thế
nhưng không tài nào nhớ được cái tên.Ông cũng không nhớ
nó dùng vào việc gì. Chủ nhà tưởng là khách muốn nói đùa
nên nhe răng cười làm như không chú ý. Trái lại, ông lão
Kỷ Xương vẫn nghiêm trang hỏi tiếp. Dù vậy, người trước
mặt vẫn nở một nụ cười mơ hồ như thể chưa nắm được
bản ý của khách. Đến khi Kỷ Xương nghiêm sắc mặt, hỏi
ba lần cùng một câu thì lần đầu tiên, chủ nhà mới lộ
vẻ kinh ngạc. Ông ta nhìn chầm chập vào mặt khách. Ông không
còn dám cho là vị khách nói đùa, cũng không nghĩ rằng ông
ấy đã mất trí, rồi sau khi xác nhận được tai mình đã
không nghe lầm, ông cảm thấy có một tình cảm hoang mang gần
như sợ hãi, bèn lắp ba lắp bắp:
-Ôi chao, phu tử? Một nhà thiện
xạ cổ kim vô song như phu tử mà lại quên món đồ có tên
là cây cung hay sao? Mà này! Không những tên của cây cung mà
cả cách dùng nó nữa! ..
Từ đó trong một thời gian
dài, ở kinh đô Hàm Đan, đã xảy ra chuyện các nhà họa sĩ
giấu tiệt bút vẽ, nhạc công chặt dây đàn sắt, những
người thợ mộc coi việc mình từng sử dụng thước đo (kiku)
như một điều nhục nhã..
Dịch
ngày 22/08/2020
Tư liệu tham khảo:
-
Nagashima Atsushi, Tuyển tập Lý
Lăng, Sơn Nguyệt Ký vv..., bản bỏ túi thông dụng.do nhà xuất
bản Kadokawa xuất bản, sơ bản tháng 9/1968, ấn bản tái bản
lần thứ 62 năm 2011. Nguyên tác Nhật ngữ.
-
Nagajima Atsushi, Meijinden, Đại
cao thủ do Nguyễn Đình Đăng dịch sang Việt ngữ, đồng thời
phân tích, so sánh các bản dịch đi trước. Trang mạng Talawas
blog 2009. Bản ngoại văn tham chiếu.
[1]
-
[2]
- Thiết tưởng con thoi thì mới hợp lý và ăn khớp với văn
mạch.
[3]
- Shirami có thể hiểu là chấy (chí) hay rận nhưng nếu bắt
ra từ áo xống thì có nhiều khả năng là rận hơn.
[4]
- Nước Yên ở địa phận tỉnh Hà Bắc, là một trong thất
hùng thời Chiến Quốc, nơi có những chiến sĩ dung mãnh (chẳng
hạn Trương Phi thời Tam Quốc). Yên giác, Sóc bồng ý nói
loại cung tên chất lượng tốt.
[5]
- Ki và Vệ là hai vùng có giống trúc tốt để làm tên. Ô
Hiệu là tiếng khóc than (ngày nay Ô phải viết với bộ khẩu)
của bầy tôi vua Hoàng Đế. Tương truyền họ ôm cung và gào
khóc khi vua Hoàng Đế cưỡi rồng thăng thiên và bỏ họ lại
cõi trần.Ô là tiếng khóc, hiệu là gào.
[6]
- Theo nguyên ngữ thì Dương cán là "cánh cung bằng gỗ dương
liễu", Ma cân là dây cung tết bằng cỏ gai. Thạch kiệt có
lẽ là mũi tên có đầu đạn bằng đá chăng?
[7]
- Thiên nhận hay thiên tầm ý nói rất sâu.
[8]
- Ô tất là cung sơn màu đen. Tên Túc thận là một trong những
loại tên mà người dân tộc thiểu số mang tặng vua Vũ khi
ông dẹp được Trụ vương. Túc thận có nghĩa là nghiêm túc
và thận trọng.
[9]
- Orion có thể dịch là sao Lạp Hộ (Người đi săn, The Hunter)
hay Mục Dương (Người chăn cừu). Còn sao Sirius là Thiên Lang
hay Lang tinh, Đại khuyển tinh. Ý nói một nơi rất xa xôi trên
cánh đồng trời, nơi có người dắt cho đi săn.
|