Phần
1: Dư âm sau chuyến thăm Granada.
"Finally, from so little sleeping
and so much reading, his brain dried up and he went completely out of his
mind/Cuối cùng, ngủ ít mà đọc nhiều, suy nhược não bộ,
anh ta đâm ra dở dở ương ương." Miguel de Cervantes Saavedra,
Don Quixote
Lần
đầu tiên tôi được "thăm" Tây Ban Nha - viết tắt là
TBN - phải cách đây trên 40 năm. Nhưng đó thật sự là
chuyến đi cưỡi ngựa xem hoa không hơn không kém. Kiến
thức của tôi về đất nước mỹ miều và đầy ắp
dấu ấn lịch sử này chỉ nằm gọn trong lòng bàn tay.
Cái biết nửa vời thật hời hợt quanh quẩn theo màn
đấu bò tót, làn điệu Flamenco với phím Tây Ban Cầm,
giọng hát khắc khoải, bước nhảy rực lửa, kèm tiếng
gõ song lang/castanet lóc cóc như vó ngựa. Hơn nữa, thời
bấy giờ chưa có internet, du lịch chưa phổ thông đại
chúng, muốn tìm hiểu rõ một đất nước không dễ
chút nào. Bỏ tiền ra mua sách vở thì xót xa hầu bao,
mà cũng chẳng có bao nhiêu; vào thư viện thì ít ỏi
thì giờ, tốc độ đọc, hiểu, rồi ghi nhớ, chỉ bằng
con rùa bò.
Đầu thập niên 1970, nhân
một nhóm sinh viên Công giáo Đức chịu ảnh hưởng "Thần
học giải phóng", đứng ra tổ chức du lịch giá rẻ TBN
ngắn ngày, (để ủng hộ khuynh hướng dân chủ hóa đang
lớn mạnh tại đây và chuẩn bị cho chương trình các
thành phố kết nghĩa? Vào thời điểm nói trên, TBN
vẫn còn là một trong những quốc gia bảo thủ, thậm
chí độc tài nhất nhì Tây Âu), tôi, thằng sinh viên Á
châu độc nhất, "cũng liều nhắm mắt đưa chân" ghi tên
tham dự, sau nhiều đêm trằn trọc tính toán tiền nong.
Chi phí xấp xỉ tiền lương 1 tuần lễ sinh viên làm
việc các tháng hè. Kết cục: trừ đi 2 ngày đi và
về, 3 ngày còn lại tôi được lướt lướt nhìn ngắm
phong cảnh, tham gia sinh hoạt nghiệp đoàn, các đoàn thể
sinh viên v.v. Bản thân tiếng Đức của tôi thuộc trình
độ dốt nát, không hiểu hết chi tiết thuyết minh về
văn hóa, lịch sử, chính trị của người hướng dẫn
du lịch. Tây Ban Nha đi vào tâm khảm tôi là như thế, để
lại khá nhiều dấu chấm hỏi chưa có câu trả lời,
cộng thêm ký ức về những khuôn mặt rạng rỡ của
người dân bản xứ, sẵn sàng hành động vì tin vào
một tương lai tươi sáng. Gần 15 năm sau, xem lại cuốn
sổ tay nhỏ màu hồng thường mang theo bên người mỗi
khi đi xa, tôi đọc được câu ghi chú: "F.G.Lorca, thi sĩ???"
Nhưng quá bận bịu và lười biếng, tôi chẳng nhúc nhích
tiến thêm một bước nào cả để giải mã 3 cái dấu
hỏi nêu trên (xin quý bạn đọc xem bài viết sắp tới).
Nhưng đó là chuyện xưa.
Thời kỳ ấy, du khách Nhật Bản bắt đầu xuất hiện
từng đoàn, phái nam đeo máy ảnh Minolta, Pentax, Yashica v.v.
lung tung chụp cảnh, ít chụp người, phái nữ đi sau trầm
trồ khen ngợi; khác nhiều so với thời nay, đi đâu cũng
thấy phụ nữ Trung Quốc? dùng điện thoại thông minh,
chu môi, xòe 2 ngón tay, xoạt chân, chụp selfie/tự sướng.
Chuyến đi TBN lần này - chúng tôi mua tour du lịch trọn
gói của một công ty người gốc Việt - có khá nhiều
lợi điểm hơn so với 40 năm trước. Thứ nhất: bản
thân tôi có điều kiện chuẩn bị một số hiểu biết
cần thiết tối thiểu? Thứ hai: máy ảnh thời nay tha
hồ chụp chụp, quay quay, về nhà xem không cần thì xóa,
khỏi xót xa sợ tốn tiền mua phim rửa phim như trước.
Thứ ba: hướng dẫn viên du lịch không chỉ đủ kiến
thức sâu rộng, mà còn ăn nói tiếng Việt dí dỏm,
mạch lạc, đâu vào đó. Thứ tư: đi du lịch chung với
bạn bè, người gốc Việt khác, trước lạ sau quen, lợi
nhiều hơn hại, hàn huyên vui vẻ, dễ giúp đỡ nhau đủ
mọi điều.
Chuyến du hành khởi đi đúng
ngày lành tháng tốt vào cuối tháng 9, kéo dài 2 tuần
sang đầu tháng 10, riêng lộ trình tại Tây Ban Nha bao gồm:
Barcelona – Zaragoza – Fuendetodos & Cariñena – Madrid – Toledo
– Córdoba – Granada – Sevilla. Mỗi khách sạn thường chỉ
ngủ tối đa 2 đêm nên chúng tôi kháo nhau, chúng ta là
gánh cải lương đi lưu diễn thập loại chúng sinh: thầy
đờn, thầy tuồng, đào thương, đào lẳng, kép mùi, kép
độc v.v. Thời tiết quá lý tưởng, không một trận
mưa, ban ngày mát mẻ, ban đêm ấm áp, ai sung sức suốt
24 tiếng lang thang khắp hang cùng ngõ hẻm cũng chẳng sao.
Người bản xứ đại đa số rất hiếu khách, vồn vã,
tay bắt mặt mừng. Tuy nhiên cẩn tắc vô áy náy, chúng
ta nên cẩn thận giấy tờ tùy thân, tiền bạc. Con sâu
làm rầu nồi canh, ở đâu cũng có bọn cà chớn cà
cháo tìm cách lợi dụng sơ hở của khách du lịch.
Chuyện ẩm thực trên nguyên
tắc khỏi phải lo, ăn sáng buffet tại khách sạn, cơm trưa
cơm tối hoặc do văn phòng du lịch đài thọ, hoặc tự
biên tự diễn. Thức ăn TBN tương đối hợp khẩu vị
người Việt, không gây khó khăn đường tiêu hóa? nên
ít phải nhận viện trợ từ công ty mì gói. Món thập
cẩm Paella thì chắc chúng ta đa số ai cũng đã
nếm qua. Cơm nghệ vàng chiên (ảnh hưởng văn hóa người
Moor Hồi giáo, họ trồng được lúa gạo ở miền Nam
TBN từ thế kỷ X), trộn hải sản vừa thơm ngon vừa
chắc bụng. Hợp tiêu chuẩn "ngon rẻ lẹ bổ" thì đã
có Tortilla, trứng omelette theo sắc thái bản địa
được bán khắp mọi hang cùng ngõ hẻm.
Tapas là
món khai vị đa dạng, quốc hồn quốc túy, bao giờ cũng
xuất hiện trên bàn ăn. Có điều người TBN, cũng giống
người Việt Nam ta, ăn uống theo giờ giấc cao su: 2 giờ
mới ăn trưa, 10 gìờ đêm mới ăn tối là chuyện thường
tình. Khách lữ hành di chuyển giữa và trong các thành
phố chủ yếu dùng xe bus, các đoạn đường ngắn thì
dùng xe "lô ca chân" cho dãn gân cốt.
Tiệm
ăn quảng cáo cho món quốc hồn quốc túy Tapas
Đại khái
chuyến đi là như vậy. Nhưng nội dung chính bài viết
này (phần I) nhấn mạnh đến dư âm sau chuyến du lịch,
và chủ yếu tập trung quanh Granada thuộc Andalucía miền
cực nam TBN, nơi mang đậm dấu ấn nền văn hóa Hồi
giáo. Viếng thăm thành phố Granada bao lâu thì đủ? Tùy
quỹ thời gian, nhưng theo thiển ý, cần ít nhất 2 ngày.
1 ngày dành riêng cho cổ thành Alhambra (sẽ bàn trong các
bài viết sắp tới), 1 ngày dành riêng cho Granada.
Đất nước
TBN với diện tích đất đai, chu vi biên giới cụ thể
như hiện nay - cũng giống Việt Nam ta và nhiều quốc
gia khác trên thế giới - thật ra mới tồn tại chừng
vài trăm năm. Vào thế kỷ XV, thực thể TBN chưa xuất
hiện, vùng đất này bao gồm nhiều vương quốc tương
đối độc lập, phe Công giáo: Castile, Navarre, Aragon, Majorca,
phe Hồi giáo: Granada. Hiện nay lãnh thổ TBN rộng trên
500K cây số vuông, dân số chỉ gần 47 triệu, so với
Việt Nam 330K cây số vuông, mà dân số gấp đôi, áp
mức 100 triệu. Đế chế La Mã, rồi các tiểu vương
quốc bộ tộc gốc Đức cổ như Vandals, Visigoths v.v.
cai trị phần đất này cho đến đầu thế kỷ VIII. Năm
711 đạo quân người Moor (Berber/du mục Bắc Phi, Hồi giáo
Ả rập) với các cuộc tiến công thần tốc, vượt
eo biển Gibraltar, như vết dầu loang xâm chiếm miền Nam
bán đảo Iberia từ tay chủng tộc người Visigoths, ngoại
trừ phần đất đai phía cực Bắc còn thuộc những
vương quốc theo Ki-tô giáo.
Trong khi "đêm
dài Trung cổ?" phủ bóng Châu Âu, gần 8 thế kỷ dưới
quyền kiểm soát của Hồi giáo, văn hóa, nghệ thuật,
âm nhạc, thương mại, khoa học, y học vùng đất này đạt
được những bước phát triển rực rỡ, mà Granada
là một minh chứng. Ở đây 3 tôn giáo Do Thái, Thiên Chúa
và Hồi giáo, sống chung "tương đối" hòa đồng. Dĩ
nhiên chúng ta không nên so sánh điều kiện sống thời
Trung cổ với tự do tín ngưỡng hiện đại. Tín đồ
Do Thái, Ki-Tô, nếu chịu đóng thuế thân, không bị đàn
áp ngặt nghèo. Ngược lại sau thời kỳ Reconquista, người
Do Thái, người Moor bị đối xử tàn tệ. Nhưng đó
sẽ là đề tài trong các bài viết sắp tới.
Tranh chấp
nội bộ giữa nhiều phe phái chính trị Hồi giáo, khiến
các thế lực này ngày càng suy yếu, đồng thời tạo
điều kiện cho các vương quốc Ki-Tô giáo dần dần
lật ngược thế cờ. 1492 được xem là năm bản lề,
khi đoàn quân
Reconquista/tái chinh phục/tái chiếm dưới
sự lãnh đạo của Vua Ferdinand và Hoàng Hậu Isabella, tiến
vào Granada, thành trì cuối cùng của lực lượng Hồi
giáo ở Âu châu. Chiến thắng Granada là niềm vinh dự
chung cho lực lượng Công giáo. Từ đây Âu châu sạch bóng
Hồi giáo. Ngay cả tại Anh, vương triều chẳng thân thiện
gì với TBN, khi nghe tin, người ta hát thánh thi "Te Deum"
(Lạy Thiên Chúa, chúng con xin ca ngợi hát mừng, tuyên xưng
Ngài là Ðức Chúa).
Granada không
chỉ trưởng thành theo dòng lịch sử, đứa bé sơ sinh
ngày nào còn lớn dần lên nhờ bầu vú huyền thoại.
Với truyền thuyết mang hơi hướm Do Thái giáo hay Ki-Tô
giáo, Grana một cô con gái đáng yêu của gia đình ông
bà Noah, thoát cơn đại hồng thủy, trôi dạt đến vùng
này tìm kế sinh nhai, giúp dân lành trồng trọt, từ
đó vùng đất mới có tên là Granada. Tuy nhiên Kinh
Thánh/Sáng Thế Ký đoạn (7:13): "Lại cũng trong một
ngày đó, Nô-ê với vợ, ba con trai: Sem, Cham và Gia-phết,
cùng ba dâu mình đồng vào tàu." mô tả cảnh gia đình
ông bà Noah lên tàu chạy nước lụt bao gồm 8 người,
chỉ có 3 nàng dâu, không nhắc đến bất kỳ cô con gái
ruột nào cả. Chắc ông bà Nô-ê mặc dù đã trên 500
tuổi (theo Sáng Thế Ký đoạn (5:32)) sau khi thoát cơn lụt
lội, lại tiếp tục sinh thêm mấy cô con gái? Huyền thoại
mang phong cách văn minh Hy La thì khẳng định, vùng đất
này được khai hoang bởi nàng Granata, ái nữ của Hercules.
Cái đặc biệt ở đây: vai trò tiên phong và quyết định
của phụ nữ. Sử gia thì lập luận rằng cộng đồng
người Do Thái, hay các chủng tộc người bản địa cổ
đã định cư trên phần đất này ít nhất 2500 năm. Đơn
giản hơn, nhìn vào Huy hiệu thành phố/coat of arms ta thấy
hình quả lựu, mọc nhiều trên phần đất này, tiếng
TBN là granada. Cũng có thể Granada thoát thai từ Karnattah,
tiếng của người Moor xưa, nghĩa là "ngọn đồi của
những kẻ xa lạ". Tuỳ bạn đọc tin vào Sáng Thế Ký,
truyền thuyết dân gian TBN, hay vết tích khảo cổ, lịch
sử; muốn tận hưởng không khi "Nghìn lẻ một đêm",
cứ đến Granada là đủ, khỏi cần bay sang tận xứ Ba
Tư.
Nếu có
điều kiện chúng ta nên ghé Granada vào dịp lễ truyền
thống từ thế kỷ XVII Fiesta de las Cruces/Lễ Hội Thánh
Gía, diễn ra ngày 3 tháng 5. Thành phố trải rộng
trên 3 sườn đồi, bỗng trở nên lộng lẫy xa hoa, với
vô số thánh giá kết bằng hoa cẩm chướng đỏ rực
dựng khắp nơi. Dưới chân thánh gía trưng bày tiểu
phẩm mỹ nghệ, đồ gốm, đồng v.v. Nam phụ lão ấu
thi đua đóng bộ. Dạo phố lượn lờ hay đang cầm chừng
làm việc, phụ nữ hoa cài mái tóc, súng sính trong bộ
cánh Flamenco rực rỡ nhưng ui chao ơi quá diễm kiều!
Lâu lâu nghe thiên hạ la ó hò reo mới biết có đoàn
kỵ mã, mũ mãng chỉnh tề, áo trắng quần đen đang thả
cương cho ngựa lóc cóc băng ngang thành phố.
|
|
Cửa
vào một căn nhà kín cổng cao tường ở Granada, khác
hẳn kiểu nhà Carmen.
|
Căn
nhà hoa kiểu Carmen.
|
Một
góc phố cổ Albaicín
Dạo quanh
Granada, đặc biệt khu phố cổ Albaicín, được UNESCO
xếp vào danh sách di sản văn hoá thế giới, tâm hồn
khách lữ hành lắng đọng khi băng ngang các ngôi nhà xây
cất theo phong cách Carmen truyền thống. Nhà trên
lưng chừng đồi, mái ngói thâm nâu, tường cao màu đá
vôi trắng, như muốn che chắn mọi cặp mắt tò mò xoi mói
nhìn vào vườn tược riêng tư. Có nguồn gốc từ tiếng
Ả rập, Carmen nghĩa nguyên thủy là chùm, nhánh nho leo.
Vì thế hoa leo đủ màu: tím vàng cam đỏ, thuộc chi Bougainvillea/hoa
giấy thường bám đầy, phủ kín tường phía trong phía
ngoài căn nhà kiểu Carmen. Dĩ nhiên cây lựu - biểu tượng
Granada - cũng không được thiếu, đến mùa sai trái, cùng
chanh, cam, lê, mơ, táo v.v. tỏa mùi thơm ngút ngàn. Đó
là chưa kể nhiều căn nhà có hồ nước với các vòi
phun diễm lệ, khi cần thiết được biến thành hồ
bơi riêng. Tuy nhiên Carmen không chỉ quanh quẩn với nội
dung kiến trúc, thảo mộc; Carmen là một phong cách sống
hòa hợp với thiên nhiên, con người, thông qua mảnh vườn,
xuất hiện từ vài trăm năm trước, vẫn còn tồn tại
đến ngày nay.
|
|
Toàn
khu phố cổ Albaicín, nhìn từ thành Alcazaba/Alhambra.
|
Một
góc thành Alcazaba nhìn từ Albaicín
|
Đứng từ
lâu đài Alcazaba, quần thể Alhambra, phóng tầm mắt
nhìn xuống Albaicín, chẳng khác gì đang mơ thấy thiên
đường hạ giới. Ngược lại, từ những căn nhà Carmen
trong khu Albaicín, ngó lên Alhambra, khi hoàng hôn buông xuống,
trước mắt là bồng lai tiên cảnh. Có thể vì vậy,
khắp phố cổ Albaicín, nhiều quán rượu, tiệm ăn,
khách sạn tự gán cho mình thêm cái mác Carmen, thí dụ:
Carmen de Aben Humeya, Carmen del Cobertizo v.v. Khách khứa vào
đây ăn uống, nhậu nhẹt, ngủ nghê, cứ tưởng mình
đang theo gót Lưu Nguyễn nhập Thiên Thai. Tuy nhập Thiên
Thai nhưng nên cẩn thận: lạc trong đám đông dễ bị móc
túi khi tối trời, và bước chân âm thầm cũng "đạp
mìn" dễ như chơi.
Cư dân phố
cổ Albaicín đa số là hậu duệ người Moor còn bám
trụ sau khi lực lượng Công giáo chiếm Granada năm 1492.
Một số ngay từ đầu bỏ xứ quay về Phi châu. Với
thời gian, những ai ở lại, bị ép buộc phải bỏ đạo
Hồi, theo đạo Ki-Tô. Tín đồ Do Thái giáo trước đó
cũng chung số phận. Tuy nhiên sau nhiều cuộc tranh chấp
khốc liệt, khá nhiều người Công giáo gốc Moor lại
bị đàn áp, thậm chí đuổi khỏi Granada. Trong giai đoạn
lịch sử đen tối này, Toà Án Dị Giáo TBN đóng một
vai trò khá quyết định. Nửa thiên niên kỷ sau, bao nhiêu
nước chảy qua cầu, may mắn thay những vết nhơ nói trên
đã chìm sâu trong quá khứ.
Puerta
de las Granadas/Gate of the Pomegranates
Một
điểm đến tuy không hoành tráng, nhưng phản ánh chiều
hướng lịch sử Granada là Cửa Trái Lựu "Puerta de
las Granadas". Khi lực lượng Thiên Chúa giáo chiếm giữ
hoàn toàn Andalucía, một số các đền thờ, di tích
của người Hồi giáo dần dần hoặc bị phá hủy, hoặc
được sửa sang, trùng tu lại cho đúng phong cách mới.
Tại Granada ít nhất 20 địa điểm xưa là nơi thờ phượng
của người Moor bị đập bỏ. Puerta de las Granadas cũng là
một thí dụ điển hình, tuy không hẳn đã mang nội dung
tâm linh. Dưới thời kỳ Hồi giáo, còn tồn tại chiếc
cổng Bib-Albuxar, tiếng Ả rập nghĩa là "Cửa Đón Tin
Mừng". Trong thời kỳ Phục Hưng, năm 1536 nó bị phá hủy,
và chiếc cửa mới ra đời. Chúng ta còn thấy một
phần di tích tường cánh cửa cũ ở bên phải tấm
hình. Cửa tam quan mới gồm 3 lối đi, vòm giữa dành
riêng cho kỵ binh, xe ngựa, 2 vòm hai bên cho khách bộ hành.
Nằm trên đầu vòm là quốc huy, tượng trưng cho hòa
bình, thịnh vượng, cùng 3 trái lựu biểu tượng cho
Granada. Vượt cửa tam quan chúng ta sẽ băng qua một cánh
rừng nhỏ để tiến vào cổ thành Alhambra.
Khải
Hoàn Môn tôn vinh Đại Đế Constantine
Cửa tam
quan, phải chăng cũng là kiến trúc đặc trưng chùa chiền
Phật giáo tại Á châu nói chung, Việt Nam nói riêng? Thật
tình hiện nay tôi không đủ khả năng, kiến thức để
bàn về vấn đề nêu trên. Mong được các bậc học
vấn uyên thâm chỉ giáo. Chỉ biết rằng giai đoạn hưng
thịnh của Đế Chế La Mã, người ta xây cất khá nhiều
khải hoàn môn theo kiến trúc tam quan để tôn vinh lãnh
tụ, chiến công. Các thí dụ điển hình: Khải Hoàn Môn
Constantine ở La Mã xây năm 312. Khải Hoàn Môn Trajan tại
Timgad/Algeria, thế kỷ II-III. Khải Hoàn Môn Hadrian, tại Gerasa/Jordan,
129-130. Để khỏi sa đà, tôi xin được trở lại đề
tài này trong các bài viết sắp tới.
2 điểm
đến quan trọng khác áp sát bên nhau, mà chúng ta không
thể bỏ qua là: 1/ Nhà Nguyện Hoàng Gia Granada (Capilla
Real de Granada/The Royal Chapel of Granada) địa chỉ: Plaza de
la Lonja, 18001 Granada; trang nhà để tham khảo (tiếng Anh):
http://capillarealgranada.com/en/
2/ Nhà Thờ
Chính Tòa Granada (Catedral de Granada/Granada Cathedral) địa
chỉ: Calle Gran Vía de Colón, 5, 18001, Granada; trang nhà để
tham khảo (tiếng TBN): https://catedraldegranada.com/
Tuy tổng
dân số chỉ gần 240 K nhưng Granada lại có trường đại
học với 80 K sinh viên, trong đó hơn 10 K đến từ ngoại
quốc. Hằng năm thành phố chào đón trên 2.5 triệu khách
du lịch. Chẳng có gì lạ, cứ ra đầu ngõ là đụng
tiệm ăn đặc sản, dân tộc. Tiện lợi cho khách viếng
thăm là địa hình địa thế. Lấy quảng trường Plaza
Nueva làm trung tâm điểm - đi lạc đường thì tìm cách
quay về đây - trong chu vi đi bộ chừng 20 phút, chúng ta
có thể gõ cửa mọi điểm đến quan trọng ở Granada.
Trực chỉ
hướng Tây Nam, trước mắt chúng ta là Nhà Nguyện Hoàng
Gia Granada (viết tắt là NNHGG), khởi công xây cất năm
1505, hoàn thành 1517, theo phong cách kiến trúc Gothic. Nữ
hoàng Isabella quyết định xây lăng mộ chôn cất
cho hoàng gia trong tương lai tại Granada vì các lý do: 1)
Với chiến thắng năm 1492 tại mặt trận Granada, Công giáo
La Mã đè bẹp Hồi giáo ở Âu châu, 2) Cuộc hôn nhân
giữa bà ta thủ lĩnh vương quốc Castile với Ferdinand vương
quốc Aragon, là khởi điểm cho tiến trình thống nhất
toàn bộ TBN dưới ảnh hưởng Công giáo, hãnh diện
sánh vai cùng các vương triều hùng mạnh khác trong thời
kỳ ấy: như Bồ Đào Nha, Anh, Pháp, Áo/Habsburg v.v. 3) Cũng
tại Granada năm 1492, nữ hoàng Isabella đồng ý cung cấp
phương tiện cho Christopher Columbus vượt biển khơi, vô tình
tìm ra Mỹ châu, với nguồn tài nguyên hầu như vô tận,
tạo điều kiện cho TBN trở nên vương quốc hùng mạnh.
Về mặt kiến trúc, tuy không
đồ sộ và quy mô như Nhà Thờ Chính Tòa Granada (viết
tắt là NTCTG), lăng mộ hoàng gia về mặt lịch sử quan
trọng hơn nhiều: vừa là lăng tẩm hoàng gia vĩ đại
nhất TBN, vừa là nơi chôn cất nữ hoàng Isabella cùng
vị hôn phu Ferdinand. Thật ra nữ hoàng Isabella đã băng
hà trước khi NNHGG xây cất xong, nên thi thể được tạm
chôn ở Alhambra, về sau này mới được cải táng, bốc
về NNHGG. Lăng mộ cũng là nơi yên nghĩ cuối cùng của
Philip I (con rể của Isabella, còn được gọi là "Philip
bảnh trai", vì ông ta lúc sinh thời mắt xanh tóc vàng.
Nhưng tôi nhìn hình vẽ chân dung ông ta thì cảm nhận ngược
lại), cùng hôn thê Joanna I (con gái của Isabella, còn bị
gọi là "Joanna khùng", vì bà ta mắc chứng điên loạn.
Có một vài cá nhân theo "thuyết âm mưu" thì nghi ngờ
bà là nạn nhân của những thế lực tranh dành quyền
bính trong vương triều). Nhưng tôi xin được trở lại
đề tài nói trên trong phần II.
Nguồn: La Rendición de Granada/The
Surrender of Granada https://upload.wikimedia.org/wikipedia/commons/3/31/
La_Rendici%C3%B3n_de_Granada_-_Pradilla.jpg
Rất nhiều họa phẩm được
trưng bày trong NNHGG, nhưng bức tranh gây ấn tượng với
bản thân tôi là tác phẩm (dù chỉ là bản sao) "La
Rendición de Granada/The Surrender of Granada", được họa sĩ
Francisco Pradilla Ortiz hoàn tất năm 1882. Nội dung mô tả
cảnh tượng Muhammad XII, thủ lĩnh vương quốc Hồi giáo
Granada đầu hàng, sau 8 tháng trời bị bao vây, phải giao
chìa khóa mở cửa thành cho lực lượng Công giáo thắng
trận, Ferdinand và Isabella tiến vào. Phía bên trái, ngựa
và người đều một màu đen, tượng trưng cho cái ác,
xấu xa, cùng đoàn tùy tùng lôi thôi, lếch thếch, như
muốn co rúm lại, chỉ chiếm một phần diện tích nhỏ
bức tranh. Ngược hẳn lại, từ bên phải, phe thắng trận
chiếm hơn phân nửa bức tranh, hiên ngang ngẩng cao đầu,
do vua Ferdinand trên con hồng mã thống lĩnh. Nếu ta vẽ
2 gạch chéo tưởng tượng: 1 từ góc trái phía trên
xuống góc phải phía dưới, 1 từ góc trái phía dưới
lên góc phải phía trên, giao điểm nằm ngay vị trí trung
tâm: vua Ferdinand. Hoàng hậu Isabella cầm cương con bạch
mã, người độc nhất đội vương miện, đi sau nhà
vua chỉ vài bước. Tháp tùng đoàn quân chiến thắng
còn có Hồng y giáo chủ Francisco Cisneros, và hình như
cả Christopher Colombus. Xa xa ở cuối đường chân trời,
cổ thành Alhambra xuất hiện mờ mờ nhân ảnh.
Tuy nhiên nội dung bức tranh
có thể chứa đựng vài chi tiết không hoàn toàn đúng
sự thật. 1/ Muhammad XII, thủ lĩnh vương quốc Hồi giáo
Granada đã giao chìa khóa trong thành cổ Alhambra, sau đó
2 bên ký kết thỏa ước đầu hàng, chứ không phải
ở ngoài trời. 2/ Họa sĩ Francisco Pradilla là người cùng
quê quán với hoàng hậu Isabella, có thể vì vậy trong
thâm tâm ông hâm mộ bà ta hơn vua Ferdinand, đã mượn bố
cục (ánh sáng, màu, người độc nhất đội vương miện,
bà và con bạch mã chiếm vị trí và diện tích khá
"hào phóng") biến vị nữ hoàng nói trên thành nhân vật
nổi bật nhất. Như vậy để chúng ta hiểu rằng, chớ
vội cả tin vào tất cả các thông điệp được chuyển
tải trong nhiều tác phẩm nghệ thuật.
Vua Carlos V năm 1521 quyết định
xây thêm Catedral de Granada/NTCTG vì ông ta cảm thấy
Capilla Real de Granada/NGHGG quá
nhỏ bé, không còn đáp ứng sự vĩ đại của vương
triều. 3 kiến trúc sư tai to mặt lớn đương thời như
Enrique Egas, Diego de Siloé, Alonso Cano, và điêu khắc gia Juan
de Mena lần lượt tham gia. Kết quả sự hợp tác của
4 thiên tài, là một công trình kiến trúc độc đáo,
nhưng mãi đến gần 200 năm sau (1704) mới hoàn thành.
Khởi công là dự tính xây nhà thờ theo phong cách Gothic,
với thời gian lại sử dụng nhiều yếu tố của thời
kỳ Phục hưng, và cuối cùng phần trang trí đa số mượn
hình thức nghệ thuật Baroque. NTCTG là thánh đường
đầu tiên xây theo phong cách thời kỳ Phục hưng và lớn
thứ 2 TBN sau thánh đường Sevilla. Nó mọc lên ép sát
nách Nhà Nguyện Hoàng Gia. Một đền thờ Hồi giáo
đã bị đập tan hoang để nhường chỗ, mặc dù cách
đấy chừng 500 thước có đất trống.
Cửa chính (xem hình phía
trên) dẫn vào giáo đường mang sắc thái "cửa tam quan"
theo khuôn mẫu Khải Hoàn Môn Constantine ở La Mã. Nhìn
từ bên ngoài, du khách khó mà hình dung được sự vĩ
đại cả nghĩa đen lẫn nghĩa bóng của NTCTG, vì nó chìm
lẫn trong quá nhiều công trình xây cất chung quanh. Vượt
cửa tam quan tiến vào, lịch sử TBN từng bước xuất
hiện, qua phù điêu, pho tượng, tranh vẽ, khắc gỗ, hoa
văn v.v. chờ chúng ta khám phá. Trước khi chấm dứt
phần I của bài viết Tây Ban Nha du ký, quý bạn đọc
cho phép tôi được nhắc đến vị thánh Gioan Tông đồ
tiếng TBN là Santiago Matamoros. Ông này là thánh bổn mạng
của TBN, cho nên xuất hiện hầu như khắp nơi, đặc biệt
trong các nhà thờ. Nhưng đó sẽ là đề tài trong các
bài viết sắp tới.
Tài liệu tham khảo:Spain/Rick
Steves 2017
Khả
Tri