Lược truyện:
Vì muốn ngắm trăng đêm trung
thu nên người lữ khách từ kinh đô lên đường đến núi
Obasute (Obasute-yama) ở vùng Sarashina trong xứ Shinano (nay là
tỉnh Nagano), nơi nổi tiếng là một chỗ ngắm trăng tuyệt
vời [1].
Khi ông vừa đặt chân lên vùng ấy, bỗng thấy một người
đàn bà trong làng (sato no onna) hiện ra trước mặt và chỉ
cho xem nơi ngày xưa tương truyền có một bà lão - vì bị
con cái bỏ rơi - đã viết bài thơ nói về cảnh cô đơn của
mình trong một đêm đối diện với vầng trăng. Bà cũng cho
biết mình chính là bà lão trong truyền thuyết vào những đêm
có trăng, hay hiện hình và đi lang thang. Nói xong thời biến
mất. (Hết lớp đầu). Sau đó, lữ khách mới hỏi thăm một
ông dân làng (sato no otoko) mới biết về truyền thuyết "cõng
mẹ lên non để vứt lại" của người vùng này. Chẳng bao
lâu, trăng mọc và rọi ánh sáng trong thanh xuống vùng núi
non, lữ khách càng thêm xúc động khi thấy một bà cụ già
ăn mặc toàn một màu trắng xuất hiện, cả người cụ như
đang gội bằng ánh trăng sáng lóa. Nhớ lại tích xưa của
núi Obasute, đứng dưới vầng trăng, bà lão giảng giải rằng
trăng kia chính là giả tướng của Đại Thế Chí Bồ Tát,
một vị bồ tát hầu cận Đức Phật. Trong mão (thiên quan)
ngài đội có cả một cõi Cực Lạc Tịnh Độ và ánh trăng
là vật dẫn đường cho tín hữu đến đấy nên còn có danh
hiệu là Vô Biên Quang Bồ Tát.
Tiếp đến, bà lão chuyển
qua ca ngợi vẻ đẹp của cõi Cực Lạc Tịnh Độ. Hồi tưởng
chuyện xưa, bà còn múa cho lữ khách xem một điệu vũ. Chẳng
bao lâu, trời đêm hừng sáng, lữ khách quay về, bà lão cũng
biến mất, chỉ còn trơ lại ngọn núi Obasute.
Đặc trưng của vở tuồng:
Vở tuồng này vốn khởi hứng
từ một câu thơ bắt đầu với mấy chữ Wa ga kokoro...(Lòng
ta...) mà chúng ta sẽ gặp lại trong ca từ của dao khúc này.
Đó là bài Waka do một nhà thơ vô danh sáng tác, có chép trong
Kokin (Waka) shuu (Cổ kim Hòa ca tập) phần tạp thượng. Tạp
là loại thơ linh tinh, không đủ yếu tố để thuộc hẳn
vào một mục nào. Tuy nhiên, nội dung bài thơ nói lên nỗi
buồn khôn cùng của một con người cô độc. Zeami (nếu đúng
ông là soạn giả) đã đặt nó vào miệng của bà lão, vai
chính (Shite) của vở. Theo ý của bài thơ thì niềm cô đơn
và lòng luyến tiếc quá khứ của bà lão đã thăng hoa khi
bà đứng dưới ánh sáng thanh u của vầng trăng. Bài Waka,
điệu múa cũng như truyền thuyết về Obasute vốn thấy trong
các pho sách cổ như Truyện vùng Yamato (Yamato Monogatari), Tinh
hoa của Minamoto no Toshiyori (Shunrai Zuinô) hay cả "Chuyện nay
đã xưa" (Konjaku Monogatari"...qua vở tuồng này, đã làm tăng
lên tính chất bi thảm của cuộc đời những người già bị
con cái bỏ rơi [2].
Về phần tán thán vẻ đẹp
và sự mầu nhiệm của ánh trăng, chúng ta có thể tìm thấy
nguồn gốc của nó trong quán thứ 11 của Quán Vô Lượng Thọ
Kinh bởi vì cuốn kinh này đã đề xuất quan niệm gọi là
"Nguyệt quang Tịnh Độ quan" (xem ánh sáng vầng trăng là vật
dẫn đường về cõi Tịnh Độ). Còn điệu "khúc vũ" (kusemai)
của bà lão chủ yếu mô tả những biến đổi giữa xưa và
nay, vừa nói lên lòng hoài cựu, vừa thuyết về lẽ vô thường.
Thông tin kỹ thuật về
vở tuồng:
Trường phái: Không có thông
tin rõ ràng nhưng ít nhất được diễn bởi Kanze nếu là tác
phẩm của Zeami.
Tên gọi: Có khi vẫn đọc
là Obasute nhưng viết bằng chữ "bá mẫu" thay vì chữ "di"
(dì).
Lớp diễn: lớp 3 (Rôjomono:
loại tuồng Lão nữ)
Xuất điển: Các sách Kokinshuu,
Yamato Monogatari, Shunrai Zuinô.
Soạn giả: Zeami nếu nhìn theo
phong cách.
Cảnh: 2
Maeba: Làng Sarashina trong xứ
Shinano nơi có núi Obasute, vao buổi chiều hôm rằm tháng 8 âm
lịch.
Nochiba; Cùng một chỗ, từ
lúc trăng lên cho đến hừng sáng.
Mùa: Mùa thu (tháng 8 âm lịch).
Thời lượng: Không có thông
tin rõ ràng.
Phối vai:
Shite (Maejite): Đàn bà trong
làng (sato no onna).
Shite (Nochijite); Vong hồn bà
già bị bỏ rơi (rôjo no rei)
Waki : Lữ khách từ kinh đô
(miyako no otoko)
Wakizure: Bạn đồng hành của
lữ khách.
Ai-Kyôgen: Ông dân làng (sato
no otoko).
Mặt nạ:
Shite: Màn đầu, mang mặt nạ
Fukai tức mặt nạ của phụ nữ trung niên. Màn sau là mặt
nạ Uba dành cho những bà lão có tính khí bất thường. Trong
tuồng này, chỉ có Shite là mang mặt nạ.
Trang phục (lược thuật):
Maejite: Áo kataori phụ nữ
Nochijite: Áo chôken (đẹp và
dài), ôkuchi (ống rộng)
Waki: đồ bộ kiểu suô (đồ
thường có 2 phần trên và dưới).
Wakizure: giống như vai waki.
Ai-Kyôgen: quần áo dài trên
dưới.
Xin chia vở tuồng bằng 2 phần
tượng trưng cho 2 màn.
Văn bản tuồng với lời
giải thích (in nghiêng):
Màn đầu:
(Theo tiếng nhạc Shidai, lữ
khách và tùy tùng bước vào sân khấu. Họ đội nón rộng
vành (nón mê) kết bằng cây mây chẻ tơi):
Hợp xướng: Ôi, trời
đã vào thu và sắp đến ngày rằm. Ôi, trời đã vào thu và
sắp đến ngày rằm.Chúng ta hãy lên đường viếng thăm ngọn
núi Obasute, ngọn núi của những bà già bị đem đi vứt bỏ.
(Lữ khách cởi chiếc nón
mê).
Lữ khách: Như tôi đây,
một cư dân vùng kinh đô. Tôi chưa từng có cơ hội đến
ngắm trăng ở Sarashina. Vì thế nên khi biết mùa thu đã về,
tôi bèn hối hả tìm đến ngọn núi Obasute.
(Lữ khách lại chụp nón
mê đội lên).
Hợp xướng: Trong chuyến
hành trình này, bao đêm chúng ta đã phải ngủ dọc đường,
bao đêm đã phải ngủ dọc đường. Chúng ta vừa bỏ thêm
một quán trọ nữa sau lưng. Qua biết bao nhiêu buổi sáng buổi
chiều, giờ đây chúng tôi đã đến được núi Obasute, đến
được núi Obasute nơi người ta đem vứt những bà già.
Lữ khách: Nhờ nhanh chân
bước, giờ đây chúng ta đã tới núi Obasute.
Bạn đồng hành: Đúng
đây rồi!
(Lữ khách gỡ nón ra).
Lữ khách: Như vậy là
chúng ta đã tới núi Obasute. Nhìn quanh chỉ thấy toàn những
đỉnh núi thấp, làm bầu trời trải ra ngoài ngàn dặm, rộng
bao la, không vướng một chòm mây. Chắc vào những đêm trăng
rằm, phong cảnh ở vùng này hẳn phải tuyệt vời. Tôi muốn
chúng mình dừng chân lại và qua đêm ở đây để thưởng
trăng.
(Lữ khách vai Waki đến ngồi
ở Wakiza trong khi những người khác đứng trước ban hợp
xướng (Jiutai). Đến lượt người đàn bà bước vào sân
khấu nhưng dừng chân lại ở bên cầu).
Người đàn bà: Này mấy
ông đằng kia. Các ông muốn tìm gì đấy ạ?
Lữ khách: Chúng tôi chỉ
là đám thường dân kinh đô, lần đầu đặt chân tới đây.
Thế còn bà, bà là người ở vùng nào vậy?
Người đàn bà: Tôi sống
ở một làng thuộc vùng Sarashina này. Vào một ngày mùa thu
đặc biệt như hôm nay, trời mau tối lắm và nhất là sẽ
có một vầng trăng lộng lẫy ngự giữa bầu trời. Bốn phương
tám hướng sẽ quang đãng, không một cụm mây. Ôi, khung cảnh
đó kỳ diệu như thế đấy. Tôi đoan chắc là vầng trăng
đêm nay sẽ đẹp tuyệt vời.
Lữ khách: Nếu là người
địa phương Sarashina, bà có biết chỗ ngày xưa người ta
đem vứt bà già nằm ở đâu không?
(Người đàn bà tiến đến
gần họ).
Người đàn bà: Bà lão
trên núi Obasute ấy à? Ông muốn xem lại dấu tích đã mất
rồi ư? Ừ, hay lắm đấy!
Núi Obasute
Vùng Sarashina,
Ôi, có gì an ủi được,
Nỗi đau trong trái tim tôi,
Khi ngẩng đầu nhìn ánh
trăng chiếu sáng. [3]
Nếu đúng là câu chuyện của
kẻ từng làm ra bài thơ thì chỗ đó chính là nơi đây, bên
cạnh cây quế [4]đó.
Chính là bên cạnh cây quế xinh tươi này bà cụ già kia đã
bị bỏ rơi mà đến nay không ai còn tìm ra dấu vết.
Lữ khách: Như thế thì
gốc cây này đúng là nơi đã chôn vui hình ảnh của người
đàn bà bị bỏ rơi.
Người đàn bà: Bà ấy
đã bị vùi dưới lớp cỏ hoang của cuộc đời biến ảo.
Mà nay thời ...
Lữ khách: ... chẳng còn
có gì hơn ngoài một câu chuyện kể về một người đàn
bà, mà ôi thôi, còn chưa hết chấp nê...
Người đàn bà: ... cả
khi mà dấu tích của mình cũng không còn nữa. Cớ sao...
Lữ khách: ...trên cánh
đồng thê lương này...
Người đàn bà: ...gió
thổi lạnh buốt xương da?
Lữ khách: Lòng ta buồn
như mùa thu...
Hợp xướng: ...và buồn
hơn bao giờ hết. Ôi, ở Sarashina, làm sao ai an ủi được
ta. Ở Sarashina, làm sao ai an ủi được ta. Trên Obasute, núi
bà già bị vứt, màn đêm buông xuống rồi. Những cây quế
cây tùng cũng ngả màu xanh thẩm như bao nhiêu cây khác. Không
phải là mùa thu đã nhuộm màu cho lá đấy sao? Một làn sương
mỏng đã phủ lên ngọn núi Hitoe (Nhất Trùng Sơn)[5],
ngọn gió thê lương đuổi hết mây đi, chỉ còn cảnh núi
đứng trơ vơ, chỉ còn cảnh núi đứng trơ vơ.
Người đàn bà: Hỡi
lữ khách, người từ đâu đến thế?
Lữ khách: Như đã thưa
với bà hồi nãy, chúng tôi đến từ kinh đô. Từng nghe đồn
đại về con trăng ở Sarashina nên mới tìm đến và đây mới
là lần đầu!
Người đàn bà: Thì ra
các ông là người (tao nhã) ở kinh đô![6]
Nếu thế, xin đợi lúc trăng lên, tôi sẽ xuất hiện để
biểu diễn một màn cho các ông giải khuây nhé!
Lữ khách: Gì cơ ạ?
Tại sao bà lại nói về một màn biểu diễn để chúng tôi
giải khuấy đêm nay? Vậy bà là ai thế?
Người đàn bà: Dĩ nhiên
là một người đàn bà ở Sarashina!
Lữ khách: Nhưng chính
xác hơn, xin hỏi bà sống ở đâu?
Người đàn bà: Ngọn
núi này là nhà tôi đấy!
Lữ khách: ...và nó mang
một cái tên danh tiếng là...
Người đàn bà: ...Obasute,
Núi Vứt Bà Già!
Hợp xướng: Nghe đến
tên đó, lòng tôi thêm tủi hổ. Nghe đến tên đó, lòng tôi
thêm tủi hổ[7].
Bởi
vì tôi bị bỏ rơi ở đây đã lâu rồi! Phải sống một
thân giữa chốn núi hoang. Mỗi lần nhìn ánh trăng thu trong
vắt, tôi muốn trăng hãy xua tan bóng tối (vô minh) của những
chấp tôi vẫn giữ trong lòng. Bà ấy nói : "Tôi sẽ hiện
ra cùng với vầng trăng", rồi trong bóng đêm, bà dần dần
biến dạng vào bên dưới gốc cây, dần dần biến dạng vào
bên dưới gốc cây.
(Người đàn bà đi ra và
Ai-Kyôgen (ông dân làng) bước vào kể cho lữ khách đến từ
kinh đô sự tích về Núi Vứt Bà Già).
Nakairi hay chỗ nghỉ giữa
hai màn.
Dân làng: Tôi là dân
địa phương sống bên dưới chân núi. Đêm nay trăng sẽ tròn.
Vì muốn ngắm trăng, tôi mới leo lên đến đây.
(Dân làng nhận ra là có
sự hiện diện của đám lữ khách).
Dân làng: Ô kìa, mấy
khi trên núi này lại có người nhỉ! Hỡi những người khách
xem trăng, các ông từ đâu đến thế?
Lữ khách: Chúng tôi quê
quán kinh đô. Còn ông, ông là người địa phương chắc?
Dân làng: Chính vậy.
Tôi người vùng này!
Lữ khách: Nếu quả như
thế thì xin ông đến gần đây cho. Tôi có đôi điều muốn
hỏi thăm ông.
Dân làng: Xin ông cứ
việc (Dân làng tiến ra giữa sân khấu)
Ông bảo rằng có việc muốn
hỏi tôi nhưng chuyện gì thế ạ?
Lữ khách: Có thể câu
hỏi của tôi sẽ làm ông ngạc nhiên. Chẳng hay chuyện ngắm
trăng trong vùng Sarashina và tên của hòn núi Obasute này (Núi
Vứt Bà Già) này có sự tích gì không? Nếu biết được,
xin ông hãy kể cho chúng tôi nghe.
Dân làng. Thật lạ thay!
Tuy tôi sống trong vùng nhưng chỉ biết qua loa. Thế nhưng đây
là lần đầu tôi được gặp ông, chả lẽ tôi nói là mình
không biết gì hết thì quá khó coi. Vậy tôi sẽ ráng kể
cho ông đôi điều tôi biết.
Lữ khách: Xin cảm ơn
ông!
(Ông dân làng ngồi xuống)
Dân làng: Tại sao người
ta gọi ngọn núi này là Núi Vứt Bà Già à? Ừ, phải rồi,
ngày xưa trong thôn này có một người đàn ông tên Wada no
Hikonaga sinh sống. Cha mẹ anh ta chết sớm khi anh còn bé dại,
một bà cô già đã đem về nuôi nấng cho đến khi khôn lớn.
Thế rồi anh lấy vợ. Khổ nỗi vợ của anh từ xưa vẫn
ghét bỏ bà cô đó và không ngừng nói xấu về bà. Phần
anh thì cứ giả điếc cho qua. Vợ anh càng ngày càng nói xấu
bà cô, nhiều đến nỗi một ngày kia anh đâm ra quên hết
ân tình bà đã nuôi dạy anh từ tấm bé. Anh mới nói với
bà:
-Gần một hòn núi, con mới
tìm ra được một vị Phật rất linh ứng. Vậy để con đưa
cô đến niệm Phật.
Sau đó anh bèn đưa đi và bỏ
mặc bà ở lại một chỗ nào đó trong núi. Về đến nhà,
mỗi lần nhìn trăng mọc trên núi dưới bầu trời không mây,
lòng anh nao nao những muốn đi lên đó để đón bà về nhưng
vợ anh lập trường vẫn sắt đá. Thời gian trôi qua, khác
với điều mọi người mong đợi, bà cô già ấy đã chết.
Tình yêu của bà với đứa cháu không hề suy suyển đã khiến
cho bà hóa đá. Sau một thời gian dài, người đàn ông mới
lên núi kiếm bà cô nhưng khi nhìn thấy tượng đá, anh đâm
ra kinh hãi. Thiên hạ kể rằng từ ngày ấy anh hối hận và
bỏ đi tu. Cũng từ lúc đó, hòn núi này và thôn làng dưới
chân núi đều mang cái tên là Vứt Bà Già (Obasute). Hình như
xưa kia tên cũ của núi là Sarashina. Tôi đã nghe kể lại như
thế nhưng tôi lấy làm lạ là tại sao ông muốn tìm hiểu
chuyện đó?
Lữ khách: Những lời
ông vừa kể đã đầy đủ tình tiết lắm rồi. Như ông biết
đấy, chúng tôi là dân đến từ kinh đô. Bởi nghe tiếng
tăm của vùng Sarashina, chúng tôi mới đến đây để thưởng
trăng. Hồi nãy, lúc chúng tôi đang đợi trăng lên thì, không
biết từ đâu, một người đàn bà có tuổi đã hiện ra và
ngâm cho chúng tôi nghe một bài thơ có liên quan tới hòn núi
Obasute. Thế rồi bà ấy cho biết đêm nay sẽ trình diễn một
màn cho chúng tôi giải khuây. Tôi mới hỏi xem bà ấy là ai
thì bà đã trả lời:
-Trước kia tôi là một người
đàn bà ở Sarashina. Ngọn Obasute tức Núi Vứt Bà Già hiện
nay là ngôi nhà tôi ở. Để xua đi những chấp nê hắc ám
trong lòng, đêm nay tôi sẽ hiện ra.
Sau những lời như thế, hình
dáng của bà đã chìm khuất sau những tàng lá đen.
Dân làng: Lời ông vừa
kể nghe thật lạ lùng! Không còn gì để nghi ngờ nữa, chính
là những vọng tưởng trần gian đã khiến cho bà già ấy
xuất hiện và trò chuyện với ông. Tôi cầu mong ông nán lại
thêm chút nữa để có thể tụng vài cuốn kinh cầu siêu cho
bà. Phải ở lại đây mà nhìn sự xuất hiện kỳ diệu ấy!
Lữ khách: Đó cũng là
dự định của chúng tôi. Ngắm được ánh trăng, cõi lòng
sẽ trong lắng. Chúng ta sẽ chứng kiến quang cảnh kỳ diệu
ấy.
Dân làng: Nếu ông còn
muốn hỏi thêm gì nữa, xin chớ ngại.
Lữ khách: Vâng, lúc đó
tôi sẽ xin phép sau.
Dân làng: Không dám nào.
Màn thứ hai:
Lữ khách và bạn đồng
hành: Ánh trăng rằm đã xóa hết bóng đêm. Ánh trăng rằm
đã xóa hết bóng đêm. Bỗng có cái gì như rúng động trên
bầu trời không một gợn mây và trải rộng đến ngàn dặm.
Đâu đâu cũng là mùa thu nối liền một dãi. Làm lòng người
cũng trong vắt như thu: "Trung thu đêm ấy màu trăng mới. Ướm
hỏi bên trời dạ cố nhân" (Tam ngũ dạ trung tân nguyệt sắc.
Nhị thiên lý ngoại cố nhân tâm) [8].
(Hán Thi).
(Hồn ma của bà lão xuất
hiện)
Hồn ma: Ôi, giây phút
này thật là kỳ thú. Giây phút này thật là kỳ thú. "Đến
khi trời hừng sáng. Tiết trung thu chấm dứt" và ánh trăng
của đêm nay "sẽ làm ta tiếc nhớ" [9].
(Thơ
Waka).
Ta trông chờ thu đến biết
bao lâu. Không thể tưởng tượng rằng ánh trăng rằm lúc
nào cũng tuyệt vời như thế. Trên Núi Vứt Bà Già, trời
không một gợn mây. Ôi trăng thu của Obasute đã làm cho những
cảm xúc trong lòng ta khó nén [10].
Ôi, thuở xưa trăng ấy thế nào? Ta không sao nhớ nữa!
Lữ khách: Kỳ lạ thay,
thời khắc trôi quá nhanh. Dưới ánh trăng, một lão bà trong
y phục tuyền trắng [11]vừa
xuất hiên. Đây là mơ hay là thực nhỉ? Tôi không thể nào
biết chắc.
Hồn ma: Sao lại bảo
là không biết chắc, hở ông? Tôi vừa hiện ra vào lúc hoàng
hôn và bây giờ tôi lại đến đây lần nữa cho dù đang tủi
thân vì hình dáng già nua xấu xí!
Lữ khách: Tại sao bà
lại cứ muốn ẩn mình. Không phải núi này có tên là Obasute,
Núi Vứt Bà Già...?
Hồn ma: Nơi bà lão chọn
làm nơi cư ngụ.
Lữ khách: Nhớ về quá
khứ, vào một đêm thu...
Hồn ma: Khi cùng họp
bạn bè ở dưới vầng trăng
Lữ khách: Trên thảm
cỏ
Hồn ma: Giữa ngàn hoa.
Hoặc đứng hoặc nằm, để cho tay áo rộng đẫm sương đêm...
Tất cả (hồn ma, lữ khách
và bạn đồng hành): Hỏi từ bao giờ con người đã bày
ra những cuộc vui chơi dưới vầng trăng để rồi sinh ra thương
yêu gần gũi? Và tất cả có phải là hiện thực hay không?
Hợp xướng: Đóa hoa
nữ lang [12]yêu
kiều đã qua thời xuân sắc. Đóa hoa nữ lang yêu kiều đã
qua thời xuân sắc. Hoa tàn tạ trong một manh áo cỏ. Người
ta vứt thân xác của tôi từ lâu lắm rồi nên tôi không biết
hiện giờ nó ra sao nữa. Trên núi Obasute, nơi tôi trở lại,
ánh trăng Sarashina đã soi rõ mặt mày. Ôi, nó chỉ để làm
tôi tủi hổ. Nhưng thôi, có gì quan trọng đâu, vì cõi đời
này đều là hư ảo. Nói đã dư và nghĩ đến cũng bằng thừa.
Trên bãi cỏ của thời kỷ niệm, ở giữa ngàn hoa, tôi đã
vui chơi và tắm ánh trăng thanh. Chính ra tôi giống một người
kia, khi có hứng thì tìm đến nhưng cũng vì cái hứng ấy
mà bỏ ra về [13]nhưgiờ
đây, trước vầng trăng tuyệt đẹp trên bầu trời trong khoảnh
khắc này.
Hồn ma: Những nơi khác
hãy còn biết bao thắng cảnh có thể đến ngắm trăng. Nhưng
hỡi ôi, ở Sarashina...
Hợp xướng: Trên núi
Obasute, trời không gợn bóng mây và trăng tròn vành vạnh như
cái bánh xe đang tỏa ánh sáng chiếu lên những mỏm núi ôm
theo bờ biển.
Hồn ma: và (ánh sáng
ấy) cũng được thấy trong lời thệ nguyện linh thiêng của
chư Phật nữa.
Hợp xướng: Cho dù không
nên đánh giá là cao hay thấp nhưng trong những lời thệ nguyện
cao quí nhất về sự cứu chuộc, chỉ có lời thệ nguyện
quang minh của Đức Phật A Di Đà là vượt lên trên tất cả[14].
(Hồn
ma của bà lão bắt đầu múa một điệu vũ). Và nếu như
3 luồng ánh sáng (tam quang: mặt trời, trăng, sao) đều hướng
về phương Tây là vì muốn mời mọc hết thảy chúng sinh
hãy vào cõi Tây Phương Tịnh Độ [15].
Vầng trăng ở bên cạnh Đức Phật A Di Đà Như Lai là cánh
tay mặt (ở bên sườn ngài). Những ai hữu duyên sẽ được
ánh trăng dẫn dắt và nâng đỡ, tội lỗi của họ rồi sẽ
được nhẹ đi. Nhận được sức mạnh vô song như vậy, mỗi
người sẽ nhận được danh hiệu Đại Thế Chí Bồ Tát.
Rồi trong mão miện (thiên quan) của họ, sẽ có những đóa
hoa lấp lành và mỗi đài hoa đều được làm bằng ngọc
và những cõi tịnh độ khác sẽ phản chiếu ánh sáng đến
từ chúng. Tiếng gió từ trong những tòa lâu đài bằng ngọc
(Ngọc Châu Lâu) sẽ hòa điệu cùng tiếng trúc tiếng tơ,
làm cho lòng của chúng ta thêm rộn rã. Bao đóa sen hồng và
sen trắng thi nhau nở và những kẻ đang đứng bên bờ hồ
(Bát Công Đức Trì) trên Cực Lạc sẽ được thưởng thức
một mùi hương thanh quí từ những cánh hoa của hàng cây ra
hoa bằng ngọc đang bay lả tả.
Hồn ma: Và con chim Ca
Lăng Tần Gia (Kalavinka) [16]với
tiếng hót thanh tao...
Hợp xướng: ...âm sắc
của nó như tiếng chim công (khổng tước) và chim két (anh
vũ) cộng hưởng thế nhưng khi cả công và két cùng nhau bắt
chước tiếng hót tuyệt vời đó thì chẳng khác nào chúng
đem bóng tối ra đọ cùng ánh sáng. Ánh sáng (của vầng trăng)
vốn không hề có giới hạn nên còn được đặt tên là Bồ
Tát Vô Biên Quang [17].
Tuy vậy, vầng trăng kia còn có lúc bị mây che khuất (vân
nguyệt), khi đầy khi khuyết. Tất cả các hiện tượng đó
nếu xảy ra là để chứng minh cho ta thấy cuộc đời này
lúc có lúc không và luôn luôn biến đổi (hữu vi, chuyển
biến).
Hồn ma: Nhớ lại những
đêm xưa, khi ta phất ống tay áo vui chơi...Ôi, ở vùng Sarashina!
Có ai an ủi được, Nỗi đau trong trái tim tôi.
Hợp xướng: Khi tôi ngẩng
đầu nhìn ánh trăng chiếu sáng. Khi tôi ngẩng đầu nhìn
ánh trăng chiếu sáng.Trên ngọn núi Obasute.
Hồn ma: Ta đã làm bạn
với vầng trăng, cùng đùa nghịch với nhau giữa một vùng
hoa cỏ. Nhưng trên lớp cỏ mùa thu, sương đã khô rồi!.
Hợp xướng: Giữa phút
giây ngắn ngủi như đời của sương mai, cớ sao ta lại còn
xuất hiện để chập chờn đôi cánh bướm? [18]
Hồn ma: Tôi múa may ống
tay áo để vui chơi.
Hợp xướng: Bay tới
bay lui và như sống lại...
Hồn ma: ...mùa thu trong
dĩ vãng.
Hợp xướng: "Khi nhớ
về những cố chấp của mình, tôi không biết làm sao thoát
khỏi. Đêm nay ngọn gió thu lạnh thấm đến tận xương da
khiến tôi hồi tưởng đến những tình cảm, những đam mê
của mình trong quá khứ cũng như lòng tiếc nuối cảnh sắc
thế gian này. Mùa thu ơi và những người bạn xưa ơi!"
Thế nhưng trong lúc bà đang
trầm ngâm suy nghĩ thì đêm hầu tàn và ngày đã rạng ra.
"Ta lại trở thành vô hình vô ảnh". Lúc đó, đoàn lữ khách
cũng quay gót trở về. (Mấy lữ khách đứng lên và ra khỏi
sân khấu)
Hồn ma: Chỉ còn lại
một bà già bị bỏ rơi!
Hợp xướng: Hôm nay cũng
như thời xưa, vẫn còn đó Obasute Núi Vứt Bà Già, vẫn còn
đó Obasute Núi Vứt Bà Già.
Dịch
ngày 25 tháng 5 năm 2020.
Phần chú thích:
[1]
- Núi Obasute này được xem là chỗ ngắm trăng đẹp có lẽ
vì trên núi có một khoảng đất bằng có thể nhìn bao quát
khắp vùng chung quanh. Hơn nữa, vùng đất Sarashina đầy truyền
thuyết cũng là một gối thơ (utamakura). Nhà thơ và phê bình
gia Nijô Yoshimoto (1320-1388) có câu hokku (thơ ra đề) nổi tiếng
về trăng vùng Sarashina / Obasute. Nguyên văn: Tagui naki / na wo
mochizuki wa / koyoi kana. Ý nói đêm nay mới thật là đêm để
ngắm con trăng danh tiếng có một không hai ấy.
[2]
- Cụ thể là bài số 878 trong Kokin Wakashuu, truyện số 156
trong Yamato Monogatari.
[3]
- Bài thơ của nhà thơ vô danh trong Kokin-shuu đã đề cập
đến. Nguyên văn: Wa ga kokoro / Nagusamekanetsu / Sa rashina ya /
Obasuteyama ni / Ko naki ato nite / soro e to yo /.Ý nói đừng ai hòng
an ủi nỗi cô đơn mà tôi cảm thấy những khi tôi ngắm vầng
trăng sáng trên ngọn núi Obasute hoang vu này.
[4]
- Cây quế (katsura) tên khoa học là Cercidiphyllum japonicum, giống
quế Nhật Bản có đặc điểm là lá của nó hình thù đều
đặn và tròn. Cũng ám chỉ cây quế trên cung trăng của chị
Hằng.
[5]
- Một trong 13 ngọn núi của Obasute.
[6]
- Trên nguyên tắc, người ở kinh đô phong lưu thanh nhã nên
mới là kẻ bà chờ đợi.
[7]
- Tủi hổ thẹn thùng vì mình là người bị vứt bỏ.
[8]
- Thơ Bạch Cư Dị. Hai câu trong bài "Bát nguyệt thập ngũ
dạ" được trích lại trong Wakan Ryôei-shuu (Hòa Hán Lãng Vịnh
Tập). Trong nhiều tuồng Nô, hai câu này thường được dẫn
chứng khi nói về trăng (ví dụ tuồng Kogô).
[9]
- Thơ của Fujiwara no Teika chép trong Shin Kokin Waka-shuu (Tân Cổ
Kim Hòa Ca Tập, ra đời năm1205). Ý nói: Đêm nay khi hừng sáng,
tiết trung thu sẽ chấm dứt và ánh trăng tàn kia sẽ mang theo
niềm nhớ tiếc của ta.
[10]
- Xúc động vì ánh trăngì đã khơi dậy tất cả những kỷ
niệm thương đau trong quá khứ. Lòng cảm cựu.
[11]
- Theo truyền thuyết, màu trắng là màu áo của 15 tiên nữ
trên cung trăng tượng trưng cho 15 đêm có trăng. Mười lăm
cô áo xanh tượng trưng cho 15 đêm không trăng. (Xem chú thich
trong bản dịch tuồngHagoromo)
[12]
- Nữ lang hoa (jorôka, valerian), tên một loài hoa có dược tính
làm dịu thần kinh. Nghĩa bóng là cô gái trẻ đẹp. Đã nhiều
lần thấy trong Man.yôshuu dưới cái tên Ominaeshi. Tên khoa học
là Patrinia scabiosaefolia.
[13]
- Lấy ý một giai thoại văn chương Trung Quốc vào đời Đông
Tấn (thế kỷ thứ 4). Văn nhân Vương Tử Do (tức Vương Vi
Chi, con trai thứ 5 của nhà thư đạo Vương Hy Chi) thấy trăng
đẹp, nổi hứng chèo thuyền đi thăm bạn cũ là Đái An Đạo
nhung khi đến cửa nhà bạn lại bị ánh trăng thu hút, quên
cả mục đích viếng thăm mà quay thuyền về. Đã nói:" Hứng
thì ta đi, hứng thì ta về, đâu liên quan gì đến An Đạo".
[14]
- Muốn ví ánh sáng của vầng trăng với ánh sáng của Phật
pháp.
[15]
- Văn từ của đoạn này trở đi vốn lấy cảm hứng từ
A Di Đà Kinh để vẻ nên cảnh tượng hạnh phúc tuyệt đối
của cõi Cực Lạc. Hơi khó dịch.
[16]
- Con chim thần thoại đầu người thân chim, tiếng hát thánh
thót. Tương truyền sống trên núi Himalaya,
[17]
- Chữ trong Quán Vô Lượng Thọ Kinh: "Nên mới đặt danh hiệu
cho Bồ Tát đó là Vô Biên Quang".(Thị cố hiệu thử Bồ Tát
danh Vô Biên Quang)
[18]
- Ám chỉ cánh bướm của Trang Chu (hồ điệp mộng), ngụ
ngôn chép trong sách Trang Tử.
Lạm bàn của người dịch:
Tăng Vô Trú (Mujuu, 1226-1312)
có kể trong Shasekishuu (Sa Thạch Tập) câu chuyện sau đây:
Đời Hán, có kẻ tên gọi
Hiếu Tôn tức đứa cháu có hiếu. Năm ông ta 13 tuổi, bố
của ông nghe theo lời vợ đem cha mình lên núi vứt. Cậu con
tuy hãy còn trẻ nhưng là người biết đạo nghĩa nên can gián
mà bố chẳng thèm nghe. Nguyên Cốc và Nguyên Khải – hai người
con - mới đẩy ông nội lên cái cáng rồi họ cùng nhau đưa
lên núi. Khi sắp đi về, Nguyên Khải vẫn khư khư giữ lấy
cáng. Cha lúc đó mới hỏi:
-Sao mi còn muốn đem cáng
về? Để làm gì thế?
Cậu con trả lời:
-Để khi nào bố già, chúng
con sẽ dùng nó để khiêng bố đi vứt!
Ông bố thót người, nghĩ
rằng nếu mình vứt cha, mai mốt con nó cũng sẽ bắt chước
mà vứt mình thôi. Bèn đưa cha về, phụng dưỡng như cũ.
Mujuu kể truyện này để đi
đến một kết luận có tính đạo đức.Theo ông, nó đã xảy
ra từ đời Hán bên Tàu nghĩa là lâu lắm rồi. Thế nhưng
truyền thuyết về việc vứt bỏ người già (hay giết con
nít) để giảm bớt miệng ăn cũng đã có từ rất xưa trong
xã hội Nhật Bản, một xã hội nông nghiệp thường có nạn
đói vì mất mùa. Nếu không như thế thì đã không có cái
địa danh Obasute ở Nagano từ lúc nó còn mang tên là tiểu
quốc Shinano!
Trải qua thời trung cổ và
cận đại, tục lệ kinh hoàng đó còn được nhắc lại gần
đây như trong Obasute của Inoue Yasushi (1907-1991) hay Narayama Bushikô
của Fukazawa Shichirô (1914-1987). Tác phẩm sau đã được dựng
thành phim 2 lần. Lần đầu vào năm 1958 đạo diễn bởi Kinoshita
Keinosuke lần thứ hai năm 1983 với đạo diễn Imamura Shôhei.
Nếu bộ phim cũ của Kinoshita được tiếp đón một cách bình
thường thì bộ phim mới và táo bạo này đoạt ngay Giải
Càng Cọ Vàng (Palme d’Or) tại Đại hội Điện Ảnh Cannes
nhưng cùng lúc đã gây ra chấn động một thời vì tính cách
tàn nhẫn và sống sượng của nó.
Narayama
bushikô, cuốn phim đã gây xúc động mạnh
Ở Tây phương, khán giả Âu
Mỹ vẫn còn nhớ đến cuốn phim "Những kẻ dã man vô tội"
(The Savage Innocents, 1960, Paramount) do Anthony Quinn và Yoko Tani
chủ diễn, phóng tác cuốn tiểu thuyết nhan đề Top of the
World của nhà văn Thụy Sĩ Hans Ruesch. Cuốn phim này trình bày
cuộc sống hoang dã của sắc dân Inuits (tên riêng của người
Esquimo thuộc Canada) mà giá trị quan đi ngược hẳn với cách
suy nghĩ và cảm nhận "văn minh" của con người trong xã hội
hiện đại. Hai cảnh gây sốc nhất trong phim là cảnh người
con trai Inuits đem mẹ già ra bỏ giữa băng tuyết để dành
thức ăn cho người trẻ còn sức lao động và việc anh lỡ
tay đập vỡ đầu một nhà truyền đạo vào bức tường băng
của cái lều giữa đồng tuyết. Động cơ của án mạng là
việc ông truyền đạo đã dám từ chối "cười" với vợ
anh dù được anh mời mọc một cách ân cần. Khi (không) làm
như thế, ông đã phụ lòng người bạn hiếu khách và tệ
hơn nữa, đã có thái độ ngang với một hành động sỉ nhục
anh. Người cảnh sát (Peter O’Toole ) có nhiệm vụ lên điều
tra để bắt anh về tội sát nhân sau khi đã hiểu ra câu chuyện,
đành phải trở về tay không.
Sau khi xem vở tuồng Obasute
và chiêm nghiệm những điều nói trên, chúng ta không khỏi
giật mình khi nghĩ về thái độ và hành động kỳ thị người
già trong xã hội hiện đại mỗi khi con người phải đối
phó với một tình thế khó khăn như bệnh dịch và bắt buộc
chọn một ưu tiên. Viễn tượng người già sống quá lâu
để trở thành một gánh nặng bắt xã hội cưu mang cũng là
một điều ai nấy đều phải suy nghĩ. Một lần nữa, chúng
ta thấy vở tuồng Nô này đã đặt ra thêm một vấn đề
có tính phổ quát khác liên quan đến bản chất của con người.
Nhân đây, "last but not least",
chúng ta cũng không thể nào không nhắc tới hai tác phẩm nổi
tiếng của văn học Nhật Bản liên quan đến vùng đất Sarashina
/ Obasute. Một là tập nhật ký Sarashina Nikki (1020) của bà
Sugawara no Takasue no Musume, mô tả thế giới mộng mơ của một
cô tiểu thư con quan địa phương, hai là tập tùy bút lữ
hành Sarashina Kikô (1688-89) mà thi hào Bashô đã chấp bút khi
ông trở về từ một chuyến đi ngắm trăng trong vùng, xảy
ra gần 3 thế kỷ sau khi vở tuồng Nô nói trên ra đời. Để
thấy rằng có một sợi chỉ đỏ đã nối kết xuyên thời
đại các bộ phận của dòng văn học Nhật.
Thư mục tham khảo:
-
Obasute (Núi Vứt Bà Già) trong
Yôkyoku Hyakuban (Dao khúc bách ban = Một trăm vở tuồng Nô),
Nguyên tác Nhật Ngữ.
-
Obasute (La vieille abandonnée), bản
dịch sang Pháp văn. La Lande Des Mortifications. Vinght Cinq Pièces
de Nô (Cõi Thống Khổ. Hai mươi lăm vở tuồng Nô). Armen Godel
và Kano Koichi dịch chú. Gallimard, Paris 1994.
|