Nàng kỹ
nữ ở Eguchi trên thuyền hoa giữa hai thị nữ
Lược truyện:
Trong thời gian tạm trú ở
Kyôto, một nhóm nhà sư hành cước muốn viếng thăm vùng lân
cận kinh đô nhất là hành hương ngôi chùa Shitennôji (Tứ
Thiên Vương Tự, lược xưng là Tennôji) trong tỉnh Settsu (nay
thuộc Ôsaka) trước khi tiếp tục về các tỉnh miền Tây.
Hôm đó, họ xuống thuyền, theo dòng sông Yodo ra biển và ngừng
lại ở một ngôi làng tên là Eguchi. Làng nầy xưa kia vốn
là nơi có nhiều kỹ viện (lầu xanh cao cấp) và được nổi
tiếng vì câu chuyện nàng Eguchi-no-kimi, một người đàn chị
trong số các nàng kỹ nữ hoạt động ở đó, từng từ chối
nguyện vọng của cao tăng Saigyô khi ông đến đây xin trọ
qua đêm. Sau khi được một người dân trong vùng giải nghĩa
về sự tích, thầy tăng vân du trong đoàn xúc động khi nhìn
lại di tích nơi xưa kia nàng Eguchi-no-kimi đã sống nên mới
ngâm câu thơ của tăng Saigyô [1].
"Nàng không cho ta trọ. Từ chối chi chuyện nhỏ. Con người
vô tình ơi. Lánh đời được mới khó! [2]".Bất
chợt lúc ấy có một người đàn bà nghe tiếng ngâm bèn bước
ra trò chuyện với nhà sư và xin ngâm một bài thơ khác, tương
truyền người kỹ nữ Eguchi-no-kimi đã dùng nó để đáp lại
vị cao tăng nghệ sĩ, giải thích cho ông hay là nàng không
hề tiếc một chỗ trọ với ông nhưng vì ông là một nhà
tu hành, nàng không muốn để ông bị mang tiếng xấu với
đời là có lần lui tới xóm lầu xanh.
Ngoài ra, người đàn bà vừa
đến bắt chuyện cũng khuyên nhà sư vân du đừng lý đến
chuyện thế gian như ông đang làm vì một khi đã xuất gia,
ông phải cắt đứt mọi liên hệ thế tục. Khi nhà sư hỏi
bà bà ai thì người đàn bà cho cho biết mình là hồn ma của
Eguchi-no-kimi. Nói xong thì biến mất.
Nhà sư vân du bèn hỏi một
người dân sở tại thêm tin tức về nàng kỹ nữ ở Eguchi
ấy. Người ấy bèn kể cho ông nghe giai thoại Shôkuu Shônin
(Tính Không thượng nhân) [3]
một đêm đã được báo mộng rằng Eguchi-no-kimi chính là
hóa thân của Đức Bồ Tát Phổ Hiền[4].
Ông
ta cũng xin nhà sư vân du hãy làm một buổi lễ cầu siêu cho
vong linh Eguchi-no-kimi.
Vào giữa đêm khuya, lúc nhà
sư đang làm pháp sự cho Eguchi-no-kimi thì hồn ma của nàng
xuất hiện trên một chiếc thuyền hoa lợp mái (yagatabune) [5],
bên cạnh nàng là hồn ma của hai phụ nữ theo hầu. Sau khi
cho nhà sư thấy sinh hoạt hào hoa của họ trên chiếc du thuyền
lộng lẫy, Eguchi-no-kimi bèn thuyết về đạo Phật, luật nhân
quả và cuộc đời vô thường rồi múa một điệu vũ. Nàng
cũng giải thích thêm rằng những ai biết trút bỏ những ràng
buộc của vọng tưởng trên đời đều sẽ đạt đến tâm
cảnh giác ngộ. Sau đó nàng bèn hóa thành Bồ Tát Phổ Hiền.
Chiếc thuyền hoa cũng biến thành con bạch tượng. Bồ Tát
Phổ Hiền ngự trên con bạch tượng ấy và tất cả nương
theo một vầng mây bay lên trời.
Đặc điểm:
Ngôi làng Eguchi ngày nay vẫn
còn nằm trong khu Higashi Yodogawa (tức khu phía Đông con sông
Yodo) thuộc thành phố Ôsaka. Từ nguyên của cái tên này là
Naniwa-e no kuchi (mà Naniwa là tên cũ của Ôsaka còn E và Kuchi
khi đọc ghép lại thì thành Eguchi, có nghĩa là cửa (kuchi)
nơi một con sông (e) đổ ra biển). Ngôi làng vốn nằm ở
chỗ hợp lưu của hai con sông Yodo và Kanzaki, nổi tiếng tự
ngày xưa là tuyến giao thông huyết mạch trong vùng nên việc
buôn bán rất phồn thịnh. Vào thời Heian (cuối thế kỷ thứ
8 cho đến cuối thế kỷ 12),nơi đây người qua kẻ lại tấp
nập vì nó nằm trên con đường hành hương của các tín hữu
muốn chiêm bái các thánh địa như Kumano (nơi có 3 ngôi đền
thiêng), núi Kôya (linh trường của Mật giáo) và chùa Shitennôji
(ngôi chùa cổ xây vào năm 623, một trong Ngũ đại tự thời
Nara). Nhân có nhiều người thuộc tầng lớp quí tộc và phú
hào từ Kyôto ghé qua Eguchi nên nhiều kỹ viện đã được
mở ra ở đây và đối tượng kinh doanh của các kỹ nữ là
lớp khách hàng giàu sang lịch lãm. Để xứng đáng với tầm
cỡ ấy, các cô cũng phải có học vấn và am hiểu ca vũ nhạc.
Trong đám họ còn có cả một số mệnh phụ phu nhân ở kinh
đô vì thời cuộc khiến cửa nhà sa sút, tiền bạc hết nhẳn
cũng phái đến Eguchi làm thân kỹ nữ.
Nàng Eguchi-no-kimi được xem
như người đứng đầu một kỹ viện trong vùng, nói trắng
ra là một Tú Bà. Có nhiều giai thoại về hành trạng của
nàng. Trước tiên là chuyện nàng từ chối cao tăng Saigyô
khi ông đến đó xin ngủ trọ qua đêm. Câu chuyện thứ hai
liên quan đến một vị cao tăng khác, Shôku Shônin, người
đã đến đây gặp bà sau khi được thần linh báo mộng cho
biết bà chính là hóa thân của Bồ Tát Phổ Hiền. Khi khéo
léo lồng hai giai thoại này vào vở tuồng, soạn giả Kannami
đã thành công trong việc làm cho cốt truyện thêm phong phú.
Màn diễn độc đáo đáng nêu
ra hơn cả nằm trong phần hai của vở khi nàng Eguchi và hai
thị nữ dạo chơi trên sông trong chiếc thuyền hoa lợp mái.
Cảnh này gieo cho khán giả ấn tượng xa hoa, lộng lẫy về
cuộc đời của những nàng con gái buôn hương trên bến nước.
Giống như một giấc mơ mỏng manh và sẽ biến mất trong giây
phút, các nàng vui chơi thỏa thích cho hết một đêm trăng
dọc theo vùng Eguchi giữa trời nước bao la vì đây là nơi
hai nhánh sông lớn gặp nhau rồi cùng đổ ra biển.Trong khi
vở tuồng mô tả cảnh hoan lạc như thế, nó cũng đã thể
hiện cùng lúc sự khắt khe của cái Nghiệp (karma) tiền kiếp
mà mỗi người phải gánh cũng như cái bấp bênh của một
thế giới vô thường.
Tuy nàng kỹ nữ ở Eguchi làm
cái nghề trần tục nhất trong cõi đời trần tục, nàng lại
là hiện thân của Đức Bồ Tát Phổ Hiền, bậc thánh nhân
tượng trưng cho đạo lý và sự tu hành nghiêm cẩn. Eguchi-no-kimi
biểu lộ ra bên ngoài cái hào nhoáng, hưng phấn và phù ảo
nhưng trong nội tâm của nàng, mỗi hành động đều ngầm
chứa một tư duy sâu sắc về chân lý cuộc đời. Những điệu
múa nàng diễn trên sân khấu không chỉ đẹp đẽ và thanh
nhã, nó còn đưa khán giả đi vào một thế giới sâu lắng
hơn.
Đoạn cuối cùng của vở Eguchi
có lẽ vì có liên hệ đến bộ phận sâu xa nhất trong tư
tưởng nhà Phật nên thường được dùng để tụng lên vào
cái đêm thân nhân phải túc trực bên xác người quá vãng
(tsuuya = thông dạ) để cầu cho vong linh được siêu thoát.
Thông tin kỹ thuật:
Trường phái: cả Ngũ lưu đều
diễn.
Lớp diễn: Lớp thứ 3 (Kazura-mono:
Loại tuồng "Mái tóc đẹp" khi nhân vật nữ thủ vai chính).
Soạn giả: Kannami (nhưng con
ông, Zeami, đã hoàn thành)
Xuất điển: Senjuushô (Soạn
Tập Sao), Jikkinshô (Thập Huấn Sao) và Kojidan (Cổ Sự Đàm)
tức 3 quyển sách thuật lại những sự tích Phật giáo.
Mùa: Thu (tháng 9 âm lịch).
Địa điểm: Eguchi, ngôi làng
trên cửa sông trong xứ Settsu.
Vật cần chế tạo (tsukurimono):
một cái thuyền hoa (thuyền để dạo chơi trên sông, có lợp
mái, yagatabune).
Phối vai:
Shite (Maejite): Người đàn bà
địa phương.
Shite (Nochijite): Vong hồn nàng
Eguchi-no-kimi.
Tsure: Hai người thị nữ của
nàng Eguchi-no-kimi.
Waki: Nhà sư vân du.
Wakizure: Hai tăng nhân tháp tùng
nhà sư.
Ai-Kyôgen: Người dân sở tại
(nam).
Mặt nạ:
Shite: Wakaonna, Zô, Fukai hay
Ko-omote (nói chung là cái loại mặt nạ dành cho đàn bà trẻ).
Tsure: Ko-omote
Trang phục: lược thuật):
Maejite: Đội tóc mượn
Kazura, quấn kazura-obi quanh tóc,mặc karaori tức kimono đẹp
mặc ở bên ngoài, tay ngắn theo kiểu kinagashi tức loại giản
lược vì không kèm theo áo khoác haori ở trên và quần váy
hakama ở dưới, có kimono ngắn tay làm lần lót bên trong (kitsuke
/ surihaku), tay cầm quạt.
Nochijite: Cũng đội kazura
và quấn kazura-obi nhưng karaori thì theo kiểu tsubo-ori (trang
phục rộng thùng thình của phụ nữ trung lưu thời Heian),
kitsuke / surihaku, quần váy hakama với ống rộng (ôkuchi) màu
đỏ, thắt koshi-obi ngang hông, giắt quạt.
Tsure: trang phục như Maejite
nhưng một trong hai tsure mặc karaori lệch sang một bên vai và
vác theo một cái sào.
Waki: Đội sumi-boshi tức
khăn trùm đầu có góc cạnh của tăng lữ, mặc mizugoromo tức
kimono loại thường chỉ dài đến đầu gối. Còn mặc thêm
kimono loại kitsuke kogôshi-atsuita vải dày có in hình và áo
kimono muji-noshime trơn. Quần váy hakama ôkuchi ống rộng, màu
trắng. Giắt quạt và cầm tràng hạt.
Wakizure: Ăn mặc hầu
như cùng kiểu với Waki, cũng có quạt và tràng hạt.
Ai-Kyôgen: Mặc kitsuke
/ dan noshime tức kimono của thường dân, có sọc to bản. Giắt
quạt cùng một thanh đoản đao.
Cảnh : 2 cảnh.
Thời lượng cần thiết: 2
giờ đồng hồ.
Để tiện bề theo dõi xin chia
văn bản dưới đây thành 8 tiểu đoạn ABCDEFGH. Những đoạn
ca từ nằm giữa hai dấu hoa thị * chỉ thấy trong bản tuồng
của một số lưu phái.
Văn bản tuồng với lời
giải thích (in nghiêng)
Đoàn người hành hương đặt
chân đến làng Eguchi.
Trong thời gian dừng chân
ở Kyôto, một nhóm nhà sư hành cước * quyết định ghé thăm
Tennôji */ * đi về các tỉnh miền Tây (theo cách nói bấy giờ
là các tỉnh miền Nam)* [6]
nên mới nhắm hướng xứ Settsu [7](nay
thuộc Ôsaka) mà đi. Bây giờ họ đã đặt chân lên ngôi làng
Eguchi.
Đoàn người (gồm nhà
sư vân du và các tăng tháp tùng): Vầng trăng kia là bạn của
người đã lánh đời nhưng cũng là người quen biết cũ thuở
chúng ta còn vướng trong vòng tục lụy. Vầng trăng kia là
bạn của người đã lánh đời nhưng cũng là người quen biết
cũ thuở chúng ta còn vướng trong vòng tục lụy. Nếu thế
thì biết tìm đâu ra một cõi hoàn toàn cắt đứt với thế
giới vô thường.
Sư vân du: *Tôi là một
nhà sư đang trên đường hành hương qua các tỉnh. Tôi chưa
hề có may mắn được thăm ngôi chùa Tennôji. Vì thế lần
này tôi mới quyết tâm đến đấy.* / * Tôi là một nhà tu
sống ở Kyôto và chưa từng biết các tỉnh miền Tây. Cho
nên tôi quyết định đi thăm những nơi ấy!*
Đoàn người: (Michiyuki
bun: Văn đi đường) Chúng tôi rời Kyôto vào lúc nửa đêm,
khởi hành giữa đêm khuya và lên một chiếc thuyền xuôi dòng
Yodo. Khi xuống đến vùng hạ lưu sông, chúng tôi đã thấy
những chòm lau bạc của vùng Udono [8]mơ
hồ hiện ra. Trong sương khói mông lung phủ lên rừng tùng,
chúng tôi đã đặt chân lên được bờ sông nơi có những
ngọn sóng như làn khói đang bủa nhẹ vào bờ. Chúng tôi đã
đến được làng Eguchi.
Người dân làng chỉ cho đoàn
những di tích ở Eguchi.
Nhà sư vân du hỏi thăm một
người dân (vai Ai-Kyôgen) cư ngụ ở Eguchi và hỏi thăm về
sự tích Phu nhân Eguchi (Eguchi-no-kimi), người xưa kia đứng
đầu một kỹ viện ở Eguchi. Người dân sở tại (tokoro no
hito) này mới chỉ chọ biết ở đằng xa kia có dấu tích
cũ của nàng.
Nhà sư vân du bàn cãi với
người đàn bà địa phương về bài thơ của Saigyô.
Nhà sư nhìn di tích đổ
nát mà dân làng bảo rằng có liên hệ tới Phu nhân Eguchi,
vừa hồi tưởng đến giai thoại liên quan đến người kỹ
nữ đó và cao tăng Saigyô. Khi ông ngâm bài thơ của cao tăng
thì chợt có một người đàn bà sinh sống trong làng tiến
tới bên ông và bắt chuyện. Bà ấy trình bày cho nhà sư vân
du nghe chủ tâm của Phu nhân Eguchi là chỉ từ chối ông một
chỗ trọ vì trong lòng, bà kính trọng một người đã xuống
tóc qui y.
Nhà sư vân du: Ồ, đây
là di tích có liên hệ với Phu nhân Eguchi đấy ư? * Tội nghiệp
thay! * Bà đã qua đời và chôn vùi dưới lòng đất nhưng
danh tiếng của bà vẫn còn sống mãi trong truyện xưa tích
cũ [9].
Giờ đây, khi nhìn di tích đổ nát này, * ta không khỏi chạnh
lòng thương cảm *.
Ta nhớ ngày xưa khi cao tăng
Saigyô muốn xin một nơi ngủ trọ nhưng đã bị Phu nhân Eguchi
thẳng tay từ chối. Vì vậy ngài mới làm bài thơ ý nói:
"Chối bỏ cuộc đời mới là chuyện khó chứ từ chối không
cho một nhà sư ở trọ chỉ là chuyện dễ dàng đối với
một người đàn bà lòng chai đá như bà [10]".
Có lẽ ngài đã làm bài thơ ấy ngay chỗ này chăng? *Ôi, tôi
thấy thương cho ngài! * / * Ôi, thật là một câu chuyện thú
vị! *
Người đàn bà địa phương:*
Xin lỗi sư thầy đang đứng đằng kia ạ. Chẳng hiểu khi
ngâm bài thơ vừa rồi, thầy có ngụ ý gì không? *
Nhà sư vân du: Coi kìa!
Nơi đây đâu thấy nhà cửa mà lại có người
xuất hiện hỏi ta ngâm thơ
với ý gì! * Sao bà lại hỏi tôi một câu lạ lùng như thế
hở? Tôi thấy lạ quá!*
Người đàn bà địa phương:
Tôi quên chuyện cũ này từ bao nhiêu năm rồi nhưng nay nghe
thầy ngâm thơ, quá khứ sống lại trong tôi như việc vừa
mới xảy ra. Ngài Saigyô có làm câu thơ nhắn nhủ: "Thế giới
này vô thường như giọt sương đọng trên lá cỏ. Việc vứt
bỏ cuộc đời bèo bọt này để xuất gia là một chuyện
hết sức khó khăn mới thực hiện được. Cớ sao bà lại
lãnh đạm đến mức không cho tôi được trọ qua đêm". Nghe
câu thơ ấy, tôi xiết bao hỗ thẹn. Tôi nào có ý định không
cho ngài trọ dù chỉ một đêm đâu. Cho nên hôm nay tôi mới
hiện ra đây để giải thích về thái độ từ khước đó.
Nhà sư vân du: * Khi ngâm
câu thơ của ngài Saigyô, bần tăng không có ý gì đặc biệt,
chỉ vì nó có liên quan đến di tích ở đây thôi / Chẳng
qua đến trước cái di tích có liên quan đến bài thơ của
tăng Saigyô, tôi mới buột miệng ngâm thôi * Bà vừa có ý
muốn bào chữa cho người ấy, bảo rằng nàng ta không có
ý định từ chối việc nhà tu kia ở trọ. Vậy bà có thể
cho bần tăng biết bà là ai không ạ?
Người đàn bà địa phương:
Thầy nói thế nghĩa là sao? Tôi xấu hổ vì đã gây nên sự
hiểu lầm là tôi từ khước ông ta.* Thực ra, tôi đã trả
lời ông ấy bằng một bài thơ giải thích lý do dẫn đến
thái độ từ chối cho ở trọ của tôi.Tôi lấy làm ngạc
nhiên khi không nghe thầy ngâm bài thơ tôi đáp!
Nhà sư vân du: * À, bây
giờ tôi mới nhớ ra.* Có phải bài thơ bắt đầu với câu:
"Tôi nghe thầy lánh đời"[11]hay
không nhỉ?
Người đàn bà địa phương:
Tôi chỉ có ý xin thầy ta đừng chấp chi vào một chỗ trọ
vì cuộc đời này chỉ là cõi tạm của tất cả chúng ta.
Tôi nào có ý định không cho thầy ấy trọ đâu! Tôi chỉ
khuyên một cách đơn giản là người đi tu không nên bám víu
vào thế gian, từ đó suy ra là việc cho thầy ấy ngủ trọ
trong một ngôi nhà đầy đàn bà con gái càng không đúng đạo
lý. Chẳng phải thế sao?
Nhà sư vân du: Đúng vậy!
Lời bà nói thật hợp với đạo lý. Ngài Saigyô là người
đã vứt bỏ cuộc đời, cõi tạm của tất cả chúng ta.
Người đàn bà địa phương:
Chỗ của chúng tôi nổi tiếng là nơi hành lạc, có nhiều
điều bí ẩn không muốn lọt vào mắt người ngoài. "Xin đừng
để lòng của người ....
Nhà sư vân du:...lưu lại
cái quán trọ này". Nàng ấy đã viết trong bài thơ như thế.
Người đàn bà địa phương:
Cũng vì lòng nàng cảm mến và tôn kính kẻ xuống tóc đi
tu.
Nhà sư vân du: Thế mà
nàng đã bị xem là kẻ lãnh đạm không cho ông ở trọ...
Người đàn bà địa phương:...trong
bài thơ ông viết về nàng.
Hợp xướng: Tôi không
cho ông ấy ở trọ để ông khỏi luyến tiếc một chỗ giả
ngụ, để ông ấy khỏi bám víu vào cuộc đời nầy nữa.
Cớ sao ông ấy lại xem tôi như một kẻ không có lòng nhân?
Tuy sự việc đã xảy ra từ lâu và tôi không có cách quay
lại với quá khứ, nhưng xin thầy đây chớ để đầu óc
mình bị ám ảnh vì câu chuyện phù phiếm đó vì chính thầy
cũng đã vứt bỏ cuộc đời.
Người đàn bà thổ lộ mình
là hồn ma của Eguchi-no-kimi rồi biến mất.
Chẳng bao lâu, chiều đã
xuống và người đàn bà chỉ còn là một cái bóng mờ. Khi
nhà sư vân du hỏi danh tánh, nàng cho biết mình là hồn ma
của Phu nhân Eguchi. Nàng tan loãng vào trong không khí, chỉ
có tiếng nói là vọng lại.
Hợp xướng: Khi nghe chuyện
bà kể về cuộc thế đầy ưu tư (ukiyo) này thì mặt trời
sắp lặn. Hình dáng của bà nhạt nhòa như cái bóng mờ. Dám
hỏi bà là ai vậy?
Người đàn bà địa phương:
Trên bờ này nơi con sông uốn khúc, thầy sẽ thấy một dáng
người đang đứng lảng đảng trong bóng chiều. Thầy sẽ
hiểu đó là hình dáng của người kỹ nữ ở Eguchi, cho dù
tôi phải hổ thẹn mà nói lên điều ấy.
Hợp xướng: Thôi, còn
gì để nghi ngờ nữa. Bà là một hồn ma, có phải không?
Người đàn bà địa phương:Trong
cõi đời tạm này, tôi ngụ trong cái quán...[12]
Hợp xướng:... từ nơi
đó bà có thể nhìn thấy những cành mai đâm chồi, cũng như
khi ấy bên ngoài, hoa kia chợt hiện ra trong đầu tôi.
Người đàn bà địa phương:
Đều là chuyện không ai biết trước.
Hợp xướng: Có phải
bà đã đến để xem di tích nầy không? Chắc cuộc gặp gỡ
này vốn do cái duyên tiền kiếp giữa tôi với bà. Như người
ta vẫn nói, núp mưa chung dưới một bóng cây hay uống chung
ngụm nước trên dòng đều đến từ cái duyên kiếp trước [13].Vâng,
tôi là vong hồn của người kỹ nữ ở Eguchi đây, thầy ạ!
Nhà sư chỉ nghe mỗi giọng nói vì bóng hình nàng đã bảng
lảng vào không khí. Nhà sư chỉ nghe mỗi giọng nói vì bóng
hình nàng đã bảng lảng vào không khí.
(Đến đây là Nakairi, chỗ
nghỉ giữa hai màn)
Nhà sư hỏi thăm người dân
sở tại về sự tích bà Eguchi-no-kimi.
Người dân sở tại (tokoro
no hito, vai Ai-Kyôgen) khi nãy (đã thấy ở đầu vở) lại bước
vào sân khấu. Ông ta trả lời câu hỏi của nhà sư vân du
và bắt đầu kể lại sự tích của Phu nhân Eguchi.
Số là ngày xưa có một
vị tăng tên là Shôkuu (Tính Không) là người ao ước
được gặp Bồ Tát Phổ Hiền (Fugen Bosatsu). Trong mộng, Shôkuu
được lời thần thác (oracle) hãy đến gặp nàng kỹ nữ
ở Eguchi. Khi ông đến nơi thì nàng đang đi ngao du trên thuyền.
Khi Shôkuu nhắm mắt lại thì ông thấy có Bồ Tát Phổ Hiền
và mười nữ quỷ La Sát. Mở mắt ra, ông chỉ thấy có Phu
nhân Eguchi và đám người theo hầu (Bế mục tức kiến, khai
mục tức thất). Do đó, ông hiểu rằng Phu nhân Eguchi là hóa
thân của Bồ Tát Phổ Hiền, đã xuống cõi trần để cứu
vớt chúng sinh. Người dân sở tại sau khi kể xong câu chuyện,
đã nhờ thầy tăng vân du làm một pháp sự cho Phu nhân rồi
xin kiếu ra về.
Vong hồn Eguchi-no-kimi hiện
ra và dạo thuyền trên sông.
Trong đêm khuya, giữa khi
nhà sư vân du làm pháp sự cho Phu nhân Eguchi thì ông nhận
ra có một chiếc thuyền hoa lộng lẫy với mái lợp trôi trên
dòng sông dưới ánh trăng. Phu nhân Eguchi đang ở trên thuyền,
chung quanh bà là một số kỹ nữ khác.Phu nhân cho nhà sư thấy
mình đang vui chơi thoải mái như thế nào.
Nhà sư vân du: Mới đây
thôi, vong linh của Phu nhân đã hiện ra với giả tướng để
trò chuyện với tôi. Tôi sẽ cử hành một buổi lễ cầu
siêu mong cho linh hồn nàng sớm siêu thăng nơi Phật quốc.
Tất cả các sư: Khi thầy
chưa nói dứt lời thì kỳ lạ làm sao...
Mấy nhà sư tháp tùng:
Khi thầy chưa nói dứt lời thì kỳ lạ làm sao...
Tất cả các sư: Trên
mặt sông và dưới ánh trăng thanh, tôi có thể thấy rõ hình
ảnh những nàng kỹ nữ đang đàn hát trong chiếc thuyền hoa.
Lạ lùng thay, tôi nhìn thấy cả ánh trăng đang chiếu trên
người họ. Lạ lùng thay!
*Hợp xướng / Phu nhân Eguchi
cùng 2 trong số các thị nữ:* Hãy đỗ chiếc thuyền hoa
lại cho ước mơ chăn gối một đêm của chúng ta được thỏa
nguyền.
Hợp xướng: Hãy đỗ
chiếc thuyền hoa lại cho ước mơ chăn gối một đêm của
chúng ta được thỏa nguyền. Trong khi sống những tháng ngày
như vậy, tôi nào có ngờ rằng cõi thế gian này chỉ là nơi
tạm bợ, có khác nào một giấc mộng đâu!. Ngay tấm thân
tôi cũng mong manh bèo bọt nữa là. Ngày xưa trên đầm Matsuragata,
công nương Sayô[14]đã
nhỏ những giọt lệ buồn thương để đưa tiễn chồng mình
sang bên nhà Đường, còn người con gái trên cầu Uji [15]cũngtừng
mòn mỏi đợi người yêu khi những cuộc hẹn hò của họ
trở thành thưa thớt. Tuy tôi chỉ là thân kỹ nữ, nhưng cảnh
ngộ của tôi nào có khác họ đâu. Buồn lắm thay...
* Phu nhân Eguchi và những
người theo hầu / Phu nhân Eguchi *: ...nhưng không biết làm
sao!
Hợp xướng: Tôi không
biết phải làm sao vì cũng như hoa, như tuyết, như mây, như
sóng, tôi trôi nổi và mong manh như bọt nước[16].
Nhưng dù sao, tôi vẫn muốn có những tháng ngày vui thú.
Nhà sư vân du: Lạ chưa
kìa. Trên mặt nước của dòng sông lấp lánh ánh trăng, những
nàng kỹ nữ đang cất vang lời hát và tôi thấy chiếc thuyền
hoa với bao người áo xống đẹp đẽ và sặc sỡ. Không biết
thuyền này của ai đấy nhỉ?
Phu nhân Eguchi: Người
bảo gì cơ? Muốn biết chiếc thuyền này là của ai ư? Xin
phép thưa rằng đây là con thuyền của một người xưa kia
được biết đến dưới cái tên Eguchi-no-kimi, kẻ hay dạo
thuyền và vui chơi vào những đêm trăng tỏ.
Nhà sư vân du: Trời đất
ơi! Hóa ra bà là Phu nhân Eguchi đấy sao? Người ấy đã sống
vào một thời xưa lắm cơ mà!
Phu nhân Eguchi: Ông bảo
tôi là người đã sống vào một thời xưa lắm à? Nhưng ông
đang nhìn thấy người đó đấy vì trăng đêm nay nào khác
trăng xưa!
Các kỹ nữ theo hầu:
Và giờ đây chúng ta đang cho ông xem hình dáng của những
người mà ông bảo đã thuộc về quá khứ.
Phu nhân Eguchi: Cứ mặc
thầy ấy nói!
Các kỹ nữ theo hầu:
Chúng mình chẳng cần phải trả lời mà cũng chẳng thèm nghe...
Phu nhân Eguchi: ...chi cho
mệt.
Phu nhân Eguchi và kỹ nữ
theo hầu: Mùa thu nước chảy xiết nên chiếc thuyền chúng
ta đi nhanh.
Phu nhân Eguchi: Dưới
ánh trăng tỏ ngời, trên thuyền này, chúng ta hãy chống sào
và ca hát [17].
Hợp xướng: Hãy hát
nữa và hát thêm lên. Hãy nhớ về quá khứ đáng yêu và cùng
hát lên nào. Tuy chúng ta còn tiếc nuối cái quá khứ thời
bọn kỹ nữ chúng ta còn dạo chơi trên những chiếc thuyền
hoa nhưng giờ đây xin hãy vui chơi bằng cách hát một bài
ca nói về kiếp sống đầy ưu tư phải trải qua trên trần
thế.
Eguchi-no-kimi thuyết giảng vài
nguyên tắc Phật giáo và múa một vũ khúc.
Phu nhân Eguchi giải thích
một cách giản dị vài nguyên lý chính yếu của Phật giáo
như chuyển sinh (luân hồi), lý nhân quả, nghiệp báo và tư
tưởng chư hành vô thường.Sau đó nàng múa một điệu vũ.
Hợp xướng: Trước tiên,
vì có thập nhị nhân duyên [18]
nên chúng sinh sẽ sinh ra và sinh mãi không ngừng trong vòng
lục đạo [19],
giống như nằm trên cái bánh xe đang mải miết lăn quanh khu
vườn.
* Phu nhân Eguchi / Hợp xướng
*: Như một con chim chuyền hết cành nay sang cành nọ...
Hợp xướng: Kiếp trước
của chúng ta hãy còn có kiếp trước của nó nữa...
* Phu nhân Eguchi / Hợp xướng
*: ...và cho dù chúng ta có lội ngược dòng để tìm về quá
khứ, vẫn không thể biết vòng luân hồi bắt đầu tự chỗ
nào.
Hợp xướng: Rồi khi
cuộc đời của chúng ta (hiện thế) chấm hết, chúng ta sẽ
thác sinh vào một cuộc đời mới (lai thế) và mãi mãi tiếp
tục như thế, không bao giờ dứt kiếp luân hồi.
Phu nhân Eguchi: Ngay cả
khi chúng ta có được phần thưởng tốt lành (thiện quả)
để mang lấy hình dạng con người (nhân gian giới) hay thác
sinh vào cõi trời cao (thiên thượng giới).
Hợp xướng: ...chúng
ta vẫn có thể đánh mất đạo lý và đi vào những lối mê
lầm. Lúc đó chúng ta không thể nào gieo hạt giống lành (thiện
nhân) để giải thoát khỏi phiền não.
Phu nhân Eguchi: Hoặc giả
chúng ta có thể vì một cái nghiệp xấu (ác nghiệp) mà rơi
vào cõi tam đồ [20]
(tức 3 khổ giới) hay gặp phải bát nạn [21]
(tức 8 cảnh ngộ khó khăn), khiến cho
chúng ta xa rời Chánh Pháp.
Hợp xướng: Trong những
hoàn cảnh đó, chúng ta chỉ còn có nước chịu đựng thống
khổ và vô phương tìm thấy Bồ Đề.
Phu nhân Eguchi: Nhưng may
thay, tuy có khó khăn nhưng nay chúng ta được thác sinh vào
cõi con người...
Hợp xướng: Có điều
là phải mang thân xác một người phụ nữ vốn nặng nhiều
oan trái và tệ hơn nữa là hành nghề bán phấn buôn hương.
Khi nghĩ rằng đó là quả báo vì ác nghiệp đến từ tiền
kiếp, lòng tôi không khỏi xót xa.
Vào mùa xuân, hoa (anh đào)
hồng thắm. Mỗi buổi sáng, tôi nhìn thấy trên những mỏm
núi xa, hoa hiện ra như tấm gấm hồng. Nhưng khi chiều xuống,
hoa đã rụng và bay lả tả. Vào mùa thu, khi lá trên cây đổi
màu, khu rừng chiều nhuộm vàng, lỗ chỗ như những mảng
màu ghép lại, tôi thấy sao mà đẹp.Thế nhưng những chiếc
lá ấy sẽ héo úa vì không chịu nỗi sương giá ban mai. Với
người khách đã để cho tiếng gió qua rừng tùng và ánh trăng
thanh xuyên lùm bụi dắt họ tới đây, tôi đã trao đổi những
lời nỉ non tâm sự, Nhưng một khi ra về, khách không còn
quay lại nữa. Nam nữ dù có ấp yêu nhau trong chốn màn loan
trướng phụng, đến một lúc nào rồi cũng phải chia tay.
Cây cỏ, loài không có con tim (vô tình) và con người, giống
có tình cảm (hữu tình), cả hai đều không thể thoát khỏi
lẽ vô thường. Vẫn biết là như thế nhưng đôi khi tôi đã...
Phu nhân Eguchi: ...đi yêu
một chàng trai vì dung mạo (sắc) và quyến luyến người ấy
không rời.
Hợp xướng: Có khi bắt
đầu bằng tình yêu đối với tiếng nói (thanh) của chàng
nhưng càng ngày, tôi càng lậm sâu hơn. Sau đó, ý nghĩ và
ngôn ngữ của tôi vì gợi ra những ác nghiệp nên trở thành
dối trá. Thực vậy, người ta lầm lạc vì bị lục trần
(sáu thứ bụi bặm: sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp) che
lấp và phạm tội bằng lục căn (sáu lối vào: nhãn, nhĩ,
tỵ, thiệt, thân, ý). Lý do là tâm hồn chúng ta đã bị mê
hoặc vì những gì mình được nghe và được thấy. Có phải
lạ không?
Jo-no-mai: Lúc này là màn
diễn jo-no-mai của Phu nhân Eguchi, một điệu múa hết sức
chậm, được đệm bằng tiếng nhạc của ống tiêu (fue),
trống con (kozutsumi) và trống nhỡ (ôzutsumi).
Eguchi-no-kimi hóa thành Bồ Tát
Phổ Hiền và bay về cõi Tây Phương.
Sau khi đã giải thích rằng
sự vứt bỏ mọi chấp trước là con đường duy nhất để
đi đến giác ngộ, Phu nhân Eguchi mới từ giã các nhà sư
và hóa thân thành Bồ Tát Phổ Hiền. Chiếc thuyền hoa Phu
nhân đang ngồi bên trong cũng biết thành con bạch tượng mà
Bồ Tát vẫn cưỡi. Bồ Tát bèn ngồi lên bạch tượng và
bay về hướng Tây, nơi có cõi Tịnh độ của Đức Phật
A Di Đà.
Bồ tát
Phổ Hiền hóa thân thành Eguchi-no-kimi
Phu nhân Eguchi: * Lạ không
kìa? * Tất cả thực tướng ở đời đã lộ cả ra như một
đại dương mênh mông thanh tĩnh không bị ngọn gió của ngũ
trần lục dục thổi tới. Sinh vật nào sống với cảnh địa
này sẽ không còn bị phiền não chi phối.
Hợp xướng: Cái gọi
là chân như sẽ tùy theo cơ duyên của từng người mà hiện
ra trên những lớp sóng của mê lầm. Không có ngày nào mà
sóng kia không dậy. Cuộc đời không có lấy một ngày tĩnh
lặng.
Phu nhân Eguchi: Con tâm
của chúng ta luôn luôn bị ngọn sóng của mê lầm làm cho
dao động bởi vì chúng ta đã lưu cái tâm của mình ở giữa
cuộc đời giả tạo này và không ngừng bám víu vào nó.
Hợp xướng: Nếu chúng
ta không bám víu thì cõi đời đầy lo lắng này (ưu thế =
ukiyo) sẽ khó lòng làm khổ chúng ta.
Phu nhân Eguchi: Nếu chúng
ta không yêu đương...
Hợp xướng: ..thì chúng
ta khỏi phải chờ ai những lúc đêm về.
Phu nhân Eguchi: Chúng ta
sẽ hết thở than vì ly biệt.
Hợp xướng: Hoa anh đào
(mùa xuân) cũng như lá hồng (mùa thu), tuyết cũng như trăng
– những gì từng làm cho lòng chúng ta rung động – rốt
cuộc sẽ không còn giá trị.
Phu nhân Eguchi: Nhớ đấy
nhé, cuộc đời giả tạo này chỉ là quán trọ mà thôi!.
Hợp xướng: Nhớ đấy
nhé, cuộc đời giả tạo này chỉ là nơi chúng ta tạm trú
lúc qua đường. Tôi xin khuyên các bạn chớ bám víu làm chi
một gian nhà trọ... Nhưng xin chào tất cả, đã đến giờ
tôi phải chia tay!
Vừa nói xong câu, nàng kỹ
nữ ở Eguchi đã biến thành Bồ Tát Phổ Hiền, còn con thuyền
nàng đang đi cũng hóa thành con bạch tượng. Thế rồi, Bồ
Tát cưỡi bạch tượng nương theo một vầng mây trắng và
bay về hướng Tây. Ai cũng nghĩ đó là một điềm lành! Đúng
vậy, thật là một điềm lành!
Phần Chú Thích;
[1]
- Saigyô (Tây Hành / Tây Hạnh, 1118-1190): danh tăng Nhật Bản
xuất thân samurai trong đội quân cấm vệ, sống vào cuối
thời Heian và đầu thời Kamakura. Một thi nhân, nghệ sĩ và
nhà văn hóa lớn rất được yêu mến, cuộc đời dược tô
điểm bằng nhiều giai thoại.
[2]
- Thơ Saigyô, có chép trong Shin Kokin-shuu (Tân Cổ Kim Tập, 1201-05)
và Sanka-shuu (Sơn Gia Tập, ?). Xem thêm chú 10.
[3]
- Shôkuu (Tính Không, 917?-1007): một cao tăng thời Heian, xuất
thân quí tộc Tachibana. Theo truyền thuyết, ông đã khai sơn
chùa Viên Giáo (En gyôji) trên núi Shoshasan (Thư Tả Sơn) nay
thuộc thị trấn Himeji tỉnh Hyôgo.
[4]
- Bồ Tát Phổ Hiền (Fugen Bosatsu) tiếng Phạn là Samantabhadra,
cùng với Văn Thù (Monju Bosatsu) là hai vị bồ tát thân cận
của Đức Phật. Đặc điểm là một bồ tát rất thông sáng
và hay cưỡi trên lưng một con bạch tượng. Theo Kinh Pháp
Hoa thì ngài là người đặc biệt chủ trương phụ nữ cũng
có thể thành Phật.Do đó rất được phụ nữ Nhật Bản
yêu kính. Có mười nữ la-sát theo hầu.
[5]
- Yagatabune: thuyền để đi chơi và yến tiệc, có lợp mái
bên trên để che mưa gió. Tạm dịch thuyền hoa, thuyền tình
vì là nơi du nữ tiếp khách làng chơi.
[6]
- Ngày xưa, Nhật Bản không có địa thế như hiện tại nên
họ gọi hướng Bắc bây giờ là hướng Đông và hướng Nam
là hướng Tây (đều để so sánh với Kyôto)
[7]
- Settsu có hải cảng đi vào biển nội địa để xuống vùng
Kyuushuu.
[8]
- Udono trong xứ Settsu là một nơi nổi tiếng về hoa lau, có
giống lau dùng làm nhạc khí để thổi.
[9]
- Chôn vùi như thanh gỗ mục dưới lòng đất nhưng tiếng
tăm còn mãi. Ý câu thơ của Bạch Cư Dị trong Hòa Hán Lãng
Vịnh Tập "Mai cốt bất mai danh".
[10]
- Trong Shin Kokinshuu (Tân Cổ Kim Tập), phần thơ lữ hành, có
đăng bài thơ với giai thoại Saigyô khi thăm chùa Tennôji vì
gặp mưa mới xin người kỹ nữ ở Eguchi cho mình trọ qua
đêm thì bị nàng từ chối. Ông mới làm thơ trách móc nàng
hẹp lượng.Thơ rằng: Yo no naka wo / Itou made koso / taka kerame
/ kari no yadori ni / kokoro tomu na to / omou bakari zo. Ý nói "Lánh
đời mới là chuyện khó chứ từ chối không cho ngủ trọ
là chuyện dễ. Người ơi, cớ sao lòng cô lại lạnh nhạt
đến thế". Thơ có chép cả trong Sankashuu (Sơn gia tập) của
Saigyô.
[11]
- Đây là mấy chữ đầu trong bài thơ trả lời (henka) của
người kỹ nữ. Thơ rằng:"Yo wo itou / Hito to shi kikeba / kari
no yado ni / kokoro tomu na to / omou bakari zo ?" Ý nói: Tôi nghe người
ta bảo thầy là người lánh đời tức đã từ bỏ một ngôi
nhà trọ lớn, sao nay lại còn bận tâm vì một ngôi nhà trọ
nhỏ?
[12]
- Quán trọ (Yado) vừa ám chỉ kỹ viện, vừa chỉ nhà trọ
cũng như cuộc đời tạm bợ.
[13]
- Một thành ngữ thông dụng trong văn bản tuồng Nô nói về
cái duyên tiền kiếp.Nối tiếp với ý trước về cành mai
nhìn từ cửa nhà trọ.
[14]
- Sayô: tên một nàng công nương sống trên đảo Kyuushuu, có
lần đứng trên núi vẫy tay áo tiễn chồng đi xa chỉ sau
một đêm ân ái. Thơ chép trong Man.yôshuu, hình bóng về những
cuộc tình duyên ngắn ngủi của kỹ nữ.
[15]
- Người con gái ở cầu Uji, ý một bài thơ trong Kokinshuu (Cổ
Kim Tập) nói về người con gái phải trải áo ngủ một mình
suốt đêm vì người yêu của nàng không đến, ám chỉ sự
cô đơn của kỹ nữ.
[16]
- Một chuỗi liên tục ác hình ảnh biểu lộ kiếp sống không
có ngày mai của các kỹ nữ (mây, sóng, bọt nước, trôi nổi
vv...)
[17]
- Trạo ca: khúc ca vừa chèo vừa hát, một kỹ năng đặc biệt
của kỹ nữ , thường trổ tài khi đi chơi trên sông (kawa-asobi).
Trạo là cái sào, mái chèo.
[18]
- Nhân quả trong tam thế (tiền thế, hiện thế và lai thế)
của con người được quyết định bằng 12 thứ nhân duyên:
(1) vô minh (sự ngu tối), (2) hành (sức mạnh do dục vọng
dẫn dắt biến thành hành động), (3) thức (ý thức đến
từ sự phân biệt, kỳ thị), (4) danh sắc (yêu tố tinh thần
và vật chất), (5) lục xứ (sáu giác quan), (6) xúc (sự đụng
chạm với ngoại vật), (7) thụ (cảm giác nhận được từ
sự đụng chạm với ngoại vật), (8) ái (ước vọng có được
khoái lạc), (9) thủ (thiên hướng gắn bó với một vật gì),
(10) hữu (ham muốn được tồn tại), (11) sinh (sinh ra), (12)
lão tử (sự suy sụp và hủy diệt của thể xác).
[19]
- Lục đạo: Sáu chỗ mà con người phải thác sinh tùy theo
hành động xấu hay tốt của mình lúc sinh tiền.Tức là (1)
địa ngục đạo, (2) ngạ quỷ đạo, (3) súc sinh đạo, (4)
tu la đạo, (5) nhân gian đạo, (6) thiên đạo.
[20]
- Tam Đồ (Sanzu), chữ có 2 nghĩa: (1) địa ngục để trừng
trị người ác. Có hỏa đồ, đao đồ và huyết đồ. (2)
con sông mà sau khi chết, ai cũng phải vượt qua,
[21]
- Bát nạn tức 8 hoạn nạn. Viêt Nam có câu: "Phật còn lâm
tám
nạn. Người sao khỏi ba tai".
Lạm bàn của người dịch:
Phối hợp hình ảnh một nàng
kỹ nữ với Bồ Tát Phổ Hiền thực là một hành vi táo bạo
nhưng việc ấy đã xảy ra vào thời soạn giả Kannami (1333-1384)
nghĩa là giữa thế kỷ thứ 14 và vốn xuất phát từ lòng
tin của giới bình dân. Theo họ tưởng tượng thì khi Đức
Phật A Di Đà đến tiếp dẫn mọi người về cõi Tịnh Độ,
Bồ Tát Phổ Hiền sẽ có mặt trong số 25 tùy giả và ngài
sẽ tiếp đón phụ nữ, cả những tín hữu xuất thân kỹ
nữ.
Dịch giả xin trích một đoạn
văn đầy hứng thú của văn hào Tanizaki Jun.ichirô (1886-1965)
nói về quang cảnh vùng cửa sông Eguchi trong tác phẩm Ashikari
(Người cắt lau, 1932) với hy vọng là nó sẽ đưa người
đọc hòa mình một cách tự nhiên vào bầu không khí của
vở tuồng:
"Tôi đưa nguyên nậm rượu
Masamune đem theo lên miệng tu, vừa uống vừa chếnh choáng
cao giọng : Tầm Dương giang đầu dạ tống khách, Phong diệp
địch hoa thu sắt sắt. Trong khi đang ngâm
mấy vần thơ ấy tôi bất chợt nhớ ra ngày xưa những nơi
lau lách đìu hiu thế nầy đã xảy ra những tình huống tương
tự từng thấy trong Tỳ Bà Hành của Bạch Lạc Thiên. Không
ít những nàng kỹ nữ đã lai vãng quanh vùng trên những con
thuyền nhỏ len lỏi giữa mấy khóm lau nhất là ở những
thôn làng như Eguchi và Kanzaki phía hạ lưu. Hồi thời vương
triều, có văn nhân Ôe no Masahira đã viết
thiên thuật sự " Quang Cảnh Gái Làng Chơi "
(Yuujo
wo miru no Jo) để nói đến hoạt động nhộn nhịp của
các chị em và không khí trăng hoa suốt một dãi sông này:
" Vùng Kayô (Hà Dương, chỉ
Yamazaki) nằm giữa địa giới ba xứ Yamashiro,
Kawachi và Settsu, là một cửa biển trọng yếu trong thiên hạ,
khách bốn phương đông tây nam bắc khi đi lại đều phải
ghé qua. Những kẻ buôn hương bán phấn ở dưới vòm trời
này, không kể già trẻ đều dắt nhau đến đây. Xóm ăn chơi
đối mặt hai bên bờ, họ cột thuyền trước cửa nhà, chèo
kéo khách giữa dòng sông. Những cô trẻ làm xao xuyến lòng
các ông bằng son phấn và tiếng cười giọng hát, các cô
luống tuổi thì nấp dưới bóng dù, ra hiệu cho hay mình đang
trống bằng cách chống ngọn sào. Ôi thôi, màn thúy buồng
hồng, cho dù không theo lễ giáo con nhà nhưng một cuộc vui
vầy trong thuyền trên sóng không đáng để đời hay sao ! Mỗi
lần đi ngang qua đây và nhìn quang cảnh nầy, ta không sao nén
được tiếng thở dài ".
"Qua nhiều thế hệ, con cháu
Masahira có người tên Ôe no Masafusa lại
viết " Bút ký về gái làng chơi " (Yuujoki),
trong đó ông tả kể lại cuộc sinh hoạt diễm tình và sống
động ven bờ sông này :
" Bờ nam bờ bắc không biết
bao nhiêu là xóm làng. Một phân nhánh con sông chảy vào xứ
Kawachi. Trong vùng gọi là Eguchi có hai trang trại, một cái
tên là Miharagi thuộc về Sở Dược Thảo, một cái tên là
Oniwa thuộc về Sở Bảo Trì. Khi sông vào xứ Settsu, lại chảy
qua các vùng Kanzaki và Kanishima. Nhà cửa nơi đây cứ mọc
san sát, không còn một chỗ lọt. Gái làng chơi tụ lại thành
nhóm, chèo những chiếc thuyền con cập vào thuyền buôn lớn
và rủ rê khách chung chăn gối. Tiếng hát của họ vọng đến
mây trời, âm nhạc hòa theo gió nước trên dòng. Thấy nói
người qua lại không ai còn nhớ về nhà và thuyền câu, thuyền
buôn cứ liên tiếp mắc vào nhau lấp cả dòng sông, hết còn
thấy được mặt nước. Chốn này quả là địa điểm hành
lạc số một trong thiên hạ ".
"Bấy giờ tôi vừa thử đi
tìm trong đáy ký ức mơ hồ của mình một số đoạn văn
mà tôi góp nhặt và đem ra được, vừa ngắm mặt sông vắng
vẻ, chỉ có làn nước trôi buồn bã dưới vầng trăng vằng
vặc. Ai trong chúng ta không có chút lòng hoài cổ. Nhưng sắp
đến cái tuổi năm mươi dễ xúc cảm thì nỗi buồn bâng
khuâng lúc thu về mà hồi son trẻ tôi chẳng đoái hoài gì,
lại đè nặng không sao tưởng tượng. Một ngọn lá sắn
lay động trước ngọn gió thôi cũng đủ làm lòng tôi dậy
lên niềm cảm xúc khôn nguôi. Huống chi trong buổi chiều như
hôm nay, lại ngồi bó gối ở nơi như chốn nầy, làm sao tôi
không cảm thấy cái mong manh bèo bọt của những mưu đồ
do con người mà nay không còn vết tích, cũng như làm sao không
luyến tiếc về thời đại hoa lệ đã tan biến vào quá khứ.
Trong tập " Bút ký về gái làng chơi " có ghi lại tên
tuổi nổi như cồn của các nàng kỹ nữ thưở ấy : Kannon
(Quan Âm), Nyo.i (Như Ý), Kôro (Hương Lô), Kuujaku (Khổng Tước).
Ngoài ra còn truyền lại danh tiếng những Kokannnon (Tiểu Quan
Âm), Yakushi (Dược Sư), Yuya (Hùng Dã), Naruto (Minh Độ). Những
nàng con gái chọn cuộc đời sóng nước ấy bây giờ đã
về đâu ? Nếu các nàng chọn biệt hiệu có hơi hướm Phật
giáo như thế bởi vì, cứ theo lời người ta, các nàng đinh
ninh chuyện bán dâm là một sở hành của bồ tát. Hình dáng
những người con gái tự cho mình là hoá thân của đức Phổ
Hiền và có lúc đã được các vị cao tăng
cúi lạy kia có còn bao giờ xuất hiện trở lại trên dòng
nước để rồi tan biến đi như những bọt sóng hợp tan?
Tăng Saigyô viết
:
"Khi dạo quanh những vùng
kỹ nữ sống như Eguchi hay Katsuramoto, ta thấy nhà cửa của
họ chen chúc nhau hai bên bờ nam bắc của dòng sông. Tội nghiệp
thay, họ phải kiếm ăn bằng cái nghề chiều theo ý khách
! Rồi họ sẽ ra sao khi rời bỏ cuộc sống vô nghĩa này để
sinh về kiếp sau ? Hay nghiệp chướng từ những đời trước
lại bắt họ tiếp tục cái đời buôn hương bán phấn ? Để
sống cho được một kiếp người chỉ thoáng như giọt sương,
họ đã làm cái nghề mà Đức Phật nghiêm cấm. Nào chỉ
có mang tội vào một thân mình, họ còn đáng trách vì đã
làm cho tan nát bao nhiêu cuộc đời khác. Thế nhưng cũng đã
có bao nhiêu kỹ nữ được siêu sinh về cõi tịnh độ vì
tuy làm hại đời của khách trên bến, cũng có những
kẻ thực sự có lòng tốt ".
Có lẽ như thế thì các nàng
kỹ nữ, như Saigyô từng nghĩ, đã thác sinh về đất Phật
và giờ đây, với một nụ cười thương cảm, đang ngắm
nhìn sự sa đọa của thế nhân, cái điều duy nhất không
hề thay đổi trên cõi dương trần.
Quang cảnh
Đức Phổ Hiền khai ngộ tăng Saigyô
Dịch xong ngày
15/05/2020
Thư mục tham khảo:
-
Eguchi (Cửa Sông), bản song ngữ
Anh - Nhật do The Noh.com ( version 1.1) đăng trên mạng, 01/03/2020.
Bản kim văn và ngoại văn tham chiếu.
-
Eguchi (Cửa Sông) trong Yôkyoku-shuu
(Dao Khúc Tập), quyển thượng, Itô Masayoshi hiệu chú, Shinchôsha
xuất bản, Tôkyô, 1983. Bản cổ văn với chú thích.
|