Lược truyện:
Xưa có một người hầu việc trong
phủ của Fujiwara no Shunzei (1114-1204), thi hào và cũng là bầy
tôi được Thiên hoàng chỉ định soạn tuyển tập Senzaishuu
(Thiên tải tập = Tập thơ nghìn năm, 1187). Shunzei, chủ của
ông ta, lúc đó đã chết và ông cũng xuống tóc đi tu [1].
Vào một ngày xuân, ông quyết định đi thăm một vài địa
điểm ở miền Tây Nhật Bản mà mình chưa có dịp đặt chân.
Thế rồi, từ giã Kyôto, ông lên đường cùng với vài nhà
sư tháp tùng. Khi ghé qua bãi biển Suma (Tây Nam Kobe bây giờ)
- một địa danh nổi tiếng trong văn chương cổ điển - ông
thấy có có một cây anh đào dại. Chợt một lão già hiện
ra trước mặt. Ông lão đến trước cây ấy, hiến hoa để
cầu nguyện cho vong linh của một người nào đó. Thấy thế,
nhà sư mới gợi chuyện. Nhân vì chiều đang xuống nhanh, ông
bèn hỏi lão già xem có thể cho mấy người lỡ độ đường
trọ qua đêm được không thì lão bèn đọc cho nghe một câu
thơ của Taira no Tadanori (Bình, Trung Độ, 1144-1184), một vị
tướng trong binh đoàn Heike, rồi khuyên ông hãy tạm qua đêm
dưới gốc cây anh đào dại. Lão già còn nói thêm là mình
muốn nhờ ông làm pháp sự để an ủi cho cây hoa anh đào
vì nó được xem như tấm bia đánh dấu mộ phần của tướng
Tadanori. Khi nhà sư đã chấp thuận làm lễ cầu siêu cho cây
hoa theo nguyện vọng của mình, lão già tỏ ra sung sướng rồi
khuất dạng đằng sau vòm hoa.
Đêm hôm đó, khi đang nằm ngủ
dưới gốc cây, nhà sư thấy vong hồn của Tadanori hiện ra
trong giấc mơ. Vị tướng than thở rằng có một bài thơ mình
viết tuy được thi hào Shunzei tuyển đăng vào thi tập Senzai-shuu
nhưng nó bị xếp vào mục thơ vô danh (yomibito-shirazu) nên
ông yêu cầu nhà sư nhắn với Fujiwara no Teika (1162-1241), con
trai Shunzei và cũng là một nhà thơ lỗi lạc, để ông ấy
có thể đính chính cho công chúng biết bài đó là thơ của
Tadanori. Sau khi đã diễn lại những giây phút cuối cùng cuộc
đời chiến sĩ trong trận Ichi-no-tani (1184), vong hồn bèn quay
lại chỗ nằm dưới gốc cây và xin nhà sư hãy làm lễ cầu
siêu cho mình.
Đặc điểm của vở tuồng:
Chức quan tứ phẩm Tả trung tướng
Taira no Tadanori, vai chánh của vở, là một võ tướng cuối
thời Heian, nổi tiếng dũng cảm và được kính trọng. Ngoài
ra, ông còn là một nhà thơ tài ba. Tóm lại, đó là một nhân
vật văn võ song toàn, khả ái, với hai khuôn mặt khác nhau:
nhà thơ và võ tướng. Lúc ấy, cánh Heike của gia đình ông
đang đại bại trước phe Genji và vị võ tướng kiêm nhà
thơ của chúng ta cuối cùng cũng đã bỏ mình trong trận giao
tranh có tính quyết định ở thung lũng Ichi-no-tani.
Tadanori rất yêu thơ Waka và chủ
đề của vở tuồng này là sự gắn bó của một con người
đối với thi ca, nó đã giúp ông vượt qua cánh cửa ngăn
cách cuộc đời này với cuộc đời sau. Dù cho thơ của Tadanori
được chọn đăng vào Senzai-shuu, tập thơ soạn theo sắc chiếu
của Thiên hoàng nhưng ông lại không được nêu tên chỉ vì
gia đình ông là những kẻ chiến bại và trở thành kẻ địch
của triều đình (triều địch, chôteki). Nay hồn ma Tadanori
hiện ra trong giấc mộng của nhà sư vân du cũng là người
từng giúp việc cho Fujiwara no Shunzei. Ông đã nhờ nhà sư chuyển
đến Teika - con trai thi hào - lòng mong ước được phục hồi
danh dự.
Cái đẹp của vở Nô Tadanori nằm
ở chỗ nó đã lột tả được niềm đam mê bỏng cháy của
vị tướng lãnh / thi nhân đối với thơ. Vở tuồng chủ yếu
dựa trên một câu thơ của Tadanori nói về hoa anh đào. Tuồng
đã mô tả được một cách sống động đam mê đó trong một
khung cảnh huyền ảo, đầy chất thơ. Nhân vì nó cũng gợi
lên cả những cảnh tượng chiến đấu nên khán giả đồng
thời có thể sống lại trong bầu không khí thời đại Genpei
tranh hùng (tranh giành quyền lực giữa Genji và Heike) mà Tadanori
đã sống, cũng như nhập hồn mình vào trong giấc mộng của
nhà sư vân du. Đó là những lý do đã khiến cho tác phẩm
này được xem như có giá trị vượt không gian và thời gian.
Thông tin cơ sở về tác phẩm:
Lưu phái: Ngũ lưu (5 trường phái
chính) đều diễn.Bản cổ có tên là Satsuma no kami (Quan trấn
thủ vùng Satsuma), một chức tước khác của Tadanori.
Lớp diễn: lớp 2. Nô A-tu-la (võ
tướng)
Soạn giả: Zeami Motokiyo.
Xuất điển: Truyện Heike (Heike Monogatari)
chương 9.
Cảnh: Bãi biển Suma trong tỉnh Settsu
(nay gần Kobe).
Phối vai:
Maejite: Lão già.
Nochijite: Hồn ma Taira no Tadanori.
Waki: Nhà sư vân du (nguyên là người
giúp việc cho thi hào Fujiwara no Shunzei..
Wakizure: Tăng nhân tháp tùng nhà
sư ( 2, 3 người).
Ai-Kyôgen: người đàn ông trên bãi
(ura no toko).
Mặt nạ:
Maejite: Waraijô, Asakurajô, Sankôjô
(tức là những mặt nạ người già quen thuộc).
Nochijite: Chuujô, Imawaka (các mặt
nạ đàn ông trẻ hay trung niên).
Mặt nạ Chuujô thì mày hơi nhíu
một chút, sắc mặt trắng (như một công tử con nhà quí tộc).
Theo sử sách, Tadanori chết lúc đã 40 tuổi nhưng trong tuồng
Nô thì vai này lại là một người trẻ.
Trang phục (lược thuật):
Maejite: Đội Jô-kami (tóc mượn
dùng cho người già), mặc mizugoromo (kimono bình thường và
chỉ dài đến đầu gối), thắt koshi-obi (giải lưng) giắt
quạt, cầm gậy và một nhành lá.
Nochijite: Trùm kuro-tare (tóc
giả màu đen buông xuống vai), đội nashi-ushi eboshi (một loại
mũ cao màu đen có thắt giải giây trắng), mặc hitoe-happi (áo
khoác ngắn và đơn kiểu nhà chùa, áo bên trên kiểu chôken,
quần váy hakama ống rộng (ôguchi) trắng hay nhuộm màu, thắt
giải lưng (koshi-obi), giắt quạt, đeo kiếm và mang cung có
kèm mấy mảnh giấy (chắc để làm thơ, NNT).
Waki: Đội mão sumi-bôshi có
góc cạnh dành cho nhà sư, áo mizugoromo, thắt lưng koshi-obi,
giắt quạt, tay cầm chuỗi bồ đề.
Wakizure: tương tự như Waki.
Ai-kyôgen: Mặc áo quần trên
dưới nguyên một bộ kiểu của vai kyôgen (kyôgen kamishimo).
Cảnh: 2.
Cảnh 1 (Maeba): Bãi biển Suma trong
xứ Settsu, bên gốc cây anh đào tên là Wakaki no sakura, một
ngày mùa xuân vào buổi chiều.
Cảnh 2 (Nochiba): Cùng một chỗ nhưng
ban đêm.
Thời lượng: khoảng 1h40.
Để tiện theo dõi, bản tuồng sẽ
được phân thành 7 tiểu đoạn ABCDEFG. Những đoạn chen giữa
hai dấu hoa thị * chỉ được dùng ở một số lưu phái.
Văn bản (với lời giải thích
in nghiêng)
A. Đoàn lữ hành ghé bãi Suma:
Có một người từng giúp việc
trong phủ thi hào Fujiwara no Shunzei[2]
nhưng nay ông đã xuất gia. Ông bèn cùng vài tăng nhân đi một
chuyến về miền Tây thăm viếng các thắng cảnh mình chưa
có dịp đến. Trên đường, ông ghé qua bãi biển Suma và thấy
có một cây anh đào hoang dã hiện ra trước mắt đoàn người.
Sư vân du / các sư tháp tùng:
Một người đã lánh xa cuộc đời đầy ưu tư như ta thì
có màng gì việc thưởng hoa. Đã lánh cuộc đời rồi, ta
không còn bị vẻ đẹp của hoa kia quyến rũ. Giờ đây lạnh
lùng với những lạc thú trần gian, dẫu vầng trăng kia có
bị mây che đi nữa, ta cũng chẳng bận lòng[3].
Sư vân du: Tôi từng giúp việc
trong phủ ngài Shunzei nhưng từ khi chủ nhân tạ thế, tôi
đã xuất gia. Vì chưa từng đặt chân lên phần đất miền
Tây [4],
tôi quyết định đi thăm cho biết.
(Michiyuki-bun =Văn tả cảnh đi đường)
Chúng tôi nhắm hướng ly cung Toba ở phía nam kinh thành mà
tiến bước và nay đã qua khỏi Yamazaki, nơi giáp giới Kyôto.
*Các sư / hay chỉ có sư vân du*:
Dù Sekido no yado (Quan Hộ) tiếng là nơi có nhà trọ cạnh cửa
ải [5]
nhưng chúng tôi sẽ không qua đêm mà vẫn tiếp tục cuộc
hành trình.Thật vậy, chúng tôi ít có dịp dừng chân và ngủ
lại trong suốt chuyến đi này. Về phần tôi, vì mang tâm sự
quá đau thương nên không còn muốn dính líu tới cõi đời
nhơ bẩn này nữa. Giờ đây, chúng ta hãy vượt sông Akutagawa [6],
vẹt những bụi tre còi trên cánh đồng Inano mà tiến bước.
Sư vân du / Các sư: Ao Koya
phản chiếu ánh trăng thật đẹp, nước trong leo lẻo thấy
tận đáy. Có tiếng gió thổi qua lau lách...
Các sư: Khi tiếng gió luồn
qua lau lách...
Sư vân du / Các sư: ...vọng
vào bên tai thì những nỗi sầu đời cũng theo cánh cửa đó
mà vào cho dù tôi đã muốn tránh cuộc đời. Vượt qua ngọn
núi Arima và cánh đồng Inano [7]mà
lòng của người xuất gia vẫn còn bị quấy rầy bởi cuộc
đời đầy cay đắng. Trong túp lều tạm bợ dành cho khách
đi đường, chúng tôi đã bị kéo ra khỏi giấc ngủ vật
vờ vì tiếng chuông chùa Shitennoji (Tứ Thiên Vương Tự) ở
Naniwa (Ôsaka) từ xa vẳng đến bên tai. Chúng tôi đã rời
Naniwa và tiến về khu đầm cạn Naruogata. Này nhìn xem, ngoài
khơi xa có những chiếc thuyền con đang lênh đênh, ngoài khơi
xa có những chiếc thuyền con đang lênh đênh! [8]
Sư vân du: Vì chúng ta nhanh
chân bước, nên giờ đây đã đến được bãi Suma [9]
trong xứ Settsu. Có một cây anh đào mọc trên ghềnh cạnh
bãi. Có thể đây là cây Wakaki no sakura [10]
nổi tiếng. Chúng mình nên nghỉ chân nhìn nó một chút nhé?
Các sư: Phải rồi, mình ghé
lại đấy đi..
B. Lão già xuất hiện và cúng
hoa cho cây anh đào:
Một lão già tiến đến bên cạnh
cây anh đào nơi các nhà sư vừa ghé xem.Ông lão cúng hoa cho
cây và khấn khứa trước mặt nó.
Lão già: Thực vậy, muốn
sống ở đời mà tôi chẳng biết lo thân để đến nỗi phải
làm những công việc nặng nhọc để đắp đổi qua ngày.
Hôm nào không múc nước triều thì cũng phải lên núi kiếm
củi để rang rong khô thành muối.Tôi không có cả thời giờ
để vắt hay hong khô quần áo ướt. Cứ phải mặc nguyên
như thế mà tiếp tục chạy ngược chạy xuôi, hết lên núi
lại xuống biển. Đó là cuộc sống hằng ngày của tôi trong
thôn Suma này.
Tôi thường nghe dân chài ơi ới
và tiếng lũ chim óc cau (chidori) goi đàn mơ hồ vọng đến
từ xa.
Xưa nay, bãi Suma vốn nổi tiếng
vắng vẻ đìu hiu. (Giống như câu thơ xưa của Ariwara no Yukihira
(Tại Nguyên Hành Bình, 818-893) : "Nếu ai có hỏi ta. Xin nói
ở Suma. Ta sống đời cô quạnh, Rang muối bao ngày qua. Nước
triều hòa nước mắt. Tay áo chửa khô là." [11]Những
điều bài thơ nhắc tới đều có thật. Thuyền câu, khói
rang (rong biển) để lấy muối, tiếng gió thổi qua những
rặng tùng...ở đây tất cả đều tịch liêu quạnh quẽ.
*Trên bãi Suma lại có một cây anh
đào nằm dưới bóng núi. Cây được xem như vật để đánh
dấu ngôi mộ của ai đó. Lúc này là đang ở giữa mùa hoa.
Tuy lão đây chỉ là một người khách qua đường nhưng để
đánh dấu cái duyên của lần gặp gỡ đầu tiên nên dù đã
đi ngang nó trên đường lên núi làm lễ, tôi cũng vừa quay
lại chốn này. Xin phép góp thêm một cành anh đào vào trong
bó hoa của mình để cúng dường cho cây, xong mới về nhà.
Cúng kiến xong, tôi sẽ về nhà.*
C. Nhà sư vân du nói chuyện với
lão già:
Nhà sư vân du trao đổi câu chuyện
với lão già.
Sư vân du: Chào, lão trượng,
có phải ông từ trên núi xuồng?
Lão già: Vâng, tôi là người
làm muối sống ven bãi Suma.
Sư vân du: Người làm muối
phải sống trên bãi biển chứ! Thấy ông đi lên núi, tôi
tưởng ông là một lão tiều.
Lão già: *Ông lầm rồi đó
ạ!* Không lẽ một người làm muối chỉ múc nước triều
mà không biết phải đem nó rang khô hay sao?
Sư vân du: Ừ nhỉ! Ông nói
đúng quá. Khi ông rang muối, buổi chiều thấy có khói bốc
lên...
Lão già: ...và tôi lên núi
kiếm củi về chụm lò để giữ cho ngọn khói còn tiếp tục.
Sư vân du: Tuy đường lên
núi khác với đường xuống biển nhưng đâu đâu cũng chẳng
có một ngôi nhà...
Lão già:..và ít khi nghe được
tiếng người. Bãi Suma sao mà vắng vẻ!
Sư vân du: Trên ngọn núi ở
đằng sau bãi...
Lão già: ... có những bụi
cây đem chụm được...
*Hợp xướng / lời các sư:
nơi ấy có loại cây để chụm*
*Hợp xướng (lời sư vân du):
Tôi đi lên núi nhặt củi về chụm lò rang muối.*
Lão già: Vì không biết tôi
chỉ là kẻ rang muối quê mùa, một nhà sư tôn kính đã vô
tình bắt chuyện với tôi.
Hợp xướng: Bãi Suma đặc
biệt không giống nơi nào khác. Gió núi và những cơn lốc
đã thổi xuống đây làm tan tác những cánh hoa. Riêng cây
anh đào có tên Wakaki no Sakura ở Suma, vì mọc ở ven bãi, lại
bị những con gió từ bên kia biển thổi đến đánh cho tơi
tả.
D. Lão già khuyên nhà sư tạm
trú dưới gốc anh đào:
Khi nhà sư vân du nhờ lão già
giúp đoàn người bằng cách cho trọ qua đêm, ông lão đã
khuyên họ nên ngủ đỗ dưới gốc cây anh đào đang ra hoa.
Rồi khi nhà sư hỏi rằng ai sẽ là người chủ trọ (aruji),
lão già đã trả lời:" Chính hoa kia là chủ trọ" (Hana koso
aruji) và đọc lại câu thơ của Taira no Tadanori cho biết cây
anh đào vốn đánh dấu chỗ yên nghỉ nghìn thu của viên dũng
tướng. Nhà sư vân du tụng một đoạn kinh để an ủi vong
linh Tadanori, lão già tỏ ra sung sướng và biến mất đằng
sau vòm hoa.
Sư vân du: Này, lão trượng.
Trời sắp tối. Ông có thể nào cho chúng tôi trọ qua đêm
không nhỉ?
*Lão già: Thầy không biết
ư? Có gì tiện hơn là ngủ đỗ dưới vòm hoa của cây anh
đào này! ( = Vâng, để tôi mời thầy...không, chờ chút xem,
chứ thầy không thấy vòm hoa anh đào này là chỗ trọ tốt
nhất hay sao?)*
Sư vân du: Ôi, đúng thật.
Một chỗ trọ tuyệt vời.Thế nhưng ai sẽ là người chủ
trọ hở ông?
Lão già: "Mặt trời sắp lặn
mà còn chưa đến đich nên ta sẽ ngủ đỗ dưới vòm cây
anh đào này. Vòm hoa sẽ là người chủ trọ đêm nay" (Dặm
dài bóng ngã về Tây. Đêm nay ngủ đỗ dưới cây anh đào.
Hỏi hoa cho phép không nào?, NNT dịch thơ) [12].
Tác giả bài thơ này nay đã bị chôn vùi dưới đám rêu xanh
bên gốc cây. Thật đáng thương thay! Vì vậy những kẻ thân
phận thấp hèn như tôi cũng thường ghé đến để ai điếu
ông. Thế sao một nhà tu hành như thầy lại không làm một
buổi lễ cầu siêu cho ông ấy, cho dù thày chỉ là một khách
qua đường.
Sư vân du: Người viết câu
thơ "Dặm dài bóng ngã về Tây. Đêm nay ngủ đỗ gốc cây
anh đào. Hỏi hoa cho phép không nào?" có phải là quan trấn
thủ xứ Satsuma ...?
Lão già: Đúng! Tác giả của
nó chính là ngài Tadanori. Ngài bị giết trong trận Ichi-no-tani[13]
và một người quen biết đã trồng cây anh đào này để đánh
dấu như mộ bia.
*Sư vân du hay Lão già:* Chuyện
tình cờ mà cũng thật lạ lùng đã khiến tôi gặp được
cây anh đào hôm nay.* Chủ cũ của tôi, Fujiwara no Shunzei...
*Lão già hay sư vân du:*...là
người quen thân với ngài Tadanori. Họ từng là bạn thơ.
*Sư vân du hay Lão già *: Mà
hôm nay, ngài Tadanori lại cho chúng ta ở trọ....
Lão già: ...qua đêm. Có lạ
chưa?
Hợp xướng: Cái tên Tadanori
còn có nghĩa Phật pháp (Nori = pháp, kinh). Vậy xin ngài hãy
nghe lời Phật dạy để chóng đi về cõi Tây Phương Tịnh
Độ của Đức Phật A Di Đà!
Lão già: Kỳ diệu thay. Tôi
sẽ được nghe tụng kinh thuyết pháp để linh hồn được
an ủi và chóng thành Phật. Kỳ diệu thay!
Hợp xướng: Lạ chưa kìa!!
Tại sao lão già này lại tỏ ra sung sướng đến mức đó
khi nghe tiếng tụng niệm trong lễ cầu siêu nhỉ?
Lão già: Bởi vì tôi đã đến
từ xa để xin thầy tổ chức pháp sự cho mình.
Hợp xướng: Lão già bảo:
"Tối nay hãy nằm ngủ dưới vòm hoa và nghe lời tôi gửi
gắm trong giấc mộng của thầy. Tôi sẽ gửi một tin nhắn
nhờ thầy chuyển giúp cho ngài Teika [14]
(ở kinh đô). Thế rồi lão đã đi vào đằng sau vòm hoa và
không còn ai thấy bóng. Lão đà khuất dạng, không còn ai thấy
bóng.
(Nakairi: chỗ nghỉ giữa hai màn)
E. Dân làng kể chuyện cây anh
đào và phút cuối của Tadanori.
Đây là đoạn Ai-Kyôgen: Một
người đàn ông sống trên bãi (ura no otoko) thấy các nhà sư
nên đến để nói chuyện. Thể theo lời yêu cầu của nhà
sư, ông ta đã kể lại về sự tích của cây anh đào cũng
như những giây phút cuối cùng trong cuộc đời chiến sĩ của
tướng Taira no Tadanori. Khi nhà sư vân du thổ lộ rằng đoàn
của ông đã gặp một lão già, người dân địa phương kia
mới cho biết lão ấy chính là hồn ma của Tadanori. Xin nhà
sư làm một buổi lễ cầu siêu cho hồn ma xong, ông ta rời
khỏi nơi đó.
(Lược bỏ không dịch để tránh
trùng hợp, NNT)
F. Hồn ma Tadanori hiện ra, nhờ
cậy nhà sư chuyển tin nhắn đến Teika:
Trong khi cả bọn đang ngủ thiu
thiu dưới vòm hoa anh đào, vong hồn của Tadanori hiện ra trong
giấc mơ của nhà sư vân du. Hồn ma cho biết ông rất tiếc
vì một bài thơ của mình tuy được đăng trong Senzaishuu[15]
nhưng về tác giả thì bị xem là "Vô danh" (Yomobito shirazu)
bởi ông và gia đình là những người thua trận và trở thành
kẻ địch của triều đình. Ông yêu cầu nhà sư với tư cách
quen biết với gia đình Fujiwara, chuyển hộ lời nhắn của
ông đến Teika để người con thi hào Shunzei ghi tên ông vào
tuyển tập cho chính xác.
*Sư vân du: Điều trước tiên
là về đến Kyôto, chúng ta sẽ trình lại câu chuyện này
cho ngài Teika.*
Tất cả các sư: Khi đang bàn
về chuyện này thì trăng chiều đã xế (Quệt tay áo thụng
trên mặt đất như sửa soạn đi ngủ)
Các sư tháp tùng: Mảnh trăng
chiều đang chìm xuống phía chân trời.
(Quệt tay áo thụng trên mặt
đấy như sửa soạn đi ngủ)
Tất cả các sư: Trời tối
quá, không còn trông thấy được bóng của lũ chim óc cau (chidori)[16]
gọi nhau nữa. Nằm dưới gốc cây anh đào bên bóng núi và
gần bãi biển, chúng ta nghe tiếng gió đuổi nhau trên bãi
mà thương cho những đóa anh đào đang độ nở giữa mùa xuân.
Tiếng gió khủng khiếp làm sao! Chúng ta đã ngủ đỗ một
đêm trên bãi Suma trong cảnh ngộ đó. Cửa ải Suma này là
nơi tạm trú qua đêm của bọn mình. Khi chúng ta chìm dần
vào trong giấc ngủ thì vầng trăng cũng từ từ khuất dạng
và bóng đêm đã bao phủ chung quanh. Nằm dưới gốc cây anh
đào bên bóng núi, chúng ta dần dần đi vào giấc ngủ, Ôi,
hãi hùng là tiếng gió. Gió thổi mạnh làm sao!
Hồn ma Tadanori: Hổ thẹn thay
cho tôi hôm nay lại ló mặt ở cái chốn ngày xưa kia tôi đã
bị kẻ địch chém chết để bước vào trong giấc mộng của
thầy. Tôi đến đây dưới dạng hồn ma kể cho thầy nghe
câu chuyện đời tôi thuở còn bị mê lầm dẫn dắt. Thơ
của tôi đã được chọn vào Senzai-shuu nhưng buồn thay, vì
bị xem là kẻ địch của triều đình nên người ta đã nó
xếp vào mục "Thơ vô danh". Tội nghiệp cho tôi chưa? Dù cõi
đời này đầy dẫy những chấp nê nhưng câu chuyện này là
chấp nê lớn nhất của tôi đó. Hơn nữa, ngày nay ngài Shunzei
- người biên tập Senzai-shuu - đã qui tiên mất rồi. Nhân
được biết thầy từng hầu việc trong phủ Shunzei, chắc
thầy có thể giúp tôi bằng cách xin ngài Teika ghi tên tôi
vào Senzai-shuu được chứ? Tôi chỉ gửi lời yêu cầu này
qua giấc mộng của thầy thôi. Xin đừng bị những trận cuồng
phong trên bãi Suma đánh thức. Đừng để bị đánh thức nhé,
thầy!
G. Hồn ma Tadanori kể lại cảnh
chiến đấu của mình, xin nhà sư câu siêu cho rồi biến mất.
Hồn ma của Tadanori đã diễn
lại một cảnh sống động cảnh tượng của trận Ichi-no-tani
và kể cho nhà sư vân du những phút cuối cùng của đời mình.
Sau khi yêu cầu nhà sư lập đàn cầu siêu cho mình, ông trở
về nằm bên dưới cây anh đào và cũng là nấm mộ của ông.
Hợp xướng: Thực có diễm
phúc nếu được sinh trong một gia đình làm thơ Waka và chọn
Waka như nghề nghiệp, trau giồi nghệ thuật thơ cho đến khi
đạt đạo và sống mỗi ngày với thi ca.
Sư vân du: Đặc biệt là nhân
vật như ngài Tadanori, được thế gian đánh giá là bậc văn
võ song toàn!
Hợp xướng: Nguyên trước
đây, Thái thượng hoàng Go-Shirakawa đã hạ chiếu biên tập
Senzai-shuu và ngài Gojô san.i (quan tam phẩm dinh ở khu Gojô,
ý nói Shunzei) được bổ nhiệm vào chức vụ thu thập và
tuyển chọn. Điều đó đã xảy ra vào mùa thu năm Juei (Thọ
Vĩnh) thứ 2, lúc tập đoàn Heike tháo chạy khỏi kinh thành
(1183).
(Nói thay cho Tadanori) Dù việc binh
đa mang , dù việc binh đa mang, lòng của ta lúc nào cũng bỏng
cháy tình yêu đối với thơ, nên ta đã theo đường sông Kitsunegawa
quành lại Kyôto đến gặp ngài Shunzei và nhờ ông chọn thơ
ta để đăng vào tuyển tập [17].
Ông đã nhận lời và ta (yên tâm) trở lại chiến trường.
Sau khi lênh đênh trên biển miền Tây (Tây hải), ta thử trở
lại bãi Suma và định dừng chân nơi đây một ít lâu. Nào
ngờ đó là một quyết định sai lầm. Suma chỉ nổi tiếng
vì xưa kia nó là nơi Hoàng tử Hikaru Genji đã tạm trú chứ
không liên quan gì đến cánh Heike chúng ta. Rồi đến khi trận
Ichi-no-tani mở màn, phía Heike chúng ta bắt đầu thua và phải
lên thuyền ra biển để thoát khỏi chiến trường.
Đến đây có Kakeri (nhạc diễn
tả lòng lo lắng). Một vài lưu phái không dùng nó hay chỉ
diễn Tachimawari nghĩa là điệu bộ lang thang không định hướng,
theo tiếng nhạc đi kèm.
Thế rồi tiếng nhạc đổi sang
một nhịp khác và hồn ma Taira no Tadanori trong trang phục võ
tướng diễn cảnh chém giết kinh hoàng trong cõi A-tu-la. Đặc
biệt trong vở này, những động tác đầy bạo lực ấy cũng
biểu lộ được nét thanh nhã của giới quí tộc.
Hồn ma Tadanori (vai Nochijite):
Khi ta rời khỏi bờ chực lên thuyền thì nhìn lại đằng
sau, một chiến binh bên địch đang xưng tên hòng được giao
đấu với ta. Hắn nói: "Ta là Okabe no Rokuyata Tadazumi [18]người
đất Musashi đây!" Hắn cùng với 6, 7 thớt kỵ rượt đuổi
theo ta. Ta muốn nghênh chiến nên đã ghìm ngay giây cương và
giục ngựa chạy trở về phía bãi. Rokuyata bèn chụp lấy
ta rồi cả hai đều rơi xuống đất giữa hai con ngựa.Ta nắm
chặt lấy hắn và định tuốt kiếm...
Hợp xướng (Jiutai): Một tên
thủ hạ của Rokuyata, một tên thủ hạ của Rokuyata từ sau
phóng tới và đã chặt bay cánh tay phải của Tadanori trong
khi ngài đang đè lên người Rokuyata. Tadanori bèn dùng tay trái
nắm lấy Rokuyata và thảy hắn ra xa nhưng cùng lúc, ngài biết
rằng giờ cuối cùng của mình đã điểm. Ngài bèn bảo với
chúng: "Bọn bay hãy tránh ra một bên cho ta hướng về Tây
phương cầu nguyện. Thế rồi ngài mới khấn câu:” Quang
minh biến chiếu thập phương thế giới, niệm Phật chúng
sinh nhiếp thủ bất xả” (Đức Phật A Di Đà chiếu ánh
sáng khắp mười phương, không bỏ sót một kẻ nào từng
niệm danh hiệu ngài).
Hợp xướng (thay lời Tadanori)
Vừa khi lời khấn của ta vừa dứt...
Hợp xướng:... Rokuyata đã
vung kiếm chặt đầu Tadanori.
Hồn ma Tadanori: Lúc đó Rokuyata
mới nghĩ rằng...
Hợp xướng: Buồn thay! Nhìn
thi thể người này, ta thấy ông hãy còn trẻ trung. Ông ta
còn có thể sống lâu và vui hưởng cuộc đời. Bộ khôi giáp
ông ấy mang trên người trông thật đẹp gợi nhớ đến những
chiếc lá phong đỏ lấp lánh giọt mưa rào cuối thu (shigure,
jiu) dưới bầu trời nặng mây của một ngày tháng chín (tháng
9 âm lịch, nagatsuki) [19].
Ông này không phải hạng xoàng, chắc là một quí tộc Heike.
Ta muốn biết tên ông ấy!
Khi kiểm tra túi đựng tên của
người chết, Okabe ngạc nhiên khi thấy có cả một bài thơ
Waka viết trên mảnh giấy. Nhìn vào thì thấy bên dưới tựa
đề "Ryoshuku no hana" (Hoa làm chỗ trọ dọc đường) có chép
mấy câu: "Dặm dài bóng ngã về Tây" (Yukikurete...) vv...
*Đến đây có Kakeri (nhạc diễn
tả lòng lo lắng). Một vài lưu phái không dùng nó hay chỉ
diễn Tachimawari nghĩa là điệu bộ lang thang không định hướng
theo tiếng nhạc đi kèm.*
*Thế rồi nhạc đổi sang một
nhịp khác và hồn ma Taira no Tadanori trong trang phục võ tướng
diễn cảnh chém giết nhau trong cõi A-tu-la. Đặc biệt trong
vở này, những động tác đầy bạo lực ấy cũng biểu lộ
nét thanh nhã của giới quí tộc.*
Hồn ma Tadanori / Hợp xướng:
Vì lẽ đó, ta sẽ nằm lại dưới gốc anh đào này...
(Tachimawari): Shite tức Nochijite)
đi lòng vòng theo hình tròn ở giữa sân khấu để diễn tả
tâm trạng hoang mang của mình. Nhiều lưu phái chủ trương
phải thay thế những động tác này bằng nhạc Kakeri.
Hồn ma Tadanori: Và vòm hoa
là chủ trọ đêm nay.
*Hồn ma Tadanori / Hợp xướng:
Nếu đúng là Tadanori thì...*
Hợp xướng: ...ông ta phải
là nhân vật nổi tiếng Taira no Tadanori, Trấn thủ vùng Satsuma[20].
Ôi, thương thay!
(Làm như đang nói với nhà sư) Nhân
vì thầy đã có lòng dừng chân bên gốc cây này nên tôi đã
làm cho trời tối nhanh để lưu thày lại và kể hầu thầy
câu chuyện vừa qua. Như vậy, chắc bây giờ thầy không còn
có gì để nghi ngờ về nó nữa. Tôi sẽ trở về lòng đất
chẳng khác những cánh anh đào trở về cội cây. Xin hãy cầu
siêu cho vong hồn tôi. Nếu thầy đã đến trọ dưới gốc
cây này khi hoa kia chính là chủ trọ và vòm hoa ấy cũng lại
là tôi chứ không ai khác.
(Kết thúc vở)
.
"Hỏi hoa cho
phép không nào?"
Phần Chú Thích:
[1]
- Ngày xưa, những người hầu cận các nhân vật quyền quí
như thiên hoàng, hoàng hậu hay quí tộc thường bỏ đi tu sau
khi chủ của họ chết.
[2]
- Fujiwara no Shunzei ( Đằng Nguyên Tuấn Thành, 1114-12049 còn
đọc là Toshinari) là một quí tộc họ Fujiwara. Ông là quan
tam phẩm, bí thư riêng của Hoàng hậu, thi nhân, nhà lý luận
và bình chọn thơ Waka có tiếng tăm hàng đầu Nhật Bản.
Đã được Thái thượng hoàng Go-Shirakawa, 1127-1192, một người
sành văn chương, giao phó nhiệm vụ tuyển thơ cho Senzaishuu
(Thiên Tải Tập tức Thiên Tải Hòa Ca Tập, 1183-1187).
[3]
- Thái độ ẩn dật của nhà sư bắt đầu bằng sự từ bỏ
cuộc sống thế tục và sau đó là cả những thú vui thanh
tao như phong,điểu, hoa, nguyệt.
[4]
- Miền Tây (Saikoku =Tây quốc) là khu vực nằm tây Kyôto nhưng
đặc biết dùng để nói về đảo Kyuushuu.
[5]
- Khác với tên của nó, ở đây không có cửa ải và cũng
chẳng có nhà trọ.
[6]
- Chữ Akuta trong Akutagawa (tên con sông) còn có nghĩa là rác
rưởi, bụi bặm làm tiên tưởng đến cõi trần nhơ nhớp
vốn được nhắc đến bên trên. Sông Akutagawa là một gối
thơ (utamakura) khi nói về vùng Settsu.
[7]
- Núi Arima (Hữu Mã) và cánh đồng Inano (Trư Danh
Dã), đều là những gối thơ, từng được nói tới trong thơ
của bà Daini Sammi trong Go-Shuui-shuu (Hậu Thập Di Tập) và được
tuyển vào Hyakunin Ishu (xem Thơ Waka trăm nhà, NNT dịch)
[8]
- Tiếng chuông chùa ở Naniwa, cảnh bãi cạn Naruogata và cảnh
thuyền câu lênh đênh trên sóng ngoài khơi đều là những
gối thơ ở địa phương dùng để tạo không khí cho đoạn
văn đi đường (michiyuki-bun) này.
[9]
- Suma là tên một chương trong Truyện Genji , lại là địa
danh nơi Hoàng tử Hikaru Genji sống một khoảng thời gian lưu
đày. Nằm ở tây nam Kobe ngày nay, nổi tiếng là nơi có phong
cảnh đẹp, cát trắng tùng xanh.
[10]
- Tên một giống anh đào dại, từng được nhắc đến trong
Truyện Genji, được tác giả đem cấy vào đây theo thủ pháp
Yoriai kết hợp yếu tố của 2 tác phẩm lại với nhau.
[11]
- Arihira no Yukihira (818-893) là một thi nhân buổi đầu thời
Heian, đại thần, anh trai của vương tử đa tình Narihira nên
thường bị lẫn lộn với ông em quá nổi tiếng. Bài thơ
nầy có chép trong Kokin-shuu (Cổ Kim Tập) nói về đoạn đời
sống u bế của ông ở Suma. Có thể nói đây là một trong
những bài thơ có nhiều thi vị tiêu sơ wabi, sabi khá sớm..
[12]
- Là bài thơ nòng cốt từ đó Zeami đã dựng lên vở tuồng
này.Tương truyền đã được kẻ địch tìm ra trong túi đựng
tên sau khi Tadanori chết.
[13]
- Ichinotani là một thung lũng, cổ chiến trường nằm gần
Kobe nơi Minamoto no Yoshitsune tập kích táo bạo doanh trại Heike
và phá được quân địch.
[14]
- Con của Shunzei, Fujiwara no Teila (Sadaie, 1162-1241) cũng là một
thi hào nổi tiếng không kém gì cha. Được biết như người
biên tập Shin Kokin Wakashuu (Tân Cổ Kim Hòa Ca tập, 1201 hay
1205), tác phẩm phản ánh một thi phong cách tân so với Kokin
Wakashuu (905 hay 914).
[15]
- Senzai-shuu (Thiên Tải Tập, 1183), 20 quyển, do Fujiwara no Shunzei
tuyển thơ và biên tập.
[16]
- Chidori (chim óc cau, choi choi) một loại chim di, nhỏ bé, thường
họp thành đàn, vừa bay vừa kêu. Hình ảnh đã được đưa
vào trong thơ rất sớm, từ đời Man. yô-shuu (Vạn Diệp Tập,
thế kỷ thứ 7 và 8) và dĩ nhiên cũng từng thấy nhiều lần
trong Truyện Genji..
[17]
- Shunnzei sau đó đã chọn một bài thơ nói về hoa anh đào
ở cố đô Shiga và đăng trong phần thơ mùa xuân của Senzaishuu
nhưng lại không để tên tác giả. Xem lời bàn của dịch
giả về xuất xứ của nó.
[18]
- Có thể hiểu là con trai thứ sáu (Rokuyata) trong gia đình
Okabe, tên là Tadazumi.
[19]
- Nagatsuki (tháng dài), một tên khác của tháng 9.
[20]
- Satsuma, ngày nay là tỉnh Kagoshima thuộc đảo Kyuushuu. Đây
có lẽ chỉ là một tước vinh dự do triều đình ban
vì địa phương này nằm rất xa Kyôto.
Tadanori trên
sân khấu
Lạm bàn của người dịch:
Duyên nợ của Taira no Tadanori với
Nô nằm trong nội dung của hai vở tuồng: (1) là Tadanori, vở
tuồng của Zeami vừa được trình bày bên trên và (2) là Shunzei
Tadanori của một tác giả ít được biết đến hơn, Naitô
Tôzaemon. Tuy nhiên cả hai đều thuộc loại Shura-mono, bắt
nguồn từ Truyện Heike và thuật lại tình yêu đối với thơ
Waka của người võ tướng / thi nhân. Tuồng số (2) có thể
giúp ta hiểu rõ thêm về tuồng số (1) qua giai thoại về 2
bài thơ của Tadanori.
Trước tiên, thử lướt qua nội
dung tuồng số (2) tức Shunzei Tadanori của Naitô cái đã.
Tadanori (Trung Độ), dòng dõi Taira,
em trai út của Kiyomori, tả trung tướng, tước trấn thủ vùng
Satsuma, một người văn võ song toàn. Có giai thoại chép rằng
lúc họ Taira bỏ kinh thành vì bị quân Genji tấn công, tướng
Tadanori đã đến từ biệt thầy học là thi hào Fujiwara no
Shunzei (Đằng Nguyên, Tuấn Thành, 1114-1204) và không cầu mong
gì hơn là được đăng vài bài waka của mình vào trong
tuyển tập thơ soạn theo sắc chiếu bởi ông biết lần này
mình ra đi sẽ không có ngày về và vì cuộc đời là ngắn
ngủi nhưng thi ca thì bền lâu.
Trước khi từ giã hay đúng hơn
là vĩnh biệt người thầy khả kính, Tadanori lấy ra một cuốn
giấy mà ông đã chép trên một trăm bài ông nghĩ là hay nhất
trong số thơ ông sáng tác và gìn giữ cẩn thận từ mấy
năm qua rồi ký thác cho thầy và Shunzei đã nhận lấy với
tất cả lòng trân trọng..
Về sau, lúc Tadanori đã tử trận,
chiến tranh chấm dứt và một triều đại mới mở màn, khi
tuyển chọn thơ cho Thiên Tải Hòa Ca Tập (Senzai Waka-shuu, 1183-87),
Shunzei vô cùng xúc động khi nhớ lại hình ảnh và những
lời Tadanori dặn dò trong lần gặp gỡ cuối cùng. Cuốn thơ
có nhiều bài đáng cho vào Tuyển Tập nhưng Shunzei, người
biên soạn, vấp phải sự kiểm duyệt của triều đình nên
chỉ giữ lại một bài nói về hoa anh đào ở cố đô, có
điều chỗ để tên tác giả chỉ ghi là " triều địch " (kẻ
địch của triều đình) trong mục những nhà thơ vô danh:
Trong vùng Sazanami,
Shiga hoang phế còn chi kinh thành..
Nagara núi vẫn xanh,
Anh đào năm cũ vô tình nở hoa.
(Sazanami ya / Shiga no miyako wa / arenishi
wo / mukashi nagara no / yamazakura kana)
Nagarayama (Trường Đẳng Sơn) là
tên núi, đồng thời là một trợ từ với cái ý "cứ nguyên
như thế" (nagara = sono mama). Ngoài ra, Sazanami hay Sasanami tuy
là cách nói hoa mỹ để gọi vùng đất Ômi tỉnh Shiga, cố
đô của 2 cha con Thiên hoàng Tenji và Kôbun nhưng còn có nghĩa
là "sóng nhẹ tấp vào bờ" và bờ ấy được hiểu là bờ
hồ Biwa - một cái hồ nước ngọt cực kỳ rộng lớn - nằm
cạnh nó. Cho nên có thể dịch một cách khác:
Bên hồ sóng nhẹ vỗ bờ,
Kinh đô hoang phế bây giờ còn
chi.
Ngàn năm núi vẫn xanh rì,
Anh đào nở thắm hỏi vì ai
đây?
Còn trong vở tuồng (2) của Zeami
thì như chúng ta thấy, sau cuộc gặp gỡ, Tadanori đã chết
trong trận Ichinotani (1184). Khi tướng địch nhặt túi tên tùy
thân của ông và nhìn bài thơ "Ngủ đỗ dưới gốc anh đào
" (Ryoshuku no hana) với chữ ký Tadanori ghi trên đó, mới biết
họ vừa giết được đại tướng Tadanori, chỉ huy cánh quân
phía tây của mặt trận và cũng là trấn thủ vùng Satsuma.
Thơ như sau:
Dặm dài bóng ngả về tây,
Đêm nay ngủ đỗ dưới cây
anh đào.
Hỏi hoa cho phép không nào?
(Yukikurete / ki no shitakage wo / yado
to seba / hana ya koyoi no / nushi nara mashi )
Cái chết của ông làm bạn và địch
đều bùi ngùi. Đó là một tâm hồn thơ trong cửa tướng.
Như vậy tuồng số (1) và (2) đã
hòa quyện với nhau để làm nên một giai thoại văn chương
tuyệt đẹp với 2 bài thơ.
Có người sẽ cười rằng Tadanori
đã chết vì một cái danh hão. Thế nhưng, nếu suy nghĩ kỹ,
chúng ta không thể nào đồng ý với lập luận ấy. Đối
với một trang dũng tướng quí tộc có thể nói đã đạt
đến tột đỉnh vinh hoa và quyền lực như ông, hành động
coi thường tất cả khi đặt những yếu tố ấy lên cán cân
để so sánh với một bài thơ vỏn vẹn 31 âm tiết đã cho
ta thấy tấm lòng của ông cao đẹp nhường nào. Nói cho cùng,
bề gì ông cũng đã nhìn nhận rằng những điều ông mong
đợi - dù là việc có tên như tác giả một bài thơ - cũng
không khác gì một vọng tưởng trần thế đáng xấu hổ.
Ông chỉ xin được vĩnh viễn ngủ yên dưới một vòm hoa,
Tôkyô ngày 27 tháng
4 năm 2020.
Thư mục tham khảo:
-
Tadanori (Trung Độ), bản song ngữ Anh-Nhật
do The Noh.com ( version 1.0) đăng trên mạng, 18/12/2015. Bản kim
văn và ngoại văn tham chiếu.
-
Tadanori (Trung Độ) trong Yôkyokushuu
(Dao Khúc Tập) quyển trung, do Itô Masayoshi hiệu chú, Shinchô
xuất bản, Tôkyô 1988. Nguyên tác cổ văn.
-
Tadanori (Trung Độ)) trong La landes des
mortifications. Vingt-cinq pièces de Nô (Cõi thống khổ. Hai mươi
lăm vở tuồng Nô). Do Armen Godel và Koichi Kano dịch sang Pháp
văn. Gallimard, Paris 1994. Bản ngoại văn tham chiếu.
-
Shirasu Masako, Yôkyoku Heike Monogatari
(Tuồng Nô từ Truyện Heike) phần nói về Tadanori, Kôdansha
Bungei Bunko, Tôkyô xuất bản 1996, ấn bản 2005.
|