Nhớ Thái
Tông thương dân không hiếu chiến,
Gả Huyền Trân
Công Chúa cho Chế Mân.
Tình lân bang
được thắt chặt muôn lần,
Hai Chiêm Việt
trong hòa bình giao hảo.
Vân Trang (Nỗi
buồn Cham Pa)
V-
Tháp Bằng An
Được xây dựng
vào khoảng hai thế kỷ IX và XII, Bằng An, còn gọi Tháp Khmer,
là một trong những tháp Chăm cổ còn lại ở tỉnh Quảng
Nam. Tọa lạc trên đường 606, gần Quốc lộ 1A, thuộc huyện
Điện Bàn, khu Bằng An gồm có một tháp độc nhất hình linga
(Linga Paramesvara), không giống một tháp Chăm nào khác, do vua
Bhadravarman II cho xây giữa 878 và 977, trong số ba tháp song song
trước kia. Trước tháp có hai tượng sư tử - voi Gajasimha,
khôngkể
một tượng bị gảy. Hai vị hộ pháp dvarapala đứng
canh hai bên phía trong cửa. Hình bát giác, tương tự như ở
tháp Khơ me Sambor Prei Kuk, mỗi cạnh 4m, tháp có chiều cao 21,5
m kể cả thân tháp và mái hinh chóp nhưng chóp tháp đã bị
rơi. Riêng thân tháp 12,7 m bọc kín, không có các cột ốp
tường, không có cửa giả và rất ít hoa văn. Dính liền trước
thân tháp là tiền sảnh hình vuông, ba cửa giả, giữ vai trò
cổng tháp và điện thờ hình dáng linga cùng với toàn
bộ tháp thể hiện bộ ngẫu tượng sinh thực khí
Linga-Yoni.
Các thủ pháp kiến trúc sử dụng ở thân tháp (hình bát giác
gần với tiết diện trụ tròn chịu lực tốt nhất) vừa
tăng vẻ đẹp vừa giúp cho ngôi tháp có khả năng chịu lực
cao hơn. Người ta đã tìm thấy trong tháp một tấm bia có
niên đại cuối thế kỷ IX đầu thế kỷ X mang nội dung tôn
kính sức mạnh vĩ đại của Thần Shiva. Trước kia H.Parmentier,
gần đây Ngô Văn Doanh cho niên đại của bia là niên đại
của tháp. P.Stern xếp Bằng An vào phong cách chuyển tiếp giữa
phong cách Mỹ Sơn A1 và phong cách Bình Định (đầu thế kỷ
XI - giữa thế kỷ XII), Theo Trần Kỳ Phương thì Bằng An thuộc
phong cách Bình Định (giữa thế kỷ XII).




Tháp
Bằng An
VI
– Khu tháp Po Nagar
Quần thể Tháp
Bà hay Po Nagar, thế kỷ VII bằng gỗ, được xây lại bằng
gạch, ở phia bắc sông Cái, thuộc phường Vĩnh Phước, thành
phố Nha Trang, trên một quả đồi đá kim cương. Quần thể
xưa gồm có, ngoài 16 công trình phù trợ, 6 ngôi tháp thờ,
nay chỉ còn bốn và hai hàng cột lớn ở dưới chân đồi,
phân bối thành ba tầng kiến trúc. Trên cùng là hai dãy tháp
gồm có ngôi tháp chính đỉnh nhọn cao 23 m thờ bà Po Nagar,
ngôi tháp dài hình cong như yên ngựa thờ hai người con Bà.
Tầng hai là hai dãy 10 cột đường kính hơn 1m, hai hành cột
nhỏ thấp hơn, bằng gạch hình bát giác, trên một nền gạch
hình chữ nhật cao hơn 1m. Một dãy cầu thang dẫn đến tầng
dưới cùng, có một tháp cổng nay đã mất. Tháp chính thờ
nữ vương Po Nagar hay Yan Pu Nagara, Po Ino Nagar hay Bà Đen tức
Thiên Y Thánh Mẫu Ana, vị nữ thần của Ấn Độ giáo. Tượng
nữ thần cao 2,6 m tạc bằng đá hoa cương màu đen (đầu bị
mất, lắp vào một cái đầu Việt), ngồi trên đài sen, tựa
phiến đá hình lá bồ đề. Nguyên là tượng thờ nữ vương
Jagadharma tức công chúa Tchou Koti, được Prithi Indravarman cho
tạc lại để thờ nữ thần Bhagavati, không có quần áo. Trang
phục hiện nay là của người Việt. Tháp nam có cái mái đặc
biệt: tháp lưng vòm, tiền sảnh hình nôi thật dài so với
toàn thể. Tháp tây-bắc có kiến trúc độc đáo : mặt dài
dàn mặt theo trục bắc-nam ; những bức chạm trổ bằng gạch
thay thế các cửa giả, một thần điểu Garuda nửa người
nửa chim phía nam, một con voi cầm một khí giới và một thanh
móc phía tây, một con ssu tử phiá bắc. Nói chung không có
nhiều di vật trong khu tháp nhưng có ít nhất cũng 20 tấm bia
văn khắc. Các tháp nhỏ thờ những thần Shiva, Sankhara, Ganesa.
Năm 774, đền Po Nagar bị quân Java phá hủy, Satvavarman cho dựng
lại bằng gạch, mười năm sau hoàn thành. Sau nầy, đền còn
bị hủy hoại nữa, được quốc vương Harivarman I và con trai
Vikrantavarman III sửa sang và xây dựng thêm tháp. Rất khó xác
định niên đại khu tháp sau một loạt trùng tu : 1907 với
Henri Parmentier, 1931 với Jean-Yves Claeys, giữa 1994 và 2000 với
các nhà khảo cổ Việt Nam. Theo một tấm bia, những tháp nhỏ
có thể có niên đại thế kỷ X, tháp chính muộn hơn, thế
kỷ XI.








Tháp
Po Nagar
VII-
Khu tháp Chiên Đàn
Chiên Đàn là một
nhóm tháp được xây dưới thời Yan Pu Ku Vijava ở làng Chiên
Đàn, xã Tam An, phía bắc thị xã Tam Kỳ, tỉnh Quảng Nam,
cạnh Quốc lộ A1. Trong số ba tháp sát cạnh nhau song song theo
trục nam-bắc, lớn nhỏ theo thứ tự giữa, nam, bắc, chỉ
ngôi giữa còn tương đối toàn vẹn thân và tầng trên. Cả
ba tháp có đế vuông, dong dỏng cao, có tầng mái cân đối,
giống nhau về hình dáng, cấu trúc, trang trí: các cộp ốp
nhô ra, các vòm cửa giả co lại và vuốt nhọn lên như các
mũi giáo. Mỗi tháp có 3 cửa giả và một cửa ra vào, phía
trên các cửa có vòm uốn cong và nhọn lên trên thành hình
lá đề. Trên đế tháp, nhiều dải trang trí chạm những vũ
nữ và chiến sĩ. Cuộc đánh giá niên đại ngôi tháp rất
phức tạp. Trong cuộc khai quật năm 1989, bên cạnh tympan sa
thạch thể hiện đề tài Mahisasuramardini (Nữ thần giết quỉ
đầu trâu), tượng Skanda, những tuợng động vật voi, sư
tử, nai, rắn Naga, ngỗng Hamsa, chim Garuda,...cho thấy các tác
phẩm điêu khắc không thuần túy thuộc phong cách Chánh Lộ
như đã tin từ trước vì lẽ tháp được xây dựng trong một
thời gian dài, từ cuối thế kỷ XI đến đầu thế kỷ XII.
Năm 1989, các chuyên gia Ba Lan cộng tác với các bạn đồng
nghiệp Việt Nam, khám phá ở đế các tháp những hình nổi
vũ nữ, nhạc công, voi,...bên cạnh 29 tượng thần nam nữ,
24 tượng thú vật, 31 bức trang trí, hai bàn thờ, một tấm
bia có khắc chữ. Số di vật nhiều đến nổi các nhà khảo
cổ phải nhờ quân đội lại bảo vệ và sau đó một viện
bảo tàng được dựng lên tại chỗ! Đặc biệt, trong số
các di vật nầy, có một tượng vũ nữ cơ thể, điệu bộ,
trang sức giống hệt vũ nữ trên bệ Trà Kiệu ở viện Bảo
tàng Đà Nẵng. Năm 2000 lại được phát hiện bức chạm nổi
liên tưởng đến Đản sinh Brahma, một nữ thần trên một
tympan sa thạch có điệu bộ tựa Lakmi, tượng một nam thần
mặt mày và vật cầm tay giống Vishnu, một tượng nam thần
hơi có phong cách Trà Kiệu,... Nói chung, phần lớn các tác
phẩm điêu khắc thể xếp vào phong cách Chánh Lộ, tuy vậy
vẫn có những tác phẩm mang tính tiếp nối phong cách Trà
Kiệu, và có những bức chạm thể hiện sự chuyển tiếp
từ phong cách Chánh Lộ sang Tháp Mẫm. Một phái khác lại
xếp Chiên Đàn vào nhóm tháp thuộc phong cách chuyển tiếp
giữa phong cách Mỹ Sơn và phong cách Bình Định!





Tháp
Chiên Đàn
VIII-Khu
tháp Bánh Ít
Còn gọi Tháp Bạc,
cụm tháp Bánh Ít tọa lạc trên ngọn đồi thuộc thôn Đại
Lộc, xã Phước Hiệp, huyện Tuy Phước, tỉnh Bình Định,
cách Qui Nhơn 18 km. Soi bóng sông Tân An, một nhánh của sông
Côn, 4 tháp còn lại trong số ít nhất 7 ngôi được xây vào
thế kỷ X, cạnh quốc lộ số 1, nhìn từ xa trông như nhưng
chiếc bánh ít miền Bình Định. Ngôi tháp chính cao nhất,
22 m, nổi trội trên đỉnh đồi, đồ sộ, chỉnh chạc với
những cột ốp, những đường gồ dọc các mặt tường, thanh
tú, lịch sự với những cảnh vũ nữ trên các vòm, các mái.
Trên đỉnh tháp nầy có hình tượng thần Shiva bằng đá như
trên đỉnh hai tháp nhỏ kia. Một kiệt tác hình dung Shiva ngồi
kiểu virasana được trưng bày ở viện Bảo tàng Guimet
tại Paris. Mái đua có nhiều đường gờ mang đủ thứ thú
vật chân ngắn, tai dài, những loài bốn chân đầu nhọn qùy
xuống chống nhau. Nhiều tượng khỉ mang vòng tay trang trí
cũng thấy trên mái đua tiền sảnh. Tháp được trùng tu vào
những năm thập niên 1960 rồi giữa 1996 và 2000. Từ chân đồi
muốn đạt đến tháp chính phải đi ngang qua tháp cổng gopura
phía
đông bằng gạch đá ong, mở ra hai cửa thông nhau theo hướng
đông-tây, hai cửa giả chiếm hai mặt kia, bao quanh là những
cột ốp cao vút, nhẹ nhàng. Phía nam là tháp mái cong hình
yên ngựa, rất linh động với hình hoa lá, chim chóc, thú vật,
chim thần Garuda có cánh, đặc biệt những hình người ở
chân tháp uỡn ngực, khuỳnh chân như ra sức nâng cao tòa tháp.
Hai tháp nầy có thể xem như là di tích một vòng đai bao quanh
khu tháp, hiện chỉ còn những đống gạch vô hình. Nhờ được
xây trên đồi cao, khu tháp được thấy từ xa, uy nghi, hoành
tráng hơn các tháp khác, nhung cũng được dùng làm đồn lính
nên bị phá hại nhiều. Cụm tháp được kê vào phong cách
chuyển tiếp phong cách Mỹ Sơn qua phong cách Bình Định.





Tháp
Bánh Ít
IX-
Tháp Bình Lâm
Không tọa lạc
trên đồi cao như những tháp Chăm khác, tháp Bình Lâm nằm
ngay ở đồng bằng, giữa vườn tược như một ngôi chùa
trong làng, có thể một kinh thành mang tên Thị Nại (Sri Boney),
tại thôn Bình Lâm, xã Phước Hòa, huyện Tuy Phước, tỉnh
Bình Định, cách phía đông-bắc Qui Nhơn 25 km. Như vậy, khách
đến xem không cần phải trèo núi, nhưng trái lại vì tháp
không nằm gần đường cái nên khách phải vượt đồng ruộng,
xuyên làng xóm....Ngôi tháp độc nhất bình đồ vuông, cao
đẹp khoảng 20 m, gồm có ba tầng bằng gạch, mỗi tầng điều
đặn thu nhỏ hơn tầng dưới, chứ bên trong một jatalinga
cổ. Tuy rất điêu tàn, tháp còn giữ dáng cân đối và có
vẻ mảnh dẻ. Tháp chỉ có một của chính phía đông, ba phía
kia là ba cửa giả nhô ra ngoài mặt tường. Mỗi cửa giả
gồm có ba thân nhỏ dần từ trong ra ngoài, mọc lên từ một
mặt bằng vuông. Mỗi thân lại có hai phần, cột ốp bên
dưới, hòm hình mũi giáo phía trên, trang điểm với hoa lá,
những hình sư tử Gajasimha, những người ngồi có hào quang.
Hoa văn không còn thấy trên mặt tường bên ngoài, trên các
cột ốp, trên đài bao quanh khung trang trí giữa các cột ốp.
Cảnh tuợng xơ xác ngày nay là do tháp bị quên bỏ từ lâu.
Tháp được xây làm kinh đô tạm thời cuối thế kỷ XI đầu
thế kỷ XII, vào lúc các vua Chăm rời bỏ Quảng Nam vào Bình
Định, thành Đồ Bàn được xây dựng, Bình Lâm hết còn
là trung tâm hành chính. Như nhiều tháp khác trong vùng, tháp
Bình Lâm được xếp vào phong cảnh chuyển tiếp giữa phong
cách Mỹ Sơn A1 và phong cách Bình Định.




Tháp
Bình Lâm
X-
Tháp Nhạn
Xây dựng vào khoảng
thế kỷ XI trên núi Nhạn, một thắng cảnh của thị trấn
Tuy Hòa, tỉnh lỵ Phú Yên, soi bóng sông Đà Rằng, tháp Nhạn
hay Nhạn tháp là một kalan, trong số ít nhất hai cái
trước kia, hướng phía đông, hình dáng cao mảnh trông rất
thanh nhã. Bốn tầng phong cách giống nhau chồng chất, mỗi
tầng trên nhỏ hơn tầng dưới, mỗi tầng có một tháp con
ở góc nhưng phần lớn đều rơi mất. Tiền sảnh không còn,
trang trí hầu hết bị xói mòn trên các cửa giả mang bên
trên một cái vòm dựa lên hai cột nhỏ. Nòng cốt của các
bức tường là những cột trụ xen lẫn với các phần nổi
trơn tru. Chóp tháp nguyên là một phiến đá hình tháp, dưới
vuông có chạm cánh sen, trên nhỏ dần thành hình nón, cao 1m30,
cạnh rộng 0m90, nay rơi xuống đất, một phần bị chôn khó
thấy nên người ta có thể tưởng là một linga hay một
cái bia. Trong tháp không biết lúc trước thờ ai, vì không
có bia mang chữ, ngày nay có một bàn thờ đặt trên một yoni
với
một hình tượng được Việt hóa. Tuy nhiên các miếu xung
quanh tháp và miếu lớn trước tháp thờ Thiên Y A Na Diên Ngọc
Phi được truyền tụng là vị thần đã phù hộ dân cư làm
ăn sinh sống, ghe thuyền ngư dân vượt qua sóng to gió lớn
mà tân sắc các vị vua triều Nguyễn có ghi rõ công lao. Ngay
trong thời kỳ chiến tranh, tháp đã được trùng tu, sửa chữa
những chỗ nứt lở, đúc móng xi măng để cũng cố cho khỏi
bị lún xuống,...những thập niên 1960, sau đấy giữa 1990
và 1995. Ngày nay, tháp rất sạch sẽ cả trong lẫn ngoài, chứng
tỏ dân cư luôn chăm lo chuyện thờ phụng.






Tháp
Nhạn
XI-
Tháp Thủ Thiện
Thủ Thiện là một
ngôi tháp độc nhất ở làng Thủ Thiện, xã Bình Nghi, huyện
Tây Sơn, tỉnh Bình Định, cách phía tây-bắc Qui Nhơn 30 km,
tháp Dương Long 3 km, bên kia sông An Nhơn. Sách Đại Nam nhất
thống chí gọi Thủ Hương cổ tháp (Thủ Hương là tên cũ
Thủ Thiện), người Pháp có tên Tour de Bronze (Tháp Thau). Xa
quốc lộ, không nằm trên đồi cao, mà là giữa ruộng nương,
vườn tược, xa sông Kôn khoảng 1km, nên tháp được thấy
từ xa. Kiến trúc bình đồ hình vuông mỗi cạnh 8m5, thân
cao, hơi thóp ở giữa. Các cột ốp trơn, phẳng, không có
hoa văn trang trí, ô dọc trên tường giữa các cột không có
chạm khắc nhô ra thành gờ. Cửa tháp mở về phía đông,
vòm cửa bị sập nhiếu, nhưng ba cửa giả ở các hướng
tây, nam, bắc còn tương đối nguyên vẹn với những mũi lao
cao vút xếp thành nhiều lớp. Trên của có ô khám thờ nhưng
không còn hình tuợng hoặc phù điêu. Giữa thân và mái, bộ
diềm nhô khá hư hại nhô ra bốn phía nâng đở ba tầng nóc
đồng dạng, nhỏ dần lên trên, có các tháp nhỏ nhiều tầng
trang trí bốn góc. Bên trong tháp có nhiều vết gắn phù điêu,
nơi đặt tượng thờ. Tháp Thủ Thiện khác những ngôi tháp
xây dựng cùng thời cuối thế kỷ XI đầu thế kỷ XII ở
điểm giản lược trang trí. Kiến trúc Ấn giáo, bên trong
bàn thờ giống ở Đồng Dương, tháp có thể là một ngôi
chùa Phật. Một tuợng Phật được tìm ra không cách xa tháp
bao lăm, có lẽ lúc trước được đặt trong tháp. Ấn quyết
kỳ lạ của tượng nói lên một khuynh hướng Phật giáo Cham
Pa. Tháp được kê vào phong cách chuyển tiếp Mỹ Sơn A1 và
phong cách Binh Định tuy đậm nét phong cách Bình Định.




Tháp
Thủ Thiện

Thành
Xô thu đông 2015
|
|
(*)Ảnh
chụp những năm 1986-2007, cốt yếu hai năm 1998-1999, sao từ
dương bản.
Hết
Phần 2.