Từ
1803, chán ngấy "hành chính vô bổ", thất vọng trước tình
hình chính trị, sau nhiều năm nặm lặn lội bốn phương,
chính khách François-René de Chateaubriand từng tỏ bày nguyện
vọng chân thành, thiết tha được hưởng thụ hạnh phúc nghỉ
ngơi, hưu trí trong "một lều rạ, cạnh một mảnh vườn tự
tay mình chăm lo..." Sau một chuyến du hành ở Đông phương
về, sau khi cho đăng ở Mercure de France một bài báo đã kích
Napoléon, có người bảo cũng vì sợ vua trị tội, ngày 22
tháng tám năm 1807, ông cùng bà vợ Céleste ký mua một ngôi
nhà giản dị ở xóm Aulnay. Xóm nầy thuộc khu đạo Châtenay,
cạnh thị trấn Sceaux, nằm trong khu rừng nhỏ mang tên Vallée-aux-Loups
(Thung lũng Chó sói), miền nam Paris, nay thuộc tỉnh Haut-de-Seine.
Giấy bán ghi một cái nhà vững chắc gồm có ở tầng dưới
bếp núc, phòng ăn, phòng làm việc, tầng trên bốn phòng,
hai vựa lúa, một chỗ phơi trái cây. Ở tầng hầm có chuồng
gia cầm, gà vịt, bồ câu, thỏ, bò, xưởng sữa, kho lúa.
Ở ngoài có một chuồng gà lôi, một con bò sữa, một con
lừa cái với chiếc xe bò, một vườn rau, một cái giếng,
một vườn nho, một đồng cỏ, một khu rừng nhỏ nhiều cây,...
"
|
|
Tranh màu nước James
Forbes
1817
|
Tranh bột hồ Khuyết
danh
Khoảng 1800
|
Tuy ông Chateaubriand thú thật tiền mua nhà, tiền
sửa sang biết sẽ rất nặng cho hai vợ chồng ông nhưng tháng
mười 1807, họ vui lòng rời bỏ Paris để dọn về Vallée-aux-Loups
trong ngôi nhà "đầy thợ đang đóng nện, vui đùa, ca hát,...
sưởi ấm với những vỏ bào trong ánh sáng các ngọn nến".
Một trong những cải biến đầu tiên là ông cho cất một
cầu thang tàu thủy hai nhánh nhắc nhở những chuyến vượt
Đại Tây Dương. Ông cho xây một cánh cửa cung nhọn hai bên
có tháp con như một cung điện loại lâu đài Combourg nơi sống
thời trẻ. Mặt tiền ngôi nhà nhìn ra công viên xa xăm là
cổng vào lúc trước có một cổng sắt mang tên cổng Colbert,
Jean-Baptiste Colbert (1619-1683) là chủ nhân thái ấp Sceaux năm
1683 đã mua tiếp thái ấp Aulnay. Để kỷ niệm chuyến đi
Hy Lạp, ông cho trang trí mặt tiền nầy một cổng lớn với
cột bằng đá hoa đen kèm hai bên hai tượng hình phụ nữ
cariatide
bằng
cẩm thạch trắng. Qua các xây dựng nầy một niềm lưu luyến
đã thoáng thấy trong cuốn Les Aventuresdu dernier Abencérage
(Cuộc
phiêu lưu của đứa con chót) : Aben-Hamet, hậu duệ cuối cùng
dòng dõi, trở về lại nơi quê cha đất tổ, tìm ra chỗ cái
chòi gia đình ngày xưa, nay là một ngôi nhà nông thôn hẻo
lánh....
|
|
Cửa vào ở mặt hậu
|
Mặt tiền mở ra công
viên
|
Công viên quanh nhà lúc mới mua chỉ rộng 15 arpent
tương đương với 7,5ha. Trong tám năm liền, từ 1809 đến
1817, hai ông bà tậu thêm rừng sồi, rừng dẻ mở rộng diện
tích hơn quá 80a. Họ cho cắt ngang một ngọn đồi nhỏ trước
nhà để mở rộng đường vào. Ngày nay từ đường cái có
hai lối dẫn lên đồi : một đường rải nhựa và một đường
đất xuyên rừng. Lần đọc cuốn vở của bà Céleste Chateaubriand
ghi chép công việc hằng ngày, sửa sang vườn tược, ta thấy
ngay hai ông bà không trồng trọt bất cứ thế nào, Họ áp
dụng những nguyên tắc căn bản từ thế kỷ XVII trong các
vườn nước Anh. Họ cũng còn theo dõi tiến triển những vườn
Pháp và những vườn Anh-Hoa rất thịnh hành cuối thế kỷ
XVIII. Ví dụ để công viên có chiều sâu trong không gian, như
trong những tấm tranh, họ cho trồng những nhóm cây to đằng
trước. Nhưng không phải bất cứ cây gì vì đối với họ
cây không phải chỉ để trang trí. Ông Chateaubriand du hành
nhiều và muốn trồng những cây đã từng ngắm ở các phương
trời xa : cây thông tuyết (cèdre) Liban và Vỉrginie, cây thông
Jérusalem, cây đinh tán (catalpa), cây bách (cyprès) sói, cây
sồi rừng tía (hêtre pourpre), cây mộc lan (magnolia), cây thắng
(laurỉer) Grenade,...Ngoài những cây mua ở các vườn ương
Cels hay Noisette, ông nhận được nhiều cây các bạn Natalie
de Noailles, Claire de Duras đem lại biếu. Nhà thực vật học
Humboldt bỏ công thương lượng với Aimé Bonpland, người làm
vườn ở Malmaison để ông có được những mẫu cây quý.
Ngay ông cũng thân hành lại Malmaison để nhận từ tay Hoàng
hậu một mẫu mộc lan hoa tía mà bà Céleste tin là chỉ họ
có ngoài Joséphine.
|
|
Mặt tiền nhìn từ
công viên
|
Cổng lớn đá hoa và
tượng hình cariatide
|
Tuy ông Chateaubriand thường ví ngôi nhà của ông
như một ermitage (ngôi nhà nông thôn hẻo lánh), một
thébaide
(nơi ẩn dật) hay một chartreuse (tu viện), hai vợ chồng
cũng thường có khách, những bạn gần gũi : Clausel de Coussergues,
Louis de Fontane, những bà de Vintimille, de Lévis, de Béranger, tu
sĩ de Bonnevie,...toàn là dân quý phái. Hằng năm, họ gặp nhau
ở đây ngày mồng 4 tháng 10 là ngày lễ Saint-François đồng
thời kỷ niệm ngày ông vào thành Jẻrusalem năm 1806, thưởng
thức những món ăn của tay đầu bếp Ménil. Cái mộng của
Chateaubriand là hội họp được đông đảo bạn bè dưới
mái lều của ông để " thưởng thức hạnh phúc qua những
câu chuyện lẩm cẩm, những nổi vui trong cơn buồn bực, những
lời đùa phản ảnh các tâm tình,..." Bà de Boigne ở thị trấn
Châtenay kế cạnh từng kể ông rất vui thích khi có bạn khách
đến thình lình " Ông thốt lên một tiếng kêu vui mừng khi
chợt thấy bạn qua cửa sổ và chạy ngay lại đón, mặt mày
hân hoan như cậu học trò lúc bải trường". Tuy nhiên, nhất
là về mùa đông, hai ông bà thường hay về Paris để ông
lo chuyện xuất bản sách, thương lượng với những tay cuồng
tín của vương triều phá phách ông và, từ 1814, chú tâm đến
tình hình chính trị, lắm khi ông xem là sở trường của mình.
Đọc cuốn Mémoires d’outre-tombe (Ký ức thế giới bên
kia), người ta có cảm tưởng như mỗi lần đi xa, ông nuối
tiếc nơi nghỉ ngơi yên tĩnh. Thật ra, con người hai mặt,
vừa thích lặn lội trong xã hội, vừa thích sống cô độc,
ông thường phân vân giữa các vấn đề thời đại, có khi
thất vọng và mong muốn rút lui về nơi cô quạnh, trong ưu
tư sầu muộn. "Nếu dòng Bourbon lại lên ngôi, tôi chỉ mong
họ cho tôi giàu thêm để thưởng lòng trung thành của tôi.
Tôi sẽ tậu thêm vài ria rừng kế cạnh để mở rộng thêm
lối đi dạo chơi, vì tuy mang danh du khách lang thang tôi có
tác phong giu giủ ở nhà như ông thầy tu...Thung lũng Chó sói
trở thành một tu viện ! "
Nhìn từ công viên
Xa xa trong công viên, thấp thoáng trong lùm cây,
có một ngôi nhà nhà nhỏ hẹp hai tầng, ông gọi là Tháp
Velléda, lấy tên từ truyện một cô trinh nữ tiên tri tộc
celte, volva, nghĩa là "người biết thấy". Ông xếp đặt
ngôi nhà thành thư viện, trang trí với những đồ vật, ngay
cả những mảnh vụn gảy, mang về từ những chuyến du hành
quanh Địa Trung Hải. Ông kể trong Itinéraire de Paris à Jérusalem
(Hành
trình từ Paris qua Jerusalem): " Tôi về nhà với một mớ đá
Sparte, Athènes, Argos, Corinthe, vài cái đầu người bằng đất
nung, một chai nước sông Jourdain, một chai nước Tử Hải,
vài nhánh sậy sông Nil, một mảnh cẩm thạch Carthage, một
tượng thạch cao Alhambra,... " Người có mắt mỹ thuật trước
những vật linh tinh cổ hủ nầy sắp đặt trong một gian nhà
sơn tranh thời Gaules diễn đạt mạnh mẽ, chan hòa nhạc Cymodocée
trình bày duyên dáng thì không thấy có gì lố lăng, trái lại
có phần hứng thú, theo cảm tưởng của bà de Chastenay. Năm
1810, ông có ý định sắp xếp một nhà thờ nhỏ ở tầng
trên nhưng phải đợi ba năm sau mới thực hiện được. Hai
mùa đông liên tiếp, ông sống biệt lập ở đây. Từ sáu
giờ sáng, ông đã thức giậy bắt đầu làm vườn trước
khi nhóm lữa đốt sưởi và ngồi vào bàn viết. Cuộc sống
đơn độc ở Thung lũng Chó sói thấy ra thuận lợi cho ông
để tĩnh tâm, để tự vấn lương tâm, để tự hỏi nên
chú trọng đến lãnh vực nào trong số những đề tài ông
đã đề cập : sử nghiệp anh hùng, bi kịch kinh thánh, truyện
ký trữ tình, nghiên cứu lịch sử, ký ức một thời,...
|
|
Cây đinh tán catalpa
|
Cây thông tuyết cèdre
du Liban
|
Sinh ra ngày 4 tháng chín 1768 ở Saint-Malo, Chateaubriand
lớn lên ở lâu đài Combourg, con út một gia đình mười anh
chị em. Chính ở trong ngôi rừng tài sản sở hữu gia đình,
qua ảnh hưởng của bà chị Lucile, ông sống lên trong môi
trường thơ mộng. Sau khi học ở Dol, Rennes rồi Dinan, ông
nhập ngũ vào trung đoàn Navarre (1786) trước khi được tiến
cử vào Triều Versailles (1787). Có óc bài xích những phiến
động cách mạng đầu tiên, ông tìm cách đi Mỹ (1791-1792),
phát giác chính thể cộng hòa đang chớm nỡ, những ý tưởng
có ảnh hưởng sâu đậm lên quan niệm chính trị sau nầy
của ông. Về lại Saint-Malo, ông cưới bà Céleste Buisson de
La Vigne được gia đình sắp xếp truớc khi nhập Đội ngũ
những Vương công (Armée des Princes) (1792) tức là quân đội
những kẻ đào vong sau Cách Mạng Pháp và bị thương ở cuộc
vây hãm Thionville. Trốn qua Anh (1793-1800), ông cho xuất bản
cuốn sách đầu tiên (1797) mang nhiều tham vọng : Essai sur
les révolutions anciennes et modernes (Tiểu luận về những
cuộc cách mạng xưa và nay). Sách không có nhiều tiếng vang
nhưng biểu thị một sự suy nghĩ về thời đại, về lịch
sử chủ chốt sau nầy trong các tác phẩm của ông. Năm 1800
ông bắt đầu viết cuốn Génie du Chistianisme (Tinh thần
đạo Cơ đốc), xuất bản năm 1802 với giai đoạn René,
cùng với cuốn trước, Atala, mở đầu cho con đường
công danh cho ông. Để bắt đầu sự nghiệp chính trị
ông được phái làm Thư ký tòa Khâm sai Roma (1803-1804) rồi
ở Valais nhưng ông xin cáo từ khi được tin công tước Enghien
bị xử tử (tháng ba 1804). Năm 1806, tìm kiếm tài liệu cho
cuốn sử thi Martyrs de Dioclétien (Những người tuẫn
đạo Dioclétien – tên nhà vua romain đã truy hại nhiều người
Công giáo), ông đi một vòng qua Đông phương đến
Đất Thánh đồng thời soạn thảo Itinéraire de Paris
à Jérusalem (xuất bản 1811). Không có gì mới lạ trong
cuốn sách hành trình của ông nhưng cuốn nầy được xem như
là một cột mốc niên đại đánh dấu bước đầu loại sách
hành trình lãng mạn không những về mặt văn chương mà còn
về cách cấu trúc gài tác giả vào trong truyện.
Cầu thang tàu thủy
hai nhánh
Chính vào lúc nầy (ngày 04 tháng bảy 1807) ông
cho đăng ở Mercure de France bài báo lên án chính quyền chuyên
chế của Napoléon và sợ liên lụy nên chạy về ở Vallée-aux-Loups.
Năm 1814, ông cho đăng hai tập sách mỏng chính trị mở cửa
chính trường lại cho ông. Sau khi theo gót vua Louis XVIII qua
Gand trong thời gian "Một Trăm-Ngày", ông được phong bộ trưởng
và tước Công khanh (1815). Năm 1816 nhân cho xuất bản Monarchie
selon Charte (Quân chủ theo Hiến chương) chỉ trích sự giải
tán "Chambre dite introuvable" (Viện dân biểu bảo hoàng cực
đoan tháng mười 1815 - tháng chín 1816), ông bị cách chức,
mất lương. Tiền vay để mua nhà chưa trả hết, ông cho in
chín mươi vé để tổ chức một cuộc xổ số bán nhà, chẩng
mấy ai mua, ông buộc lòng đem bán đấu giá trước là bộ
sách trong thư viện (398 tác phẩm, 1772 cuốn), sau là ngôi nhà.
Ông bạn Pierre-Simon Ballanche, người lo việc in sách cho ông,
hết sức đau khổ: "Tôi thấy chuyện nầy không những đáng
buồn mà còn là thảm thương. Chắc chắn là ông ghi tên ông
vào mảnh đất nhỏ nầy nhưng ông không phải là người mặc
cả tiếng tăm của mình". Sau đấy là năm tháng trôi giạt
từ nhà nầy đến lâu đài kia : Montboissỉer, Lonné, Voré và
sau cùng về ở một căn hộ ở Paris (1817).
Phòng khách
Ông đồng sáng lập tờ Le Conservateur (Bảo
thủ), cộng tác hai năm (1818-1820) và tiếp tục nhiệm vụ
bảo vệ tự do báo chí đến 1824. Trong thời gian ấy, ông
được bổ nhiệm Đại sứ ở Berlin
(1821) và London (1822). Trở về Pháp, ông trở thành Bộ
trưởng bộ Ngoại giao (1823-1824). Tạm dừng chính trị, năm
1826 ông ký giao kèo với nhà xuât bản Ladvocat để in toàn
tập các tác phẩm của ông Œuvres complètes. Năm 1828,
ông lại lên đường làm Đại Sứ ở Roma (1828-1829) nhưng
từ chối gia nhập chính quyền mới sau khi Charles X, ông vua
dòng Bourbon cuối cùng sau Cách mạng (1825-1830), bị hạ bệ,
ông lại về vườn nhưng lần nầy vĩnh viễn rời bỏ chính
quyền. Năm 1834, ông đọc cuốn Mémoires d’outre-tombe
tại nhà bà bạn tình lâu năm Juliette Récamỉer. Cuốn sách
được đăng từng kỳ trên báo La Presse, chỉ xuất bản sau
khi ông mất trong hai năm 1849-1850. Gồm có 12 tập, sách được
trình bày qua bốn chương: tiểu sử, đường văn chương, đường
chính trị, cuối đời và suy nghĩ về tương lai nước Pháp.
Ông đã có viết trong cuốn Mémoires de ma vie (Kỷ niệm
đời tôi) là trước đó ông không có ý nghĩ viết ký ức
nhưng nhân một cuộc dạo chơi vào khoảng 1817 trong vườn,
tiếng chim sáo hót nhắc ông nhớ lại thời trẻ và thúc đẩy
ông viết. Mặc dầu nợ nần đủ thứ, sau khi đọc, báo chi
khen ngợi đăng tải nhiều đoạn, ông không chịu cho in thành
sách, chỉ vì một nguyên tắc danh dự, quan trọng đến nổi
ông hy sinh tuổi trẻ, cơ nghiệp, chức tước ước mong cả
một thời Napoléon. Bạn bè của ông bèn lập hội, quyên tiền
mua bản quyền, trả nợ cho ông, trợ cấp cho ông hằng tháng
và đợi sau khi ông mất, như đã hứa, mới bán lại bản
quyền trước cho nhà sách Delloye, sau cho tờ báo La Presse.
 |
|
Tranh Delphine de Custine
1804
|
Tranh Anne-Louis Girodet
|
Cuốn Mémoires d’outre-tombe, tác phẩm quan
trọng nhất của Chateaubriand, được người đương thời đánh
giá là kiêu ngạo trong mọi mặt văn chương, chính trị, ái
tình, lắm khi làm khó chịu nhất là họ quá biết và phải
chịu đựng con người cùng những điểm yếu của ông. "Một
cuốn sách không có đạo đức" (George Sand). May cho ông là
hậu thế khoang dung bỏ qua những chi tiết nhỏ mọn mà chỉ
chiếu cố đến thiên tài của ông vì cuốn sách không chỉ
là ký ức của một con người, nhận định của một đời
người mà là lịch sử của một thế kỷ. Suốt đời, ông
tự hào đóng vai trò hiệp sĩ bảo vệ một sự nghiệp tuyệt
vọng, chứng kiến cuộc suy tàn của vương triều. Để bắt
đầu là câu chuyện một quân tử nghèo như hàng ngàn người
khác thế kỷ XVIII sống ở nước Pháp xưa, trong tập quán,
phong tục tỉnh nhỏ đang bị thời gian lôi cuốn bước theo
tiến bộ hay rơi vào suy đồi. Chàng quân tử đã khắc sâu
vào tâm hồn một lối sống độc đáo tuy giản dị, có phẩm
cách. Lối sống nầy theo dõi chàng suốt đời như biết bao
người Breton, Malouin khác lao mình vào biển cả đi tìm xứ
lạ, phiêu lưu trong hạnh phúc, tự do một cuộc sống hoang
dã. Trở về lại Pháp, túi rổng nhưng óc đầy cảm giác,
ấn tượng, chàng lại bị lôi cuốn vào phong trào lưu vong,
đem thanh kiếm phục vụ các bậc vương công. Chateaubriand là
điển hình cả một xã hội quý tộc lúc ban đầu được
thiên tài của Đệ nhất Tổng tài Bonaparte quyến rũ với
hy vọng sự phục hưng chính thể quân chủ nhưng rời bỏ
hoàn toàn sau vụ xử tử công tước Enghien.
|
|
Tượng đặt trong nhà
|
Tranh dầu Pierre-Louis
Deleval 1828
|
Cuộc lưu vong chấm dứt, những quý tộc trở về
lại Paris, ít chăm chú đến tình hình quân sự, xem thường
những tập quán mới dung tục, họp nhau lại vui chơi như lúc
trước. Chung đụng với những ông nhã nhặn, những bà duyên
dáng, ông Châteaubriand trở nên thuần tính, lắng dịu làm
ngạc nhiên mọi người. Đau buồn vì mất bà mẹ và một
người em, ông trở về lại với đạo giáo. Ông viết cuốn
Atala,
kể chuyện cô trinh nữ ở Louianne thà chết hơn là lấy chàng
da đỏ Chactas và phải từ bỏ đạo của mình (1801). Rồi
ông viết tiếp truyện René, được xem là một kiệt
tác văn chương : khi bày tỏ "tai họa của thế kỷ " vào lúc
vương triều sụp đổ, cả một thế hệ thất vọng, mất
hướng, rời bỏ mọi hoạt động, ông đặt chân vào phong
trào văn chương của phái lãng mạn (1802). Ông bênh vực đạo
lý và lý tưởng cao đẹp của đạo Cơ đốc đang bị triết
lý ý tưởng Lumières (Ánh Sáng, phong trào trí thức ở châu
Âu) và bảo táp cách mạng xác động. Trong bối cảnh ấy,
ông viết cuốn Génie du Christianisme, từ giữa 1795 đến
1799, xuất bản năm 1802 và trở thành nhà văn của đức tin.
Vào dạo ấy ông làm quen với bà Juliette Récamỉer sau nầy
trở thành mối tình trọn đời của ông. Trong cuộc du hành
ở Đông phương ông lượm lặt tài liệu đế khi về thì
viết và cho xuất bản năm 1809 cuốn Martyrs (Những người
tuẫn đạo) hay là chiến thắng của đạo Cơ đốc. Thời
gian ở Vallée-aux-Loups là lúc ông viết Mémoires d’outre-tombe,
một
cuốn sách nội dung kéo dài gần ba mươi năm, dựa theo hai
thời kỳ sự nghiệp của Napoléon : bắt đầu từ Tổng tài
(Consulat) qua Đế quốc (Empire), rồi từ đệ nhất Phục hưng
(Première Restauration), Một Trăm-Ngày (les Cents Jours) đén Cách
mạng 1830. Cả một đoạn dài lịch sử nước Pháp.
|
|
Céleste de Chateaubriand
Sơn dầu Hippolyte B.Adam
1836
|
Juliette Récamier
Tranh Nam tước Gérard 1802
|
Trong lần xuất bản đầu, cuốn Génie du Christianisme
gồm
cả hai truyện Atala và René. Sách có một ảnh
hưởng sâu đậm vào lịch sử những tư tưởng văn chương
và tôn giáo ở Pháp vào thế kỷ XIX. Viết theo phong cách cổ
điển nhưng với một năng lực cảm giác tiền lãng mạn,
sách biểu dương những nguồn sáng kiến mới tương tự nghệ
thuật gôtic hay những sự nghiệp anh hùng trung cổ. Trầm ngâm
trước vẻ đẹp những phế tích điêu tàn ám ảnh một nỗi
sầu muộn diệt vong, tác giả báo hiệu thị hiếu một phong
cách lãng mạn. " Làm sao diễn tả được hàng loạt cảm giác
thoáng qua tiếp nhận trong những buổi dạo chơi ? Âm thanh
những dục vọng vang dội trong khoảng trống một trái tim
cô đơn xem như tiếng rì rào của gió và nước trong cõi im
lặng một bãi sa mạc, ta hưởng thụ nhưng ta không sao miêu
tả được. Thu bất thần đến với tôi vào giữa tâm trạng
lưỡng lự ấy : tôi vui thích bước vào những tháng bảo
táp. Khi thì tôi muốn là một một chiến sĩ lang thang trong
gió, trong mây, giữa các hồn ma, khi thì tôi thèm muốn khát
khao thấu hiểu thân phận chú mục đồng đang sưởi nóng
bàn tay trên đống lữa bụi rậm nhóm ở góc rừng. Tôi lắng
nghe những bài hát u sầu của chàng, những bài hát nhắc cho
tôi ở mọi nước bản hát tự nhiên của con người bao giờ
cũng buồn sầu, ngay cả khi biểu lộ hạnh phúc. Tim ta là
một cây đàn thiếu khuyết, một cây đàn lia thiếu dây, nơi
chúng ta phải diễn tả nỗi vui trên âm điệu tiếng thở
dài.
Tháp Velléda
Có ngày tôi lạc lối giữa những đám thạch
thảo mọc đến ven rừng. Giấc mơ của tôi không cần nhiều
! Một ngọn lá khô được gió đẩy lại trước tôi, một
túp lều thả khói vươn tỏa lên ngọn cây trụi lá, nhánh
rêu trên cây sồi khẻ rung trong làn gió bắc, một khối đá
bị tách rời, một mảnh ao có cây bấc tàn héo thì thầm
! Gác chuông nhà thờ đơn chiếc đằng xa trong thung lũng thường
lôi cuốn mắt tôi ; cũng lắm khi cặp mắt tôi theo dõi đàn
chim bay trên đầu. Tôi tưởng tượng phương trời không tưởng,
khí hậu xa xăm nơi chúng đi tới, tôi hằng mong được ngồi
trên cánh chúng. Một bản năng âm thầm làm tôi bứt rứt
; tôi cảm thẩy tôi chỉ là một người đi đường, nhưng
một lời nói từ trời cao như muốn bảo tôi : Con người
nhân chủng, mùa di cư của ngươi chưa đến đâu ; hảy đợi
ngọn gió tử thần thổi dậy, lúc đó chàng sẽ dang cánh
bay lên những miền không tưởng theo lời đòi hỏi của tim
ngươi ..." Và còn lãng mạn hơn khi Chateaubriand kêu gọi : "Nỗi
dậy đi, những cơn dông ước mong để rồi mang René vào những
không gian một cuộc sống khác. Vừa nói tôi vừa rảo bước,
mặt mày hừng hực, gió rít trong mái tóc, không còn nhận
thức mưa bay, sương giá, hớn hở, băn khoăn và tưởng như
bị con quỷ tim tôi ma ám. Ban đêm, khi cơn gió bấc làm rung
ngôi nhà rạ của tôi, khi mưa rơi như thác trên mái nhà, khi
qua song cửa tôi thấy mảnh trăng rạch những đám mây chồng
chất như một chiếc tàu nhợt nhạt lướt sóng, tôi thấy
tuồng như đời sống dồn dập ở đáy lòng tôi, tôi có đủ
sức mạnh để sáng tạo những thế giới mới. Ô ! Giá chi
tôi có thể chia sẻ với một cô nàng những rung cảm đang
làm tôi đau khổ ! Ôi Chúa ! Giá chi Chúa ban cho tôi một cô
gái như tôi ước mong ; giá chi, giống như ông cha thủy tổ
của chúng ta, Ngài cầm tay dắt đến cho tôi một nàng Eve
rút từ thân tôi,...Nhan sắc tuyệt vời, tôi sẽ quỳ trước
nàng và ôm choàng nàng, tôi sẽ cầu khấn Thượng đế cung
hiến cho nàng trọn đời của tôi. "(René)
Đàn
cừu cuối vườn
Sau khi rời ngôi nhà thôn dã ở Aulnay, sau khi
rời bỏ hoàn toàn chính quyền, ông còn cho xuất bản La
vie de Rancé (Cuộc đời của Rancé) năm 1844. Bắt đầu
từ nay sức khỏe của ông kém dần và ông từ trần ở Paris
ngày 04 tháng bảy 1848, thọ 80 tuổi. Thi hài ông được mai
táng một mình ngày 19 tháng bảy, theo lời trối trăn, ở hòn
Grand-Bé trong vũng tàu Saint-Malo. Từ nay, ngày đêm yên tĩnh
trong tiếng sóng rì rào, ông mặc sức hồi tưởng lại những
ngày trên bién cả. Bà vợ Céleste mất một năm trước ông,
thọ 73 tuổi, và được chôn trong nhà thờ Marie-Thẻrese ở
Paris là nơi bà đã thiết lập một bệnh xá. Còn bà Récamỉer
thì nối gót ông một năm sau, ngày 11 tháng năm 1849, thọ 72
tuổi, không may mắn được mai táng gần ông mà yên giấc
ngàn thu ở nghĩa địa Montmartre tại Paris. Chính bà đã thuê
và ở ngôi nhà Vallée-aux-Loups ba năm (1818-1821), trước khi
công tước Mathieu de Montmorency mua lại nhà nhưng bà tiếp tục
được mời lại ở đến 1826 là năm công tước mất đi.
Con gái công tước Elisabeth lấy ông tử tước Sosthène de la
Rochefoucauld từ nay trở nên chủ nhân. Con cháu ông nầy tiếp
tục hưởng thụ ngôi nhà cho đến 1914 thì bán lại cho bác
sĩ Henry Le Savoureux và bạn đồng nghiệp Cesar Hugonin. Họ trang
trí nhà thành viện bảo tàng rất đông khách đến viếng
cho đến 1967 thì được tỉnh Seine mua lại. Bao lần được
mở rộng, trùng tu, công viên, ngôi nhà ngày nay mang tên " Nhà
Chateaubriand " và được xếp vào những Di dích lịch sử. Trở
thành một trung tâm khảo cứu, "Nhà Chateaubriand" gồm có ngày
nay một thư viện (12.000 pho sách) và một vốn sách bảo tàng
(tranh vẻ, bản khắc, tượng hình, bản thảo, tác phẩm nghệ
thuật) rất phong phú về Chateaubriand, mở cửa cho mọi khảo
cứu viên. Khách khứa thăm viéng, sau khi đi bách bộ vòng quanh
công viên, ngắm nhìn cây cối lâu đời từng được các chủ
nhân sân sóc, đàn cừu yên tĩnh gặm cỏ ở cuối vườn,
có thể nghỉ chân ở quán trà bên cạnh để thư thái mặc
niệm một nhà chính trị, một văn đã có nhiều ảnh hưởng
lên phong trào lãng mạn.
Quán trà ở gốc công
viên
Thành Xô thu - đông
2014
(Diễn
Đàn Forum – diendan.org)
|