Mỗi
năm đến độ xuân về, hoa nở khắp nơi thì hoa vườn Xô
cũng đua nhau khoe sắc, muôn màu tươi sáng. Đặc biệt hoa
anh đào rực rỡ nhuốm trắng, nhuốm hồng công viên, nhất
là ở hai Bosquet Nord (Lùm cây Bắc) và Bosquet Sud (Lùm cây Nam)
nằm trên hông phía tây Grand Canal (Kênh Lớn), hai bên bãi cỏ
Plaine de Châtenay (Đồng bằng Châtenay) trong Parc de Sceaux. (Công
viên Xô). Hai lùm cây không có anh đào cùng màu : ở Bosquet
Sud được trồng 150 cây Prunus serrulata "Kanzan" có hoa
đôi màu hồng nhạt mà người Pháp gọi là cerisier japonais
; Bosquet Nord chỉ có 104 cây hai loài Prunus avium hoa đơn
trắng và Prunus avium "Plena" hoa kép trắng. Các cây anh
đào nầy không có trái. Khi nói hoa anh đào, người ta nghĩ
đến Nhật Bản. Thật vậy, vào mùa xuân, ở bên nước ấy,
nổi trội là hoa anh đào và đến mùa hoa nở người Nhật
thường đến thưởng thức theo phong tục truyền thống hanami
(hay o-hanami, có nghĩa là ngắm hoa) hiện hữu từ nhiều
thế kỷ. Tương đương với hanami mùa xuân là momijian
(có
nghĩa là xem xét thay đổi màu lá koyo)mùa thu. Có thể
phong tục nầy bắt đầu từ thế kỷ 8, vào thời đại Nara
(710-784), nhằm lúc Nhật Bản chịu nhiều ảnh hưởng đời
Đường Trung Hoa : tổ chức hành chánh, đạo giáo, nghệ thuật,
bút pháp,...Chùa chiền được xây dựng khắp nơi, chữ viết
được sử dụng với những thay đổi cần thiết để phát
triển trong tinh thần quốc gia...
Vào thời ấy, phần
lớn người Nhật còn là những nhà nông, sống ở đồng quê,
tin tưởng nhiều thần như kami sau nầy đóng góp vào
đạo shinto. Họ sống trong môi trường thiên nhiên, thờ
cây cối, ngày nay ở thời đại nguyên tử, điện tử, còn
thấy nhiều vết tích trang hoàng trên những cây lớn, đại
thụ. Tập quán thờ hoa ở dân gian, ngắm hoa trong triều đình,
giới quý tộc cũng từ Trung Hoa đem qua. Lúc đầu họ không
phân biệt các loại hoa đào (ume), nhưng từ thời đại
Heian (794-1185) hoa anh đào (sakura, hay đúng hơn
sakura
no hana) khi nở, được chỉ định là báo hiệu mùa
xuân, khởi công mùa màng, lúc cần phải gieo lúa. Trong thi
ca truyền thống Nhật Bản (haiku, tanka), sakura rất
liên quan với danh từ"hoa". Nhiều quà cúng lễ được đem
đặt duới gốc cây để cầu được mùa lúa đồng thời
sùng bái các vị thần. Chính vua Saga (786-842) đã biến dạng
lễ dân gian thành buổi ăn chơi, ca hát, nhảy múa, uống rượu
saké
(sau
nầy có rượu bia thay thế) và làm thơ. Những bài thơ vịnh
hoa nầy xem như là một ẩn dụ của đời sống, huyền diệu,
thần tình nhưng ngắn ngủi. Sau đó, các võ sĩ
samourai
tiếp tay bành trướng và dần dần qua thời đại Edo (1600-1868)
lễ hội phát triển trở ra lại dân gian. Tiệc tùng được
tổ chức ngay dưới gốc cây, không những trong khuôn khổ
gia đình mà cả ở công ty, bàn giấy, vào giờ ăn trưa hay
buổi tối, lắm khi được cấp cầm quyền chỉ đạo. Thay
vì bàn ghế, chăn chiếu được trải ngay dưới đất. Dân
trai trẻ vừa mới vào làm trong sở thường được cử để
đứng giữ chỗ dưới cây sakura. Lắm lúc, lễ kéo dài
đến khuya và các ông ra về say lướt mướt. Phong tục phát
triển mạnh mẽ đến nổi những buổi phát khí tượng truyền
thanh, truyền hình cũng đóng góp cho biết tình hình hoa ở
từng nơi trong nước. Nhật Bản được trình bày như một
làn sóng hoa nở, từ miền nam trong một tháng tiến dần lên
phía bắc : sớm nhất ở Okinawa và chậm nhất vào tháng năm
ở Hokkaido. Hai thời buổi quan trọng nhất là lúc những đóa
hoa đầu tiên hé nở (kaika) và lúc hoa nở nhiều nhất
(mankai). Đấy cũng là lúc máy chụp hình được sử
dụng tối đa trong năm và các nhiếp ảnh gia nghiệp dư mặc
sức trổ tài. Nhật kiều vùng Paris không quên tập quán hanami
và thường vào trung tuần tháng tư, một ngày chủ nhật đúng
vào lúc hoa anh đào nở đẹp (tùy thời tiết, từ lúc hé
nở cho đến lúc bắt đầu tàn, hoa chỉ đẹp giữa một và
hai tuần lễ), họ rũ nhau cùng gia đình và bạn bè người
Pháp lại Công viên Xô vui chơi thưởng ngoạn. Vào chơi vườn
Xô hôm đó tưởng như mình lạt vào xứ Phù Tang nhất
là khi có vài ba bộ y phục cổ truyền nổi bật giữa rừng
màu hồng hoa đào.
Parc de Sceaux là
một công viên lớn rộng 220 ha, tọa lạc ở nơi gặp gỡ
ba thị trấn Sceaux, Antony và Châtenay-Malabry, gần quốc lộ
N20, khoảng 10 km miền nam Paris. Vào thế kỷ 15, Sceaux chỉ
là một cơ nghiệp nông thôn vài hecta, gồm có hai phần : Le
petit Ceaux (Sceaux nhỏ) quanh nhà thờ và Le grand Ceaux (Sceaux
lớn) ở vị trí công viên ngày nay. Gia đình Baillet đầu tiên
cho hợp hai phần nầy lại. Năm 1597, nam tước Louis Potier cho
xây một cái nhà bình dị. Sceaux chỉ bắt đầu mở mang từ
1670. Jean-Baptiste Colbert, Giám sát viên chánh Tài chánh của
vua Louis XIV, mua mảnh đất nầy và muốn sửa sang lại thành
một nhà nghỉ có uy tín. Quen biết nhiều vị làm ở Versailles
như kiến trúc sư Claude Perrault, họa sĩ Charles Le Brun, ông
cho sửa lại cái nhà, xây tòa Aurore (Rạng Đông). Ông cậy
nhà họa sĩ André le Nôtre vẽ kiểu sắp đặt vườn tuợc
với những đường đi dài thẳng giữa những hàng cây, những
bồn vuông vắn trồng hoa muôn màu, những lùm um tùm cây cao
bóng mát,... Lợi dụng đất rộng thênh thang, lâu đài tọa
lạc trên đồi, nhà họa sĩ nổi tiếng nầy vạch trục phố
cảnh đông tây từ cổng vào, xuyên qua lâu đài hướng về
phía mặt trời lặn, và trục bắc nam thẳng đứng với trục
kia, dẫn từ lối đi Diane, dọc theo mặt trước lâu đài đến
những Cascades (Thác nước) và hồ Octogone (Bát phương). Phản
ảnh trong nước, nhất là khi có chim, vịt, thiên nga vẩy vùng,
vận hành ánh sáng trong dãy thác nhân tạo những ngày có nắng
gây ra một cảnh tượng sinh động đem lại sức sống cho
cảnh vật. Sau đó, ông cho kéo dài bãi cỏ trước lâu đài
ra đến Plaine des Quatre Statues (Đồng bằng Bốn Tượng : Le
Point du Jour, La Gloire des Princes, la Magnanimité, L'Air). Ông cho
đặt khắp nơi những bản sao các hình tượng cổ đại như
những tượng đá Faune Borghese, Hercule Commode, Nước, Đất
ngay trước lâu đài, Castor và Pollux, Paetus và Arria, Papirius
Cursor, Apollon và Daphnée cùng những nhóm mẹ con hươu quanh
hồ Octogone, cậy họa sĩ Charles Le Brun trang hoàng trần tòa
Aurore,...
Sau khi Colbert từ
trần năm 1683, con trai là hầu tước Seignelay tiếp tục công
trình của thân phụ, mua thêm đất, mở rộng vườn, năm 1686
cậy Hardouin tức Hardouin-Mansart xây tòa Orangerie (Nhà cam), rồi
cho đào Grand Canal. Năm 1700, lâu đài về tay ông bà công tước
Maine. Họ thường xuyên tổ chức ở đây lễ lạt tưng bừng,
có tiếng là những Nuits de Sceaux (Đêm Xô thành). Những hoạt
động nầy đem lại cho Sceaux một bản sắc văn hóa, đẩy
Sceaux lên thành một nơi cư trú sang trọng, tiếng đồn tồn
tại suốt thế kỷ XVIII. Thừa kế tiếp tục là hai đứa
con rồi người cháu, công tuớc Penthièvre, và sau đó con gái
của ông ta, bà bá tước Orléans. Sau Cách Mạng, lâu đài thuộc
quyền sở hữu nhà nước và mất mọi đồ đạc quý báu,
nhiều tượng được đưa về điện Louvre. Nhà buôn Hippolyte
Lecomte mua lại lâu đài đổ nát nầy, định cho phá đi nhưng
nhờ cô con gái Anne-Marie và ông chồng công tuớc Trévisse,
công trình được xây dựng lại theo chỉ dẫn của kiến trúc
sư Le Soufaché từ 1856 đến 1862, theo phong cách néo-Louis XII
(Louis XII mới) mà ta thấy ngày nay. Tuy nhiên, công việc bảo
quản quá nặng nề, nhất là vào vào thời kỳ đệ nhất
thế chiến, năm 1923 cô con gái công chúa Cystria bán lại cho
tỉnh Seine. Ngày nay, Parc de Sceaux thuộc quyền sở hữu của
tỉnh Hauts-de-Seine có nhiệm vụ bảo tồn di sản lịch sử.
Năm 1925, lâu đài được xếp vào hàng Viện bảo tàng Lịch
sử. Giữa 1930 và 1934, kiến trúc sư Léon Azéma được phái
sửa sang lại Công viên. Ông giữ nguyên vẹn lâu đài, các
tòa Aurore và Orangerie, nhưng cho vẽ lại vườn tược, bể
nước, các lối đi, thêm thác nước, bức tường các mặt
nạ của Rodin, đưa tòa Hanovre từ Paris về, biến đổi lâu
đài thành viện bảo tàng. Hướng quản trị nầy được tỉnh
Hauts-de-Seine tiếp tục trong tinh thần bảo quản di tích lịch
sử, phát huy văn hóa đồng thời cũng dành một không gian
giải trí, dạo chơi thanh thản cho khách lại viếng thăm. Đằng
khác, nhờ một môi trường sinh thái có giá trị, Công viên
được kê vào Zone Naturelle d'Intérêt Ecologique Flot ristique et
Faunistique ( Khu Tự nhiên Lợi ích Sinh thái Thực vật và Động
vật). Trong một lãnh vực khác, năm 2006, Công viên khánh thành
một khu 12 tác phẩm điêu khắc tượng trưng 12 bộ lạc Israel,
kỷ niệm những người Do Thái quê gốc tỉnh Hauts-de-Seine
bị đày chết trong kỳ thế chiến vừa qua, gọi là Pupitres
des Etoiles.
Mỗi lần có bạn
bè bên nước lại thăm chúng tôi ở Xô thành, nhà ở gần,
tôi không quên đưa đi viếng Công viên và giới thiệu đùa
: nơi nghỉ mát của tôi đấy ! Thật vậy, ra vào tự do, Công
viên mở cửa suốt tuần suốt ngày, chỉ đóng cửa buổi
tối. Mình thụ hưởng mọi cảnh xinh, hoa đẹp mà chẳng phải
móc túi trả một xu nhỏ, mất công nhổ một ngọn cỏ hay
quét một lối đi, mọi công việc bảo quản đều được
tỉnh lo liệu. Trong chương trình thể dục đi bộ, tôi vào
đây hầu như hằng ngày : đi chậm vòng quanh Công viên cũng
phải gần hai tiếng đồng hồ. Ngày nào cũng vậy, khi trời
tốt, nhất là cuối tuần, ngày lễ, rất có nhiều người
chạy điền kinh dọc các lối đi, kênh nước hay vượt qua
các lùm cây, bãi cỏ. Đây đó có nhiều đường thiết bị
thể thao, những xà đơn, xà kép, cột trèo đủ thứ. Trong
các lùm cây, không hiếm thấy những đoàn học sinh trong các
lớp thể thao, những võ sĩ tập múa nhu đạo, thái cực quyền.
Tôi biết ít nhất có bốn võ sĩ người Việt chỉ dẫn công
không những bài học tài chi, khí công những sáng thứ bảy
hay chủ nhật : các thầy Nguyễn Thúy Vạn, Trần Quang Đang,
Hồ Mạnh Trung, Đinh Cao Minh. Ở Grand Canal thỉnh thoảng có
cuộc đua thuyền mang đầu rồng gọi là Dragon Cup dành
cho sinh viên các trường cùng nhiều hội đoàn thanh niên, lần
nào cũng thấy có mời một đoàn Hoa kiều lại múa lân, múa
rồng. Ngoài ra, hằng năm ban điều hành tỉnh tổ chức những
hoạt động văn nghệ như những buổi hòa nhạc cổ điển
ở tòa Orangerie, những cuộc triễn lãm tranh ảnh ở lối đi
trước tòa ấy, tham quan Viện bảo tàng, tham quan công viên,
biểu diễn Arts de la Rue et du Cirque (Nghệ thuật Ngoài đường
và Xiếc) do những đoàn chuyên nghiệp thực hiện trên bãi
cỏ trước lâu đài, diễn kịch Túc hứng thành Xô (L'Impromptu
de Sceaux ) của học sinh các trường di động trong khắp công
viên. Những buổi chiều nầy gây náo nhiệt trong Công viên
vốn rất tĩnh mịch trong ngày thường. Cũng như hôm chủ nhật
hanami,
mỗi năm một lần vườn đào vui nhộn, đưa một mảnh thành
Xô về đất Á Đông xa xăm, xóa bỏ mọi ngăn cách không gian
và thời gian.
|
|
Xuân năm ấy,
Đào hoa khoe sắc
Hồn chìm trong
ánh mắt giai nhân
Phong Tiêu |
|
Xô
thành một hôm tuyết lạnh cuối đông
Mừng
xuân 2011 - Tân Mão
|
|
Chim
Việt Cành Nam 42 (25.02.2011)