Người
Assyria giỏi chiến đấu
Văn tự có ma quỷ hay không?.Đó
là một câu hỏi đáng được đặt ra.
Người Assyria [1]
tin rằng có rất nhiều loại ma quỷ. Khi đêm đến, những
con Lill và giống cái của chúng là Lilitsu nhảy nhót, đi lại
khắp nơi trong bóng tối. Có giống Namtal gieo rắc bệnh dịch,
có giống Etinmu vốn là linh hồn của người chết, còn Habas
là loại chuyên môn dụ dỗ và bắt cóc vv...Trên bầu trời
xứ Assyria, yêu ma kiểu đó nhiều không kể xiết. Tuy vậy,
không nghe ai nói có một giống ma quỷ nào có liên quan đến
văn tự.
Lúc ấy vào khoảng năm thứ
hai mươi dưới thời Đại đế Ashul Bani Apal trị vì, nhằm
khi trong cung điện ở thủ đô Nineveh có lan truyền những
lời đồn đại nghe mà phát khiếp. Số là thiên hạ kháo
với nhau rằng mỗi đêm, trong bóng tối, có những tiếng động
như ai đang nói chuyện vọng ra từ thư viện của hoàng gia.
Nhân vì vụ mưu phản của vương huynh Shamashu Shumu Ukin vừa
được bình định từ hồi quân triều đình hạ thành Babylon,
nhà cầm quyền ngờ rằng có một nhóm bất mãn khác đang
thập thò âm mưu gì đây. Họ đã ra sức truy lùng nhưng họ
chưa tìm ra bằng chứng cụ thể. Riêng việc ma quỷ thì thầm
trong đêm thì chắc là phải có. Kẻ cho rằng đó là tiếng
nói chuyện của những hồn ma bọn tù binh Babylon vừa bị
Đức Vua đem ra xử tử, người lại bảo lối giải thích
ấy không đủ thuyết phục. Hơn một nghìn tù binh Babylon đã
bị rút lưỡi rồi đem đi hành hình. Đống lưỡi đã được
góp lại và đắp thành một hòn non bộ nho nhỏ. Đó là một
sự kiện mà trong dân chúng, không ai không biết. Có điều
phi lý là ma bị rút lưỡi còn cách nào nói chuyện được.
Do đó, sau khi các thầy chiêm tinh và thầy bói bằng phương
pháp đọc trên gan dê đã tìm tòi một cách vô vọng, chỉ
còn lại thuyết cho rằng những tiếng động trong thư viện
kia ắt phải đến từ những lời trò chuyện giữa mấy cuốn
sách hay đống văn tự mà thôi. Tuy nhiên, bản chất của những
con ma văn tự (nếu như bọn này hiện hữu) như thế nào thì
không ai đoán ra. Đại đế Ashul Bani Apal bèn cho vời viên
quan Bác sĩ lão thành đầu sói mắt lồi Nab Ae Eliba đến và
ra lệnh cho cụ phải nghiên cứu xem có giống vật nào gọi
là con ma văn tự không?
Kể từ ngày đó, học giả
Nab Ae Eliba mỗi ngày cứ phải lui tới cái thư viện đang có
vấn đề (thực ra, nói về số phận của thư viện này thì
được biết là nó đã bị vùi chôn dưới lòng đất khoảng
hai trăm năm sau đó và mãi đến hai nghìn ba trăm năm sau nữa
mới được khai quật nhờ một sự tình cờ). Như thế, theo
lệnh nhà vua, cụ già đã phải chúi mũi vào việc nghiên cứu,
mò mẫm trên hàng vạn pho sách .
Vùng Lưỡng Hà (Mesopotamia)
khác với Ai Cập ở chỗ không sản xuất được Papyrus, loại
thực vật dùng vào việc chế giấy. Để viết, họ phải
dùng bút cứng khắc lên các tấm bảng bằng đất sét những
phù hiệu của một hệ thống văn tự hình thù rất phức
tạp.giống như những cái nêm bánh xe (cuneiform). Sách vở là
những tấm ngói thành ra những thư viện trông chẳng khác
nào nhà kho một cửa hàng bán đồ gốm. Còn trên bàn làm
việc của cụ già (chân bàn được làm bằng chân sư tử
thứ thiệt còn nguyên móng) thì cùng với thời gian những
tấm ngói đã chồng chất lên như núi. Trong mớ trí thức
cổ xưa và nặng nề này, cụ già loay hoay tìm kiếm nhưng
chỉ là công cốc bởi vì sách vở không lưu lại một lý
thuyết khả dĩ làm sáng tỏ sự hiện hữu của những con
ma văn tự. Thế nhưng, dù văn tự có linh hồn hay không, cụ
bắt buộc phải tìm ra câu trả lời. Cụ bèn bỏ đống sách
qua một bên và suốt một ngày trời, chỉ chuyên chú nhìn
vào một chữ. Thường thì các ông thầy bói khi tập trung
nhìn vào một lá gan dê, họ có thể đoán được một số
điều. Cụ cũng bắt chước phương pháp tập trung tinh thần
và trầm tư của họ những mong tìm ra một sự thực nào đó.
Giữa lúc ấy thì có một tia
chớp lóe lên trong óc cụ. Một con chữ mà cụ đã chăm bẳm
nhìn thật lâu bỗng dưng tự giải thể làm cho cụ thấy trước
mắt mình chỉ có một nhúm đường nét mà mỗi nét khi đứng
riêng rẽ sẽ không mang một ý nghĩa nào cả. Nhưng cớ sao
những đường nét vô nghĩa ấy khi quấn quít lấy nhau lại
sinh ra âm thanh và có ý nghĩa nhỉ? Vị học giả giàu kinh
nghiệm Nab Ae Eliba của chúng ta cũng không cách chi hiểu nổi.
Cụ kinh ngạc vì từ ngày chào đời, đây là lần đầu tiên
cụ mới phát hiện một điều kỳ lạ như thế. Những gì
mà suốt 70 năm nay, cụ xem là đương nhiên và bỏ qua thì
bây giờ không thể gọi là đương nhiên hay tất nhiên nữa.
Làm như có một cái vảy đã rớt ra khỏi con ngươi. Cụ tự
hỏi không biết cái gì đã làm cho những đường nét lẻ
tẻ, không ăn nhập gì với nhau mà khi kết hợp, lại có thể
tạo ra một âm thanh và mang lấy một ý nghĩa. Nghĩ đến đây,
cụ không còn do dự nữa. Nhất định là những con chữ phải
có một linh hồn. Nếu một con người mà tay, chân, đầu,
móng và gan ruột không được kết hợp bởi linh hồn thì
không thể gọi là người, lẽ nào những đường nét vô nghĩa
lại có thể tạo ra được âm thanh và ý nghĩa nếu chúng
không chịu sự dẫn dắt của linh hồn?
Đi từ khám phá sơ khởi này,
quan Bác sĩ từng bước một đã suy ra tính chất của cái
con ma văn tự. Đó là một sự tồn tại mà đến lúc đó
cụ chưa hề biết. Tính ra thì những con ma văn tự này nhiều
vô số kể. Chúng rất mắn, sinh con đẻ cái đấy dẫy giống
như đám chuột đồng.
Cụ Nab Ae Eliba mới cất bước
dạo quanh thủ đô Nineveh, bám lấy mấy người vừa mới biết
đọc chữ gần đây, hỏi thăm họ thật tường tận để
xem thử trước và sau khi biết chữ, cuộc đời của họ có
gì thay đổi không. Cụ định tìm hiểu xem những con ma văn
tự có tác động gì lên con người hay không? Nhờ đó mà
cụ kiếm ra những con số thống kê thật là độc đáo.
Theo thống kê đó thì có những
người kể từ ngày biết chữ đột nhiên không còn khéo tay
bắt rận như xưa nữa, lại có những người đâm ra mau nước
mắt [2],
có những người trước đây khi ngẩng lên trời thấy được
bóng chim ưng thì nay những con chim ấy đã biến mất khỏi
tầm nhìn của họ, lại có những người không còn nhìn được
màu da trời xanh như ngày xưa nữa. Những loại người có
triệu chứng nói trên chiếm đại đa số trong các trường
hợp thăm dò."
Cụ Nab Ae Eliba còn chép trong
một cuốn bị vong lục (memorandum) dưới dạng đất nung những
câu như sau: "Con ma văn tự khoét tròng mắt của người ta
và ăn nó đến rỗng tuếch giống như dòi bọ biết đục
qua cái vỏ cứng của hạt óc chó và xơi gọn bên trong". Đó
là chưa kể đến sự gia tăng về con số những kẻ từ khi
biết đọc chữ liền bắt đầu mắc bệnh ho hen hay khổ sở
vì hắt hơi, nấc cụt và cả tiêu chảy. Cụ đã ghi chú tiếp:"Phải
hiểu là con ma văn tự còn muốn phá hoại các cơ quan khác
như mũi, cổ họng và phần bụng của người ta nữa. Khi biết
đọc chữ rồi, một số người bỗng rụng tóc rất nhanh,
một số khác thấy chân cẳng của họ trở nên yếu ớt,
hay run lẩy bẩy, còn cằm thì dễ bị lệch khớp. Cuối cùng
nhà học giả đã phải kết luận: "Văn tự rất có hại và
khi đến chỗ cực độ, nó sẽ làm tê liệt tinh thần người
ta. Nếu so sánh với thời kỳ trước khi biết đọc thì văn
tự đã làm cho tay thợ giỏi trở thành vụng về, chiến sĩ
dũng cảm trở thành nhút nhát còn người đi săn thì khi gặp
sư tử, sẽ không còn biết cách bắn cho trúng nữa". Những
điều đó đều được chứng minh một cách hùng hồn bằng
con số thống kê.
Có kẻ còn tuyên bố rằng
từ khi quen với văn tự, nếu có ôm gái, hắn ta cũng chẳng
còn thấy khoái cảm. Ở đây, cụ Nab Ae Eliba có chú thích
thêm rằng, nếu lời đó được thốt ra từ miệng một ông
lão đã quá 70 thì có thể không phải lỗi của văn tự. Người
Ai cập thường bảo cái bóng của một món đồ nào đó có
thể được xem như là một phần linh hồn của món đồ ấy.
Nếu vậy thì văn tự chắc bản chất cũng không khác gì với
cái bóng của một món đồ
Chữ "sư tử" chẳng hạn, nó
không phải là "cái bóng" của con sư tử đó sao? Một khi người
đi săn đã biết đọc hai chữ "sư tử", anh ta không còn nhắm
bắn con sư tử thật nữa mà chỉ nhắm vào cái bóng của
nó. Một anh con trai khi đã biết đọc chữ "nữ"女, thay vì
ôm lấy người con gái bằng xương bằng thịt, phải chăng
anh chỉ có thể ôm được cái bóng của cô ta? Thuở chưa
có văn tự nghĩa là thời trước cả trận đại hồng thủy
ở Pil Napishumchi, niềm hoan lạc cũng như tri thức đều từ
ngoài đi trực tiếp vào bên trong con người. Chứ như ngày
nay, chúng ta chỉ còn biết mỗi cái bóng của hoan lạc và
cái bóng của tri thức được gói ghém bên trong một cái vỏ
bọc gọi là văn tự mà thôi. Mấy lúc sau này, trí nhớ của
loài người có vẻ kém sút. Cái này cũng là một kết quả
khác đến từ trò chơi khăm của văn tự đấy.
Ngày nay, nếu loài người không
ghi lại bằng văn tự thì họ không nhớ được điều gì
nữa. Cũng như từ khi biết mặc quần áo. da thịt nhân loại
trở nên yếu đuối mong manh. Thế rồi lúc người ta chế
được những thứ như xe cộ thì chân cẳng của họ cũng
trở nên yếu đuối khó coi. Kịp đến khi văn tự được
phổ cập khắp nơi thì đầu óc con người không còn dùng
được vào việc gì nữa.
Cụ Nab Ae Eliba có quen với
một ông lão mê sách. Ông lão này còn thông thái hơn cả cụ,
một người vốn đã thông thái quá cỡ rồi. Ông lão vừa
được nhắc tới không những biết hai ngôn ngữ là tiếng
Sumerya và Alameya mà còn đọc làu làu loại văn tự mà người
Ai Cập viết trên giấy Papyrus hay da cừu. Có thể nói là không
có chuyện gì về thời cổ đại được chép bằng văn tự
mà ông lão không rành rẽ. Lão biết cả những chuyện như
dưới đời vua Tsukuruchi Ninibu cai trị, vào năm nào tháng nào,
khí hậu ra sao. Thế nhưng lão không thèm để ý đến việc
ngày hôm nay trời nắng hay có mây. Lão thuộc lòng những câu
nói đã làm dịu bớt mối sầu của người đẹp Sabitsuga
Gilgamesh [3]
nhưng không biết tìm ra câu chữ để an ủi ông hàng xóm của
mình vừa mất một cậu con trai. Lão biết Hoàng hậu Samuramatto
của vua Adaddo Nilali thích mặc loại xiêm y nào nhưng khi hỏi
lão là cụ đang mặc bộ đồ nào trên người thì lão hầu
như không tìm ra câu trả lời. Tóm lại, ông lão đó thật
là một người yêu sách vở và văn tự hết cỡ nói!

Cổ văn
tự và sách vở bằng đất nung ở vùng Lưỡng Hà
Không những chỉ cầm lên để
đọc, để ngâm nga rồi mân mê chúng, có lẽ thấy mình chưa
đủ chán sách nên có lúc lão đã lấy răng cắn đến vỡ
vụn một phiên bản tối cổ của cuốn sách bằng đất nung
trong đó có chép truyền thuyết về nàng Gilgamesh rồi đem
nó hòa với nước và uống đến cạn. Con ma văn tự đã ăn
mòn đôi mắt của lão không thương tiếc làm lão bị cận
thị nặng. Bởi cứ mãi mê dán mắt vào mấy bộ sách và
đọc chúng suốt ngày, cái mũi quặp như chim ưng của lão
đã quét qua quét lại trên những miếng đất nung đến độ
đầy chỗ chai cứng. Không những thế, văn tự còn ăn phạm
vào tủy sống của lão nữa làm cho lưng lão gù đi và cái
cằm của lão giờ đây đã dính liền với lỗ rốn. Có lẽ
lão cũng không ý thức rằng mình có một cái bướu trên lưng.
Nội một chữ "bướu" thôi, lão có thể diễn tả bằng năm
thứ chữ viết của năm nước khác nhau. Theo cách nhìn của
quan Bác sĩ Nab Ae Eliba thì lão già này có thể được kể
vào hàng đầu trong đám nạn nhân của con ma văn tự. Nhìn
bên ngoài người ta thấy lão thật thảm hại nhưng thật ra,
bên trong, lúc nào lão cũng tỏ ra là mình rất hạnh phúc với
một niềm hạnh phúc khiến cho người khác phải thèm thuồng.
Nếu bảo đây là một thái độ không thể hiểu nổi thì
quả đúng như vậy. Cụ Nab Ae Eliba xem đó là một thứ ma
lực giảo hoạt của con ma văn tự một khi nó trở thành thứ
ma túy làm cho nạn nhân phải say sưa.
Đôi khi Đại đế Ashul Bani
Apal hay ngả bệnh. Quan Ngự y Alad Nana xem triệu chứng thì
biết không phải là bệnh nhẹ nên đã mượn áo xống của
ngài quấn quanh người mình để giả dạng đức vua với ý
định đánh lừa cặp mắt của Thần chết Eleshukigal để
thần chuyển bệnh tật từ người Đại đế sang người mình.
Đây chỉ là một tập quán thường thấy trong giới y khoa
cổ truyền nhưng điều đó đã làm cho một nhóm thanh niên
không bằng lòng và nhìn việc đó với cặp mắt nghi ngờ.
Họ bảo rằng hành động của quan Ngự y không hợp lý. Lẽ
nào Thần Chết Eleshukigal có thể bị qua mặt như một đứa
trẻ con vì một cái kế mọn như vậy của ông ta.
Quan Bác sĩ - con người thông
thái Nab Ae Eliba - khi nghe họ nói như thế, đã lộ vẻ khó
chịu. Cũng như đám thanh niên nọ, khi tìm đủ mọi cách để
đi đến sự nhất quán trong ý nghĩ, lại để lộ ra những
chỗ kỳ khôi trong lối lập luận. Chỗ kỳ khôi ấy giống
như cảnh một anh chàng người thì cáu bẩn từ đầu đến
gót mà lại muốn chừa ra một nơi - như chân hay đầu móng
chân - và giữ nó thật sạch sẽ bóng láng. Bọn thanh niên
đó không phân biệt được vị thế của một con người đang
bao quanh bởi một vầng mây thần bí. Theo ý của quan Bác sĩ
già thì một chủ nghĩa hợp lý thiển cận cũng có thể bị
xem như bệnh hoạn. Không còn gì để nghi ngờ nữa, cái bọn
đã dàn xếp để cho chứng bệnh này xuất hiện chỉ có thể
là những con ma văn tự.
Một hôm có sử gia trẻ tuổi
(gọi anh ta là chuyên viên ghi chép trong cung thì cũng được)
tên là Isshudei Nabu đến gặp quan Bác sĩ già và đặt câu
hỏi: "Lịch sử là gì hở cụ?". Rồi khi nhìn bộ mặt đang
nghệch ra vì ngạc nhiên của cụ ta, anh sử gia kia mới lên
tiếng trình bày quan điểm của mình:
-Về trường hợp cái chết
của vương huynh Shamashu Shum Ukin - vua thành Babylon - mới đây,
có rất nhiều thuyết được đưa ra. Trong số đó, có thuyết
cho là vào tháng cuối cùng, vì quá tuyệt vọng, ông vua này
đã có một cuộc sống truy hoan dâm dật không bút nào tả
xiết. Ngược lại, có thuyết cho hay là trong thời gian đó,
mỗi ngày ông đều giữ trai giới và tiếp tục cầu khấn
để xin Thần Shumashu phù hộ. Mặt khác, nếu có giả thuyết
cho là chỉ có vị Đệ nhất vương phi là đã gieo người
vào trong đám lửa để theo chồng thì cũng có thuyết cho rằng
sau khi bắt hàng trăm phi tần cung nữ đưa lên giàn hỏa, ông
ta là người cuối cùng đã nhảy vô đống củi đang cháy.
Dù trong hai trường hợp, các nhân vật ấy đều tiêu ra khói
cả nhưng không ai biết nội dung thuyết nào mới là chính
xác. Hình như gần đây Đại Đế đã tự mình tuyển chọn
một trong những lối trình bày sự việc và ra lệnh giữ nó
lại như ký lục chính thức. Đây chỉ là một ví dụ nhỏ
nhoi thôi nhưng xin hỏi cụ, nếu chúng ta xem đó là lịch sử
thì có thỏa đáng hay không?
Thấy viên quan Bác sĩ lão thành
lịch lãm giữ một sự im lặng khôn ngoan, người chép sử
trẻ mới đổi cách hỏi:
-Lịch sử có phải là những
chuyện từng xảy ra vào thời xưa hay không? Hoặc giả nó
chỉ là những gì đã được chép lại trên tấm đất nung
kia?
Viên quan Bác sĩ cảm thấy
trong câu hỏi của anh chàng này có một sự đánh đồng giữa
việc người xưa đi săn sư tử và cái phù điêu chạm khắc
cảnh săn sư tử, nhưng vì cụ không tiện nói trắng ra nên
đã chọn kiểu trả lời như sau:
-Lịch sử là điều ngày xưa
từng xảy ra, sau đó lại được chép trên những tấm bảng
đất nung. Theo tôi, hai thứ đó có chỗ nào khác nhau đâu!
Người chép sử lại hỏi:
-Còn trường hợp bỏ sót thì
sao?
-Sao lại bỏ sót được nhỉ?
Xin anh chớ có đùa! Nếu những gì không được chép lại,
chỉ là vì nó không có. Nếu hạt giống không nẩy mầm chỉ
vì ngay từ đầu, nó chưa bao giờ tồn tại. Thưa anh, lịch
sử là cái chép trên mấy tấm bảng bằng đất nung đó ạ!
Khuôn mặt của người viết
sử trẻ đanh lại. Anh ta nhìn tấm bảng bằng đất nung mà
cụ già vừa đưa ngón tay ra chỉ cho mình xem. Đó là một
trang kể lại cuộc chinh phạt xứ Haldia của vua Sargon đã
được sử gia tên tuổi nhất nước này là Nab Shalim Shun chép
lại. Trong khi nói chuyện, những hạt lựu mà quan Bác sĩ nhổ
ra khi đang nhấm nháp đã làm lem luốc cả bề mặt của tấm
bảng.
-Này anh Ishudi Nab ạ! Tôi thấy
anh vẫn chưa hiểu hết sức mạnh khủng khiếp của những
con ma văn tự mà vị Thần trí tuệ Nabuu - người được cả
thành phố Borsippa [4]
kia tôn thờ - đã ban cho bọn tôi tớ của ngài. Những con
ma văn tự đó khi đã chộp được một sự kiện gì rồi,
chúng sẽ khiến cho nó xuất hiện theo hình thù chúng định
đoạt
Sự kiện ấy sẽ trở thành
bất tử. Ngược lại, sự kiện nào không có bàn tay của
những con ma văn tự ấy nhúng vào thì dù là cái chi chi đi
nữa, cũng không thể nào tồn tại lâu dài. Từ thời thái
cổ cho đến nay, những ngôi sao không được nêu tên trong
cuốn sách của Nun Enrin thì không biết vì cớ gì, đều bị
coi như không có. Chúng không có chỉ vì không được Nun Enrin
đưa vào sách của ông ta dưới dạng văn tự đó thôi. Những
chuyện như sao Marzuk (Mộc Tinh, Jupiter) khi xâm phạm vào vùng
trời của người chăn dê (Mục Dương, Orion) [5],
chư thần sẽ giáng cơn thịnh nộ, còn nếu vầng trăng bị
ăn khuyết mất phân nửa trên thì bộ tộc Fumooru [6]
sẽ gánh lấy tai họa...đều đã được ghi chép bằng văn
tự trong các pho sách cổ. Ngay cả việc sắc dân Sumelya không
hề biết ngựa là gì cho nên trong ngôn ngữ của họ, không
có từ vựng nào dùng để chỉ ngựa. Thật không có gì kinh
khủng bằng sức mạnh của những con ma văn tự. Cả anh lẫn
chúng tôi, nếu cứ nghĩ rằng văn tự là một công cụ dùng
để ghi chép, là bé cái lầm. Đối với những con ma văn tự,
chúng ta chỉ là một lũ đầy tớ bị sai bảo một cách tàn
tệ. Thế nhưng tai hại chúng mang lại mới kinh khiếp làm
sao! Hiện nay tôi đang nghiên cứu dở dang về những con ma
ấy. Bây giờ, nếu anh bắt đầu có sự nghi ngờ đối với
việc dùng văn tự để ghi chép lịch sử là bởi vì anh đã
quá gần gũi với những con ma ấy và bị trúng độc khí của
chúng rồi.
Bản đồ
Đế quốc Assyria ở vùng Trung Đông trước Công nguyên
Một lần nữa, chàng sử gia
trẻ tuổi lại mang bộ mặt kỳ dị khó hiểu còn quan Bác
sĩ già thì từ nãy giờ đã lộ vẻ buồn bã khi thấy một
người trẻ tuổi hãy còn đầy triển vọng như anh ta đã
sớm bị những con ma văn tự đang tâm hãm hại. Một khi đã
quá gần gũi với văn tự, thế nào anh ta cũng phải ôm lấy
một mối hoài nghi về nó. Hai việc này hoàn toàn không mâu
thuẫn với nhau. Như mới gần đây thôi, quan Bác sĩ đã thỏa
mãn cái thói tham ăn bẩm sinh của mình bằng cách chén gần
hết một cái đầu dê nướng nhưng rồi kể từ ngày đó,
khi nhìn thấy dù là một cái đầu dê sống, cụ đã thấy
ngán đến tận cổ.
Sau khi anh chàng sử gia ra về
được một đỗi, bất chợt quan Bác sĩ Nab Ae Eliba mới đưa
tay gãi cái đầu đã thưa tóc của mình mà ngẫm nghĩ. Rốt
cuộc, hôm nay, khi đứng trước chàng trai trẻ kia, không khéo
cụ đã ca tụng quyền lực của nhưng con ma văn tự ấy? Thế
thì đáng tức thật. Cụ già chậc lưỡi. Đến như mình mà
còn bị những con ma văn tự ấy đánh lừa nữa là!
Trên thực tế thì xưa kia,
quan Bác sĩ có lần bị những con yêu ma văn tự này truyền
cho một chứng bệnh khủng khiếp. Số là để xác nhận xem
giống yêu ma văn tự này tồn tại hay không, cụ đã sống
nhiều ngày liên tiếp chỉ để nhìn trừng trừng vào một
con chữ. Những con chữ cho đến lúc đó đều có một ý nghĩa
và âm thanh nào đó, nay đột nhiên tự phân giải và chỉ
còn là một tập hợp những đường nét, y như điều đã
được trình bày trong đoạn trên. Thế rồi kể từ ngày đó,
hiện tượng này đã lập đi lập lại nhiều lần và không
chỉ xảy ra trong lãnh vực văn tự mà bất cứ nơi nào. Chẳng
hạn như trong lúc cụ nhìn một ngôi nhà thì ngôi nhà đó
sẽ giải thể thành một tập hợp những thanh gỗ, phiên đá,
vôi sơn vô ý nghĩa dưới mắt và trong đầu cụ. Nó làm cho
cụ không còn hiểu tại sao người ta có thể chọn những
thứ này làm nơi cư trú. Khi nhìn thân thể một người cũng
vậy, cụ bèn phân tích nó thành từng bộ phận một và thấy
mình đang đứng trước những hình thù kỳ quái, vô nghĩa.
Tại sao những hình thù như thế này có thể được gọi là
con người nhi? Cụ hoàn toàn không hiểu nổi! Vấn đề ấy
không chỉ xảy đến cho những gì đã lọt vào mắt cụ đâu.
Tất cả việc gì người khác làm hằng ngày cũng như thói
quen của họ, cụ đều đem ra phân tích hết. Vì đã trở
thành một người mắc "bệnh phân tích" nên cụ không còn
hiểu được ý nghĩa của chúng và đi đến chỗ hoài nghi
căn nguyên tất cả sinh hoạt của con người. Thành thử nhà
thông thái Nab Ae Eliba trước đây bây giờ đã hóa thành một
kẻ khật khùng. Cụ nghĩ nếu cứ tiếp tục nghiên cứu, mình
sẽ có ngày toi mạng vì những con ma văn tự. Quá sợ hãi
trước viễn tượng ấy, cụ vội vàng thu tóm kết quả nghiên
cứu được để tâu ngay lên Đại đế Ashul Bani Abal. Dĩ nhiên
là trong bản báo cáo này, cụ đã đưa vào một số nhận
định chính trị. Cụ cho rằng một quốc gia thượng võ như
Assyria không bao lâu nữa sẽ bị những con ma văn tự nuốt
từ từ và cay đắng hơn nữa là trước sự điềm nhiên của
mọi người bởi vì dân chúng hầu như không ai ý thức. Nếu
từ ngay bây giờ nhà vua không cải tổ để khỏi chạy theo
văn tự một cách mù quáng thì về sau, dù có hối tiếc thì
đã muộn màng vv...
Tất nhiên những con ma văn
tự không để cho kẻ dám sàm báng chúng được yên thân.
Bản báo cáo của học giả Nab Ae Eliba đã khiến Đại đế
cảm thấy bực bội. Từ cương vị một người ngưỡng mộ
nhiệt thành Thần Nabuu và cũng là một nhà văn hóa hàng đầu
đương thời, Đại đế đương nhiên phải có thái độ như
thế. Vị học giả lão thành bèn bị triều đình ngưng chức
ngay lập tức. Nếu Nab Aer Aliba không phải là bậc sư phó
của Đại đế từ lúc ngài còn để chỏm thì có lẽ cụ
đã bị cực hình tùng xẻo rồi cũng nên. Tuy có ngạc nhiên
và không hài lòng vì bị cư xử như thế nhưng cụ đã biết
thừa rằng đó là sự phục thù của những con ma văn tự
xảo quyệt.
Nào đã hết đâu. Vài hôm
sau, ở địa phương Nineveh Albara xảy ra một trận động đất
và lúc ấy, quan Bác sĩ đang ở trong phòng đọc sách nhà ông.
Vì ngôi nhà đã quá cũ kỹ nên mấy bức tường liền bị
sập và kéo các giá sách đổ theo. Bao nhiêu là thư tịch,
phải đến vài trăm tấm bảng đất nung - cùng với lời nguyền
rủa khủng khiếp của những con ma văn tự - đã đổ ập
lên trên người kẻ sàm báng nó. làm cho cụ ta dập xác và
chết thảm thương.
Dịch
xong ngày 31/07/2020
Thư mục tham khảo:
-
Nakajima Atsushi, Môjika (Văn tự
họa) bản Thư viện trên không Aozora Bunko 1997 cập nhật 2014
trích từ Toàn tập Chikuma Bungaku Zenhuu, quyển nói về Nakajima
Atsushi, 1992. Nguyên tác Nhật ngữ đăng trên Tạp chí Bungakukai
(1942).
-
Ảnh minh họa từ trang Internet.
_____
[1]
- Assyrie : tên một sắc dân thời cổ sống ở vùng Lưỡng
Hà (Mesopotamia), sống bằng săn bắn và nông nghiệp. Họ đã
dựng lên được một đế quốc lớn, lấy thành phố Nineveh
làm thủ đô nhưng bị các nước lân cận tiêu diệt từ trước
Công Nguyên.Những người tự xưng là hậu duệ của sắc dân
nầy hiện sống rải rác tại các vùng thuộc lãnh thổ Iraq,
Syria, Thổ Nhĩ Kỳ và Iran.
[2]
- Nguyên văn: Dễ bị bụi bay vào mắt.
[3]
- Có lẽ là một nhân vật trong Epic of Gilgamesh, một bộ sử
thi của người Assyria, đã ra đời 1000 năm trước Thánh Kinh,
trước cả Odyssey và Illyad, hai thiên anh hùng ca của Hy Lạp.
[4]
- Thành phố thời cổ đại ở vùng Lưỡng Hà, không xa Babylon
(nay thuộc về Irak) là bao. Rất phồn vinh và phát triển mạnh
về các lãnh vực như thiên văn và chiêm tinh, đặc biệt dưới
thời vua Nepcadonezar II khoảng giữa thế kỷ thứ 6 TCN.
[5]
- Theo các từ điển thông dụng thì Orion là tên một vị thần
thời Cổ Hy Lạp, con trai Poseidon, có sức mạnh phi thường,
thích săn bắn, rất đẹp trai và đa tình. Chòm sao Orion có
3 vì sao ở trung tâm. Chưa rõ ý nghĩa điều Nakajima muốn nói
trong đoạn này.
[6]
- Có thể là chuyện nhật thực, nguyệt thực nhưng chưa rõ
điển tích.
|