Shunkan
trên sân khấu
Lược truyện:
Thời điểm là cuối đời
Heian (thế kỷ 12) khi tập đoàn quân nhân Heike đạt đến
tột đỉnh vinh quang, tha hồ làm mưa làm gió giữa triều đình.
Nhà sư Shunkan (Tuấn Khoan) [1],
người đang lãnh chức Shôzu (Tăng đô) [2]
và cai quản (Shuugyô) [3]
ngôi chùa lớn Hosshôji (Pháp Thắng Tự) ở kinh đô (Kyôto)
cùng một số đồng chí âm mưu lật đổ chính quyền Heike
để trung hưng vương thất. Âm mưu tiết lộ, ông bị bắt
và đày ra ngoài Kikaigashima (Quỷ Giới Đảo) ngoài khơi vùng
Satsumagata (tức mỏm cực nam của đảo Kyuushuu bây giờ) cùng
với đồng bọn là hai ông Fujiwara no Naritsune [4]và
Taira no Yasuyori[5].
Thời gian thấm thoát, trong triều có sự kiện vui mừng là
Hoàng hậu họ Taira tức bà Tokushi (Tokuko) – con gái quyền
thần Taira no Kiyomori – sắp sinh con. Để cầu Trời Phật
cho bà sinh được hoàng nam và mẹ tròn con vuông, chính quyền
Heike ra lệnh đại xá trong thiên hạ. Triều đình bèn gửi
một sứ giả ra Kikaigashima để đọc chiếu chỉ ân xá cho
mấy tù nhân đặc biệt ở đó.
Lúc ấy, trên đảo, hai người
tù sùng đạo là Naritsune và Yasuyori đã lập nên những nơi
thờ phượng giống như 3 đền thiêng ở Kumano trên đất liền[6]và
đến đó hành hương, lễ bái đều đặn. Một ngày kia Shunkan
gặp họ trên đường đi lễ về và cả ba cùng uống một
chén nước lã lấy trong thung lũng để thay cho rượu cúc (kiku
no sake). Trong khi "yến ẩm", họ chạnh lòng nghĩ tới thời
còn ở Kyôto và tâm sự cho nhau nghe tình cảm nhớ quê hương.
Thì vừa lúc đó, sứ giả triều đình do Kiyomori gửi tới
đã đặt chân lên đảo và tuyên đọc chiếu chỉ tha tù.
Thế nhưng trong số người được ân xá, không nghe nói tới
cái tên Shunkan. Quá đỗi tuyệt vọng, Shunkan đâm ra thờ thẫn
mất hồn. Hai bạn tù may mắn xúm lại định an ủi ông nhưng
họ chỉ nghẹn ngào, không thốt nên lời.
Chẳng bao lâu hai ông bạn tốt
số Naritsune và Yasuyori leo lên thuyền sứ giả để về đất
liền. Tuy Shunkan vật vã van nài xin được về theo nhưng ông
đã bị bỏ rơi một cách không thương tiếc trên bãi biển.
Thấy Shunkan nằm lăn lóc trên bãi, khóc lóc thảm thương,
không còn kiêng dè gì nữa, mấy bạn cựu tù từ trên thuyền
mới gọi với: "Rồi sẽ đến phiên thầy được tha về mà.
Cố giữ vững tinh thần nhé!" Thế nhưng tiếng nói của họ
nhỏ dần, con thuyền ra xa bờ và sau đó, mất hút phía chân
trời.
Đặc trưng của vở tuồng:
Vở tuồng này dựa lên bi kịch
của nhà sư Shunkan, chép lại trong Truyện Heike (Heike Monogatari).
Được biết Kikaigashima (Đảo Quỷ Sứ), nơi ông bị đày
còn có tên là Iwojima (Lưu Hoàng Đảo), một trong 3 đảo nằm
ở phía Tây các đảo Tanegashima và Yakushima trong vùng biển
Nam thuộc tỉnh Kagoshima ngày nay. Tuy tên của nó làm ta liên
tưởng tới Iwojima, một nơi từng xảy ra trận đánh ác liệt
giữa hai phe Nhật - Mỹ trong Thế chiến thứ hai nhưng nó lại
là một địa điểm khác, phải đọc là Satsuma-Iwojima thì
mới phân biệt rõ ràng. Dù sao hòn đảo nhỏ này (chu vi 15km,
diện tích 12km2) cũng giống như Iwojima nghĩa là một đảo
núi lửa với ngọn Iwodake (Lưu Hoàng Nhạc) cao 703m và cho đến
ngày nay hãy còn bốc mùi diêm sinh. Diêm sinh phủ trên các
tảng đá và hòa cả vào trong nước biển. Thật là một cõi
địa ngục, chỗ ở của quỷ sứ nếu đem so với cảnh trí
phong lưu thanh nhã của Kyôto, nơi mà Shunkan và các bạn từng
sống.
Shunkan đã trải qua những tháng
ngày tuyệt vọng trên đảo, hoàn toàn không có ngày mai. Cũng
may lúc đầu ông còn hai đồng chí, hay là hai cộng phạm,
để tâm sự và uống với nhau một cốc nước lã thay rượu
để an ủi nhau. Khi sứ giả đến, lòng ông còn chứa chan
hy vọng. Thế nhưng tia hy vọng le lói ấy đã lịm tắt khi
trong chiếu chỉ, ông không nghe nhắc đến tên mình. Ông cầm
tờ giấy đọc tới đọc lui nhưng hoàn toàn không là không.
Lúc đó, sự thất vọng đã làm ông run rẩy và giận dữ,
nhất là sau khi bị bỏ lại một mình trên hoang đảo, ông
càng chìm sâu trong uất hận. Không có hoàn cảnh nào tàn khốc
hơn.
Vở tuồng này tuy không có
sự bộc phát tình cảm dữ dội nhưng qua động tác của người
diễn và lời ca thê thiết của ban hợp xướng, khán giả
có thể hình dung ra sự thất vọng cùng cực của Shunkan.
Thông tin cơ bản về vở
tuồng:
Trường phái. Năm lưu
phái chính đều diễn vở này. Chỉ có phái Kita đặt tên
vở là Kikaigashima thay vì Shunkan.
Lớp diễn: Lớp 4 (Cuồng
nam) Ninjô-mono (Loại tình người).Có thể xem như thuộc lớp
2 trong một chừng mục nào đó.
Soạn giả: Vô danh.
Xuất điển: Truyện Heike,
chương 2 và 3. Truyện Genpai Jôsuiki (Nguyên Bình thịnh suy ký)
các chương 9 và 10.
Mùa: mùa thu (tháng 9 âm
lịch).
Màn : 2
Maeba: Thành phố Kyôto đầu
mùa thu năm1178.
Nochiba: Tháng 9 cùng năm trên
đảo Kikaigashima (nay gọi là làng Mishima quận Ôshima thuộc
tỉnh Kagoshima) cực nam nước Nhật.
Đồ cần thiết kế:
Một chiếc thuyền.
Phối vai:
Shite: Shunkan
Waki: Sứ giả
Tsure: Fujiwara no Naritsune (Thành
Kinh)
Tsure: Taira no Yasuyori (Khang Lại)
Ai-Kyôgen: Người chèo thuyền
cho sứ giả.
Mặt nạ:
Shunkan: Mặt nạ đặc biệt
mang tên ông chỉ dùng cho vở này.
Trang phục (lược
thuật):
Shite: đội mũ sumi-bôshi
có góc cạnh của nhà sư (hay hana- bôshi dành cho cao tăng hay
tô-bôshi kiểu Tàu dành cho người lớn tuổi hay mang tóc giả
đen và dài), mặc mizugoromo tức kimono thường và ngắn, chỉ
tới đầu gối) màu nâu, thêm áo kitsuke / noshime trơn hay kitsuke
/ atsuita dày có vân, koshimino (váy làm bằng rong biển), có
thắt lưng koshi-obi, giắt quạt và tay cầm một cái chậu gỗ
nhỏ có quai (mizuoke).
Waki: trên dưới mặc
đồ bộ suô tức trang phục ngày thường của samurai, ngoài
ra còn thêm áo kitsuke / dan-noshime có gạch dài và to bản, đeo
gươm ngắn, giắt quạt.Trong áo có cất một bức thư.
Tsure (Naritsune): mizugoromo,
kitsuke / noshime / koshi-obi, giắt quạt.
Tsure (Yasuyori): ăn mặc
như Naritsune, ngoại trừ việc đội mũ sumi-bôshi và mang tràng
hạt vì là tăng lữ.
Ai: trên dưới mặc kimono
dành cho kyôgen-kata. Thêm vào đó là kitsuke / noshime với gạch
sọc, quấn koshi-obi, giắt quạt. Sau đó có vác thêm một cái
sào.
Màn: 2 (Kyôto và Kikaigashima)
Thời lượng: khoảng 1h30
Để tiện việc theo dõi, xin
chia vở tuồng thành 6 tiểu đoạn theo thứ tự ABCDEF.
Mặt nạ
ưu tư thống khổ đặc chế cho vai Shunkan
Văn bản tuồng với lời
giải thích (in nghiêng)
A. Sứ giả cho hay mình sẽ
đem lệnh ân xá ra đảo:
Một bộ hạ của Kiyomori
được chọn làm sứ giả đem lệnh ân xá ra đảo. Ông ta
bước vào sân khấu với một người tùy tùng. Ông giải thích
tại sao có lệnh ân xá và chuẩn bị chuyến đi.
Sứ giả: Như ta đây
là người phục vụ trong phủ quan Thái chính đại thần là
ngài Taira no Kiyomori. Mới đây, để cầu nguyện cho Đức Hoàng
Hậu sinh đẻ bình an nên mới ban lệnh đại xá trong thiên
hạ. Ngoài những người khác, ta còn đem lệnh ân xá đặc
biệt đến cho Shôshô (Thiếu Tướng) xứ Tamba là Naritsune
và chức Hangan (Phán Quan) tên Yasuyori thuộc nhà Heike. Do đó
mà tôi phải gấp gấp ra ngoài đảo.
B. Naritsune và Yasuyori đi
hành hương đền thần trên đảo:
Fujiwara no Naritsune và Taira
no Yasuyori đang đi hành hương ba ngôi đền trên đảo Kikaigashima
mà họ xem như là phân nhánh của Kumano sanshatức ba đền Thần
đạo danh tiếng của vùng Kumano, thánh địa trên đất liền,
mà họ đã cung thỉnh về đây.
Naritsune / Yasuyori: Nhân
vì Kikaigashima còn được gọi là Iwo-ga-shima (Đảo lưu hoàng),
mà chữ "iwo" đồng âm với "chúc mừng thần" (kamiwo
iwau),
Kikaigashima còn được gọi là Iwo-ga-shima với ý hòn đảo
chúc mừng thần, nếu như chúng ta cung thỉnh[7]được
thần linh của 3 đền Kumano về đây thì chắc lời khấn nguyện
của chúng ta sẽ được chư thần đoái tới.
Chúng ta vừa bị lưu hình ra
ngoài đảo Kikaigashima ở vùng biển Satsumagata phía nam Kyuushuu.
Naritsune: Tôi đây là
Naritsune, chức Shôshô, võ quan xứ Tamba.
Yasuyori: Còn tôi là Yasuyori,nguyên
quan án dòng dõi Heike đã xuất gia.
Naritsune / Yasuyori: Thảm
thiết thay khi chúng tôi phải ra nông nỗi này!
Khi còn ở kinh đô, chúng tôi
đã khấn nguyện sẽ đến hành hương các đền Kumano 33 lần
trong đời mình. Thế nhưng khi chưa xong được phân nửa con
số trên, chúng tôi đã bị đày ra chốn xa xôi hoang vắng
này. Những lời khấn nguyện của chúng tôi nay trở thành
vô nghĩa. Do đó, chúng tôi muốn chứng minh tấm lòng thành
và sự tin kính của mình nên đã quyết định xin được nghênh
đón chư thần của Kumano tam sơn lên đảo.Từ kinh đô cho
đến Kumano còn có 99 địa điểm thứ yếu thờ các vị nhỏ
(vương tử mạt xã) hơn, chúng tôi cũng xin cung thỉnh các
vị ấy nữa.
Trên con đường hành hương
3 đại thần xã, chúng tôi cũng đến dâng chùm giấy thiêng
(nusa) [8]ở
các đền thứ yếu ấy nữa.
Ngay ở trên hòn đảo hiu quạnh
này, chúng vẫn xem như (minashi) mình có các đền tạm đủ
thay thế cho 3 đền thiêng ở Kumano. Áo gai mỏng dính làm bằng
vật liệu thô sơ trên đảo, lúc nào cũng ướt đầm nước
triều cùng nước mắt là lễ phục hành hương. Chúng tôi
lấy cát làm gạo xay để dâng lên chư thần như đồ cúng
và mượn những cánh hoa trắng của cây bông vải trên bãi
biển (hama momen) thay cho chùm giấy thiêng (nusa) khi làm nghi
thức tẩy uế. Ấy là cách thức chúng tôi tìm về các đấng
thần linh ở nơi đây. Ấy là cách thức chúng tôi tìm về
các đấng thần linh trên đảo này.
C. Shunkan xuất hiện và chuyện
trò với hai bạn đồng tù:
Shunkan xuất hiện trước
mặt họ, trên tay là một cái chậu gỗ có quai. Ông ta gọi
nước vừa múc được từ một dòng suối là rượu cuc và
mời hai người bạn đồng cảnh ngộ.Họ nâng chén mời nhau
và bày tỏ lòng tưởng nhớ kinh đô cũng như than thở cho
kiếp sống khổ đau hiện tại.
Shunkan: Không cần đợi
đến lúc đi qua thế giới bên kia, giờ đây tôi đã trở
thành người canh gác (shimamori) cho hòn đảo nơi bọn quỷ
sứ cư ngụ (Kikaigashima).Bản thân tôi nay đã rơi vào trong
cảnh mê lầm tối tăm và chẳng bao lâu nữa sẽ hoàn toàn
bị bóng đêm của cõi minh đồ bao phủ.
Con thỏ ngọc (ngọc thố) trên
cung trăng ban ngày ngủ trong vùng núi đá vân mẫu, con gà vàng
(kim kê) ban đêm đậu trên cành cây không đâm nổi chồi xanh,
còn như ve mùa thu (thu thiền) thì bám vào cành cây khô đét
mà rên rỉ cho đến kiệt sức. Chúng không thể quay đầu
sang một nơi nào khác [9].
Thỏ ngọc, gà vàng hay ve mùa thu, cảnh ngộ của chúng sao
mà giống Shunkan tôi đến thế. Chúng nó làm tôi nhận ra thân
phận của mình trong lúc này.
Yasuyori: Ô kìa! Không
phải Shunkan hay sao? Thầy làm gì mà đi mãi tận đây?
Shunkan: Ông nhìn ra tôi
ngay đấy nhỉ? Tôi mang ít rượu sake đến mừng các ông vừa
đi thăm đền trở về.
Yasuyori: Trên đảo này
làm gì có sake hở ông? Cho tới gần xem một tí nào! Ôi, nước
lã mà!
Shunkan: Đúng là nước
lã. Thế nhưng ông không nghe nói có loại "thuốc làm bằng
nước" ư?
Yasuyori: Chịu thua thầy
vậy! Bây giờ chúng minh đang ở giữa tháng 9...
Shunkan: ... đúng mùa hoa
cúc, gặp tiết Trùng Dương.
Naritsune / Yasuyori: trên
con đường núi...
Shunkan: Nước là nước
lấy từ thung lũng...
Naritsune / Yasuyori / Shunkan:
Nhớ xưa cụ Bành Tổ sống tới 700 năm cũng là nhờ uống
nước múc từ dưới vực sâu...
Hợp xướng: Ta nghe nói uống
nước hoa cúc (nước lã múc lên) [10]
sẽ có công hiệu trị bệnh như khi uống thuốc, nước hoa
cúc hiệu nghiệm như là dược phẩm. Thế nhưng ta không hiểu
được ý nghĩa thâm sâu của lời nói đó (lời nói có tính
bùa chú của kinh Pháp Hoa). Người ta bảo rằng trên tiên giới,
khi đi trên đường núi, muốn làm khô thật nhanh một tấm
áo ướt đẫm sương hoa cúc, dưới trần cũng phải mất cả
nghìn năm [11].
Tâm cảnh tôi giờ đây cũng vậy. Tôi không biết mình còn
phải ở lại trên hòn đảo lưu đày này cho đến lúc nào?
Mùa xuân đã qua đi, những ngày hè nóng nhất cũng qua rồi,
mùa thu đã hết và mùa đông đang kéo đến. Tôi chỉ biết
bước mùa đi khi nhìn theo sắc lá. Nhớ làm sao chuỗi ngày
xa xưa! Mỗi kỷ niệm đều làm cho tim tôi tan nát. Than ôi,
ở kinh đô, lúc còn sống trong những ngôi chùa lớn như Pháp
Thắng Tự (Hosshôji) và Pháp Thành Tự (Hôjôji), tôi đã vô
tư tận hưởng cuộc sống vinh hoa như những đóa hoa xuân
nở trong Hỷ Kiến Thành (Kikenjô)[12]
ngài Đế Thích Thiên (Sakro Devanam Indraha). Nhưng nay tôi đã
rơi xuống đất đen, cảnh ngộ chẳng khác nào những chiếc
lá cuối thu theo nhau lả tả lìa cành.Tôi đã dùng chiếc lá
rụng làm chén và rượu của tôi chỉ là nước lã múc lên
từ thung lũng. Lệ tôi tuôn như nước một dòng sông. Vẫn
biết rằng mình là kẻ duy nhất đáng bị chê trách nhưng
khi nghĩ đến hoàn cảnh hiện tại, tôi xem cuộc đời mình
đã đến hồi chung cuộc.
D. Sứ giả đến Kikaigashima:
Sứ giả (xá miễn sứ) đến
Kikaigashima bằng thuyền.Thuyền phu báo tin họ đã đến nơi
và sứ giả rời thuyền lên bờ:
Sứ giả: Thuyền đi nhanh
nhờ gió thổi đúng như lời khấn vái xin cho thuận buồm
xuôi gió.Phu trạo cũng nhờ đó mà phấn khởi nhanh tay chèo.
(Lời
sứ giả trao đổi với người chèo thuyền cho mình)
Sứ giả báo tin đã tới
nơi và sau đó lên bờ.
E. Shunkan hay tin dữ là mình
bị lọt sổ:
Khi Yasuyori đọc to nội dung
lệnh ân xá, không thấy có chỗ nào nhắc đến tên Shunkan.Ngạc
nhiên, Shunkan đọc đi đọc lại lệnh ân xá nhưng ông nhận
ra rằng tên của ông hoàn toàn không có nên than khóc và rơi
vào đáy sâu của tuyệt vọng.
Sứ giả: Ơi này! Trên
hòn đảo này có ai là người đang đi đày không? Ta là sứ
giả từ kinh đô mang lệnh ân xá đến đây. Hãy mau đến
mà xem nào!
Shunkan: Ôi chao! Mừng
quá đi thôi. Thầy Yasuyori ơi, đọc ngay đi thầy!
Yasuyori: "Để cầu an
cho Hoàng hậu sắp sinh, một lệnh đại xá đã được ban
hành.Tất cả những kẻ bị phối lưu trên toàn quốc đều
được
Miễn tội. Liên quan đến đảo
Kikaigashima thì có hai người sau đây: võ quan Naritsune, chức
Shôshô xứ Tamba và tăng Yasuyori, dòng dõi Heike, nguyên lãnh
chức Hangan, đều được ân xá.
Shunkan: Cớ sao thầy lại
bỏ qua tên Shunkan?
Yasuyori: Không thấy có
tên đó! Xin hãy nhìn vào những gì được chép trên tờ giấy.
Shunkan: Hay họ chép nhầm
chăng?
Sứ giả: Không. Không
có chuyện lầm lẫn vì hồi ở kinh đô, tôi được lệnh
chỉ đem Naritsune và Yasuyori về, còn Shunkan thì bỏ lại trên
đảo.
Shunkan: Ông ăn nói kiểu
gì vậy. Cả ba chúng tôi đều phạm cùng một tội, cùng bị
lưu đày trên một đảo, nếu như có lệnh ân xá, tất phải
áp dụng nó cho cả ba chứ![13]
Tại sao tôi phải bị bỏ lại để càng ngày càng đắm chìm
trong tội lỗi và không được hưởng sự khoan hồng?
Cho đến nay cả ba chúng tôi
đã sống trên hòn đảo bao vây bằng những ghềnh đá mọc
lởm chởm, ba người mà còn cảm thấy hoang liêu và cô quạnh
nữa là. Thế thì làm sao tôi có thể sống được một mình,
không có một ai để nương tựa, có khác nào một mớ rong
rêu mà những người đánh cá đã quẳng đi và nay đang trôi
nổi vật vờ trên lớp sóng? Khủng khiếp thay! Từ nay tôi
có khác gì những con chim di (chidori) đang cất tiếng kêu thương
trên bãi vắng dẫu biết rằng than khóc đi chăng nữa cũng
không ich lợi gì!
Hợp xướng: Cảm thương
thời cuộc, hoa kia là giống vô tri mà còn nhỏ lệ, ngay cả
chim kia còn thổn thức khi gặp cảnh chia lìa [14].
Nhân hòn đảo này có tên là "Đảo Quỷ Sứ" nên nó là một
cõi địa ngục (minh đồ), chỉ có giống quỷ ở. Thế nhưng
dù quỷ sứ của địa ngục dữ tợn đến mức nào, chẳng
lẽ chúng không động lòng thương cảm trước cảnh ngộ của
tôi sao? Tôi thường nghe là tình cảm con người có thể kinh
thiên động địa và lay chuyển con tim của quỷ thần kia mà!.
Kìa, chim chóc và thú rừng trên hoang đảo này đang cất tiếng
kêu gào, có phải chúng muốn an ủi tôi không?
Shunkan: Có thể đấy
vì lòng của người đã chứa quá nhiều thống khổ khiến
cho chúng cũng...
Hợp xướng: Shunkan mở
tờ lệnh kia không biết bao nhiêu lần và đọc đi đọc lại.
Tuy nhiên dù có đọc bao nhiêu đi nữa thì chỉ có tên Naritsune
và Yasuyori được chép trên mặt giấy. Nghĩ rằng tên của
mình nằm trong phần tái bút, ông đã lật ngược tờ giấy
để tìm những chỗ còn để trống nhưng không thấy đâu
ghi "tăng đô" hay "Tuấn Khoan" chi cả. Có phải đây là một
cơn ác mộng? Nếu đúng thế thì xin kết thúc cho nhanh, thật
nhanh đi nào! Cảnh tượng Shunkan trở thành người mất trí
thật không có gì xót xa hơn!
F. Đoàn người lên đường
để mỗi Shunkan ở lại:
Sứ giả với người tùy
tùng cùng nhau lên thuyền và gọi Naritsune và Yasuyori cùng đi.
Shunkan bám lấy người Yasuyori nhưng bị sứ giả chận lại
và đẩy ra. Khi Shunkan chụp lấy giây thừng neo thuyền, họ
bèn cắt đứt giây. Khóc lóc thảm thiết, Shunkan gieo người
xuống mặt đất. Có tiếng những bạn cựu tù cất lên an
ủi nhưng tiếng ấy cũng xa dần. Shunkan chỉ còn một mình
trên bãi.
Sứ giả: Chúng ta phải
lên đường ngay thôi. Nào hai ông Naritsune và Yasuyori.
Naritsune / Yasuyori: Chúng
tôi không đành lòng để ông ấy lại một mình. Nhưng họ
bắt buộc bỏ người bạn đồng tù để đi về phía hướng
chiếc thuyền.
Shunkan: Nhà sư cũng muốn
lên thuyền bèn níu lấy áo Yasuyori.
Sứ giả: Thế nhưng sứ
giả đã chận ông lại một cách phũ phàng và không cho lên
thuyền.
Shunkan: Có kinh khiếp
chưa? Như lời ngạn ngữ có nói "Công trung hữu tư"(Bên trong
việc công cũng có chỗ cho tình riêng chứ!) Lẽ nào các người
không cho tôi đến được Satsuma ở bờ bên kia.
Sứ giả: Không chút xót
thương, phu trạo nâng mái chèo lên định choảng ông ta.
Shunkan: Sợ mất mạng,
ông bèn thối lui.Thế nhưng vẫn bám chặt giây neo, không cho
con thuyền rời bến.
Sứ giả: Phu trạo bèn
cắt giây neo và đưa thuyền ra vùng nước sâu.
Shunkan: Bị sóng đánh
cho nghiêng ngả, ông không biết cách nào, chỉ còn chắp hai
tay và gọi "Ới, thuyền ơi!"
Sứ giả: Ông ta gọi
"thuyền" nhưng không ai kéo ông lên.
Shunkan: Nhận ra rằng
mình đã làm hết cách.
Hợp xướng: Shunkan gieo
mình xuống bãi cát và kêu gào không dứt. Tiếng ông còn át
cả tiếng Công nương Sayô ở Matsura ngày xưa thảm thiết
gọi chồng trong cảnh biệt ly...
Sứ giả / Naritsune / Yasuyori:
Chúng tôi thật tội nghiệp ông. Khi về đến kinh đô, chúng
tôi sẽ nói giúp cho. Hãy kiên nhẫn đợi chờ!
Shunkan: "Hãy chờ đến
ngày về!". Nhìn thấy được một tia hy vọng trong câu nói
ấy, Shunkan bèn nén nước mắt, đứng tựa vào thân tùng trên
bãi biển [15],
nghe tiếng gọi mình mỗi lúc mỗi xa dần.
Sứ giả / Naritsune / Yasuyori:
"Ông có nghe tiếng chúng tôi không?" Mọi người gọi Shunkan
nhưng tiếng của họ đã chìm sau lớp sóng chiều.
Shunkan: Hãy nhanh nhanh
nói giúp cho tôi nhé!
Sứ giả / Naritsune / Yasuyori:
Nhất định có ngày ông sẽ được về mà!
Shunkan: Thực hay không
đấy?
Sứ giả / Naritsune / Yasuyori:
Nhất định chứ!
Shunkan: Nhờ các ông đấy
nhé!
Hợp xướng: "Hãy chờ
đi! Hãy chờ trong hy vọng!" Tiếng nói và gương mặt của
những người đang gọi ông từ phía biển nghe nhỏ dần. Rồi
sau đó, không còn gì nữa, có chăng là tiếng sóng vỗ. Chiếc
thuyền của sứ giả hoàn toàn khuất bóng, không để lại
dấu vết nào.
Phần chú thích:
[1]
- Shunkan (Tuấn Khoan): Tăng nhân họ Minamoto, sống vào cuối
thời Heian, uất ức vì tập đoàn Heike chuyên quyền nên họp
nhau ở một sơn trang phía bắc kinh đô (vùng Shishinotani) tổ
chức đảo chánh với sự đồng ý của Thiên hoàng Go Shirakawa.
Chuyện bất thành vì bị tố giác, đi đày và chết trên hoang
đảo. Không rõ năm sinh năm mất.
[2]
- Shôzu (Tăng đô) một chức vụ rất cao trong hàng giáo phẩm
do nhà nước qui định, chỉ ở dưới Shôjô (Tăng chính) và
trên Risshi (Luật sư).
[3]
- Shuugyô hay shigyô (Chấp hành) đứng đầu về mặt hành chính
một ngôi chùa.
[4]
- Naritsune là một võ quan khá cao, con trai Fujiwara no Narichika,
một người chủ mưu.Cha ông cũng bị đày nhưng sau đó, bị
giết chết.
[5]
- Ông Yasuyori họ Taira nhưng chống lại Kiyomori. Chức Hangan
(Phán quan) thời ấy còn có nghĩa là chỉ huy cảnh sát công
an.
[6]
- Kumano sansha (tam xã) hay sanzan (tam sơn) là ba ngôi đền Thần
đạo danh tiếng ở vùng Kumano (tỉnh Wakayama bây giờ), một
nơi rừng núi thanh u và uy nghiêm, thánh địa của người Nhật.
[7]
- Tất nhiên hai ông chỉ xây dựng một cách tượng trưng như
lập cổng chào (torii) hay kết hoa kết lá rồi tưởng tượng
thêm chứ trên đảo làm gì có nhân công và vật liệu, huống
chi hai ông lại là quan lớn, chắc không quen lao động.
[8]
Nusa là một chùm giấy làm bằng cây gai (asa) hay bông vải
(momen) làm vật cúng tế hay tẩy uế trong nghi thức Thần Đạo.
[9]
- Mặt trời, mặt trăng và con ve mùa thu là ba vật dù ai có
gọi chúng cũng chẳng quay đầu (như thể kẻ chết cứng).
Hoán nhi bất hồi thủ.
[10]
- Liệt Tiên Truyện có nói về Bành Tổ nhờ uống "cúc thủy"
菊水mà sống lâu."Cúc thủy có nghĩa là rượu cúc, nước
lã ướp hoa cúc hay là nước múc lên. Cúc viết với bộ "thủ"
掬う(sukuu)có nghĩa là vốc lên bằng hai bàn tay.
[11]
- Điển tích Trung Quốc về một người sống lâu tên là Từ
Đồng. Có một vở tuồng Nô tên là Kiku Jidô (Cúc Từ Đồng).
Ngoài ra còn để chỉ sự khác nhau về độ dài giữa thời
gian trên tiên giới với thời gian ở cõi người.
[12]
- Hỷ Kiến Thành hay Hỷ Kiến Cung là một địa điểm trên
Tu Di Sơn do Đế Thích cai quản, một chốn cực lạc có vườn
hoa nơi người tiên đi lại.
[13]
- Khi Naritsune và Yasuyori đi cầu Kumano Gongen (thần của Thần
đạo nhưng là hình ảnh Phật A Di Đà được bản địa hóa),
dĩ nhiên họ cầu xin cho cả 3 cùng được về Kyôto (đúng
theo tư tưởng nhiếp thủ bất xả của Phật A Di Đà tức
cứu tất cả không bỏ sót một ai). Việc Shunkan bị ở lại
là một sự oái oăm.
[14]
- Ý thơ Đỗ Phủ trong bài Xuân Vọng: Cảm thời hoa tiễn
lệ. Hận biệt điểu kinh tâm (Cảm thời, hoa nhỏ dòng châu.
Biệt ly, chim cũng như đau nỗi lòng).
[15]
- Chơi chữ: đợi (matsu) thì phải ở cạnh cây tùng (matsu).
Sao không
thấy tên tôi?
Lạm bàn của người dịch:
Lúc đó, tập đoàn Heike quyền
khuynh thiên hạ.Thiên hoàng Takakura quá trẻ và nhà Taira đã
gả được trưởng nữ của Kiyomori cho ông. Thiên hoàng đã
có sẵn 50% dòng máu Taira (từ người mẹ), mai mốt con trai
ông sẽ là một vị vua có 75% dòng máu ấy. Người kiên trì
kháng chiến là Pháp hoàng Go Shirakawa, cha của Takakura. Thế
nhưng âm mưu đảo chánh của nhóm trung thần phò tá ông thường
họp với nhau ở Shishinotani đã thất bại vì có kẻ tố giác.
Pháp hoàng bị u bế nhưng nhóm trung thần còn khổ hơn vì
bị giết hoặc đi đày.
Ra hoang đảo, hai trong 3 người
trong nhóm chủ xướng còn sống chuyển sang khấn khứa, nghĩa
là chịu phục tùng. Trong khi ấy thì Shunkan, dù là một cao
tăng, không theo đường lối đó. Chắc gián điệp của triều
đình đã tâu báo nên chỉ có hai người vì có cử chỉ sám
hối là được cho về. Cứng đầu và kiêu hãnh như Shunkan
thì không. Do đó, nếu trong lệnh ân xá không có tên ông thì
cũng là điều không lấy làm lạ. Nhưng dù sao, cũng như mọi
người, ông vẫn muốn trở về đất liền vì bản thân ông
còn trẻ và Pháp hoàng hãy còn đó. Thế nhưng tập đoàn Heike
ghét cay ghét đắng ông. Không ai cứu nổi ông, cả sứ giả,
Naritsune hay Yasuyori dù họ đã hứa năm lần bảy lượt trước
khi rời đảo.
Tuy nhiên, theo bà Shirasu Masako
(xem thư tịch), không phải tất cả thần thánh và người
đời đều quay lưng lại với Shunkan đâu. Ario, cậu đầy
tớ trong nhà đã vượt biển ra ngoài đảo gặp chủ. Cậu
tìm kiếm khắp nơi trên hòn đảo sặc mùi diêm sinh nhưng
không thấy bóng ông, cho đến một buổi sáng, tình cờ cậu
nhận ra Shunkan tiều tụy xác xơ, tóc dài đến vai, trong hình
dáng của một người rừng. Chủ tớ gặp nhau, mừng mừng
tủi tủi, hết khóc lại mếu, nhưng tiếc thay mọi sự đã
trễ. Hai mươi ba hôm sau lần gặp gỡ đó, Shunkan trút hơi
thở cuối cùng vào tháng 9 năm Trị Thừa thứ 3 (1175). Ario
đem di hài chủ nhân về đất liền và chôn trên ngọn Kôyasan,
thánh địa của phái Chân Ngôn (vì Shunkan là một nhà sư tông
phái ấy). Năm đó, Shunkan mới có 37 tuổi.
Về phần Ario thì cậu đã
trở thành một du tăng, dành quãng đời còn lại của mình
đi khắp nước để cầu siêu cho vong linh cố chủ. Chưa đầy
10 năm sau cái chết của Shunkan, tập đoàn Heike hoàn toàn bị
tiêu diệt ở eo biển Dan-no-Ura (tháng 3 năm 1185).
Tôkyô
ngày 17/5/2020
Thư mục tham khảo:
-
Shunkan / Kikaigashima, The Noh.com,
bản số hóa 2.0 lên mạng ngày 21/10/2014, song ngữ Anh Nhật.
Bản kim văn tham chiếu.
-
Shunkan, trong Yôkyoku-shuu (Dao Khúc
Tập), quyển trung, Itô Masayoshi hiệu chú, Shinchô xuất bản,
Tôkyô, 1986. Bản cổ văn có chú thích.
-
Shirasu Masako, Nô no Monogatari (Tuồng
tích của Nô), đoạn nói về Shunkan (trang 89-96), Kôdansha Bungei
Bunko xuất bản, Tôkyô, 1995.
|