thân tặng cháu Nguyệt Ánh, man mác
hương miệt vườn
Xuồng ba lá lách len rừng kênh lạch
Rễ tràm ken như địa võng thiên la
Cô gà nước, chú trích cồ, bìm bịp
Cùng bay lên cất tiếng hót chào ta!
Hoàng Gia Cương
(Trong rừng tràm trà sư)
 
Thường nước ta được ví như người nông
dân gánh hai thúng lúa : một thúng ngoài bắc có lưu vực sông
Hồng màu mở đổ đầy, một thúng trong nam có châu thổ sông
Cửu Long phì nhiêu phục vụ; đòn gánh là miền trung dài hẹp
uyển chuyển theo dãy Trường Sơn. Vùng đồng bằng sông Cửu
Long, còn gọi vùng đồng bằng Nam Bộ, rộng khoảng 4 vạn
km2 ở cực nam lãnh thổ, dân số khoảng 17 triệu rưởi, có
dáng một hình tam giác, đất liền phía bắc giáp Căm Pu Chia,
biển ở hai phía tây nam và đông nam là vịnh Thái Lan và Biển
Đông. Có hai phần trong đồng bằng Nam Bộ: Miền
Đông lúc xưa gồm 13 tỉnh, sau nhiều lần thay đồi,
nay còn 6 tỉnh (Lục tỉnh) Thành phố Hồ Chí Minh, Tây Ninh,
Bình Dương, Bình Phước, Đồng Nai và Bà Rịa - Vũng Tàu ;
Miền
Tây, ngoài thành phố Cần Thơ trực thuộc chính phủ, gồm
12 tỉnh Long An, Tiền Giang, Bến Tre, Vĩnh Long, Trà Vinh, Hậu
Giang, Sóc Trăng, Đồng Tháp, An Giang,
Kiên Giang, Bạc Liêu, Cà Mau. Đồng bằng sông Cửu Long
nguyên là phù sa trầm tích, với thời gian trở thành vùng
đồng bằng thấp ngập nước. Khi mức nước biển hạ dần
xuống vào cuối thời kỳ trầm tích Pleistocen (cách đây
khoảng 12.000 năm), những phần đất lộ ra. Một mẫu than
ở phần đất nầy được xác định có tuổi 8000 năm. Sau
thời kỳ băng hà, mức nước biển dâng cao lanh chóng, những
vật liệu trầm tích lắng đọng vào những chỗ trũng thấp
của châu thổ. Những sinh vật biển như trai hàu được tìm
ra và xác định trầm tích hình thành vào khoảng 5680 năm.
 
Trong môi trường nước biển và nước lợ,
phát triển thực vật rừng nước mặn như những cây đước
Rhizophora
sp,
cây mấm Avicennia sp. Những thực vật chịu mặn này
có khả năng giữ lại các vật liệu lắng tụ, giảm hạ
sự xói mòn từ nước và gió đồng thời cung cấp sinh khối
cho trầm tích châu thổ. Khi mức nước biển dâng cao, trầm
tích lắng tụ theo chiều dọc gây ra những cánh đồng giàu
đất sét. Khi trầm tích lắng tụ thong thả, vật liệu dần
dần tích lũy cấu thành dưới chân cây một địa tầng giàu
sulfua sắt pyrit, tức là phèn. Khi khô hạn, những chất
phân hủy từ phèn tác dụng lên nước, giảm hạ mức acid
và gây khó khăn trong ngành canh nông. Khi mức nước biển hạ
thấp xuống thì nảy sinh một mức nước biển mới, hình
thành một bờ biển mới, từ đấy cấu tạo một số vạt
đất phù sa phì nhiêu, những giồng cát chạy song song
dọc bờ biẻn cùng những trũng thấp trầm tích đầm mặn
đất phèn như thấy ngày nay ở Đồng Tháp Mười, tứ giác
Long Xuyên-Châu Đốc- Hà Tiên-Rạch Giá, vùng tây nam sông Hậu,
bán đảo Cà Mau. Một giồng cát nằm giữa vùng Đồng Tháp
Mười và vùng trầm tích phù sa được xác định vào khoảng
4.500 năm tuổi. Khi mức nước biển hạ thấp xuống thì môi
trường nước biển cũng như vùng đầm lầy biển thay đổi,
từ đấy những cây đước, cây mắm nước mặn cũng dần
dần được những thực vật rừng nước ngọt như cây tràm
Melaleuca
sp, các cây hoang dại mao thư
Fimbristylis sp, Udu Cyperus
sp
thay thế.
 
Châu thổ Nam Bộ trở thành vựa lúa phì nhiêu
không những cho miền nam mà còn cho cả lãnh thổ Việt Nam
nhờ đóng góp to lớn của sông Cửu Long. Trung bình hằng năm
sông cung cấp khoảng 4000 tỷ m3 và 100 triệu tấn phù sa. Tuy
một số bị giữ lại dọc đường, phù sa lắng tụ theo dòng
sông lập thành những con đê tự nhiên cao 3-4 m, hoặc bao phủ
lớp phèn thay đổi độ dày tầng đất, phần lớn được
đưa về lắng tụ ở cửa sông. Lớp phèn không luôn được
phù sa bao phủ kín nên vật liệu trầm tích chất phèn vẫn
xuất hiện ở vùng đầm lầy biển. Trái lại, ảnh hưởng
thủy triều đãi rửa khá mạnh gần cửa sông và các nhánh
gần cửa sông nên ở những nơi nầy độ chua tiềm tàng hết
còn hiện ra. Ngoài ảnh hưởng thiên nhiên, môi trường châu
thổ còn phải chịu đựng tác động của con người như nạn
phá rừng ở thượng lưu, những kế hoạch xây đập nước
ở Lào, Cam Pu Chia, Hoa lục giảm hạ lượng phù sa bồi đắp
các cửa sông, từ đấy vùng ven biển bị ngập dần. Một
ví dụ : nếu sông Cửu Long năm 1990 chở về 160 triệu tấn
phù sa thì 25 năm sau, năm 2015, số lượng giảm hơn phân nửa,
chỉ còn 75 triệu tấn. Nhưng tai biến lớn nhất trong tương
lai sẽ là sự việc nước mặn xâm nhập và sự kiện nóng
lên của quả địa cầu : theo công bố của Bộ Tài nguyên
và Môi trường, khoảng 40% vùng đồng bằng sông Cửu Long
có thể bị ngập trong nước do biến đổi khí hậu...Tuy
chưa là cao điểm của mùa khô, tình trạng hạn hán và xâm
nhập của nước mặn ở Đồng bằng sông Cửu Long hiện lên
đến mức báo động.
Ai có nghe chăng ơi Miền Tây nước
mặn dâng đầy Thương xót thương quê tôi Người dâng buông
tiếng thở than
(Sơn Hạ). Các cơ quan có thẩm quyền ở Việt
Nam đều cho các hồ chứa thượng lưu là nguyên nhân chi
phối chủ đạo. Ngoài Trung Quốc, thủ phạm chính là việc
gia tăng sử dụng nước sông Mekong của Lào, Thái Lan, và Cam
Pu Chia. Tình trạng thiếu nước hiện nay ở đồng bằng sông
Cửu Long thực sự bắt nguồn từ chánh sách phát triển thiển
cận, nguyên tắc mạnh ai nấy làm trong lưu vực Mekong, và
việc quản lý nguồn nước thiếu khoa học kéo dài từ năm
1975 cho đến nay. Nhiều bài báo gần đây đã lên tiềng báo
động. Tôi đang băng khoăng tự hỏi rồi vụ cá bị nhiễm
độc miền Trung liệu rồi có theo đường
lưỡi bò của
bọn hung đồ ngoại bang lè liếm Biển Đông đến tận bờ
biển Miền Tây không ? Các cụ bên ta thường có từ ngữ
họa vô đơn chí ! Nhà đạo diễn Nguyễn Võ Nghiêm Minh, nguyên
tiến sĩ vật lý bên California và cũng tốt nghiệp ngành Điện
ảnh, ngoài phim Khi yêu đừng quay đầu lại, là tác
giả hai cuốn phim làm sống động sông nước Cửu Long lúc
con nước đang còn nhạy cảm. Phim
Mùa len trâu (2003)
dựa lên tác phẩm cùng tên trong tập truyện Hương rừng
Cà Mau của nhà văn miệt vườn Sơn Nam, kể về cuộc sống
của những người nông dân miền Nam đầu thế kỷ XX. Mỗi
khi mùa mưa về, nước tràn ngập mọi nơi, có những người
làm nghề len trâu, đưa trâu đi tìm cỏ để sống qua
mùa lũ. Phim Nước 2030 (2013) mang phong cách viễn tưởnghiến
một hướng nhìn ở tương lai với giả định biến đổi
khí hậu toàn cầu tác động mạnh lên môi trường sinh thái
của miền Nam Việt Nam, từ đó tác động trực tiếp đến
số phận của mỗi con người, nhất là người nông dân gắn
bó với đồng ruộng.
 
Một số công trình ở Miền Tây rất quan trọng
về đủ mọi mặt là hệ thống kênh rạch không những để
tháo chua, rửa phèn, thoát lũ, tưới tiêu, làm đường giao
thông thủy rất thuận lợi, mà còn mang tính chiến thuật,
chiến lược quân sự, góp phần làm nên chiến thắng trong
các cuộc chiến tranh vệ quốc. Từ nhiều đời nay, kênh rạch
ở Nam bộ được thiên tạo hình thành, còn là một số là
nhân tạo. Giai đoạn đầu trong thế kỷ XVII đến năm 1698,
từng nhóm nhỏ di dân người Việt ở miền Bắc, miền Trung
đi lẻ tẻ vào theo hai hướng đường biển và đường bộ,
chỉ dừng lại ở Miền Ðông khai khẩn những vùng đất cao
ven sông, nơi có nước ngọt hay ở những vùng giáp ranh con
nước ngọt-mặn mới có thể sinh hoạt và trồng trọt. Sau
đó, những xóm, ấp khai hoang đất lầy để làm lúa nước
tiếp tục đi vào miến Tây Nam bộ. Công cuộc khai hoang dưới
triều Nguyễn đã đạt được nhiều kết quả quan trọng,
nhất là tại vùng đồng bằng sông Cửu Long. Từ cuối thế
kỷ XVII, gia đình Mạc Cửu, Mạc Thiên Tích cùng nhiều dân
điền, thương lái, binh lính đã đào kênh làm đường thông
thương ở vùng Hà Tiên, Rạch Giá, Long Xuyên, Cần Thơ. Đồng
thời hai tướng Dương Ngạn Ðịch, Trần Thượng Xuyên không
chịu làm tôi nhà Thanh đem 3000 quân qua xin chúa Nguyễn Phúc
Tần định cư và khai khẩn ở đất Ðông Phố (Gia Ðịnh),
Lộc Ðã (Ðồng Nai). Diện tích canh tác tăng lên đáng kể,
cảnh quan hoang vắng của đồng bằng đã chuyển thành một
vùng cư dân sầm uất. Bên cạnh việc khai hoang lập ấp, công
cuộc đào kênh, mở hệ thống dẫn nước vào các đồng ruộng,
đồng thời tạo những con đường thủy thuận tiện cho việc
di chuyển buôn bán cũng quan trọng không kém.
  
Sông Cửu Long rất quan trọng cho Miền Tây và
có thể nói Miền Tây chỉ ưống nước sông Cửu Long. Trước
khi vượt biên thùy Miên-Việt, bắt đầu từ Pnom Penh, sông
Mekong tách ra hai nhánh: bên mặt là sông Ba Thắc (sang Việt
Nam gọi là Hậu Giang hay sông Hậu) và bên trái
là Mekong (sang Việt Nam gọi là Tiền Giang hay sông
Tiền), lại còn tách ra chín (nhiều) nhánh mang tên chung
Cửu
Long Giang hay sông Cửu Long, chảy đổ vào Biển Đông,
dài khoảng 220-250 km. Ngoài hai dòng chính nầy, Miền Tây còn
nhận được nước vài ba con sông tương đối nhỏ hơn, phân
lưu của Tiền Giang hay của phân luu chính Preak Banam sông Mekong.
Sông
Vàm Cỏ gồm có hai nhánh đểu bắt nguồn từ Cam Pu Chia.
Sông
Vàm Cỏ Tây, thượng nguồn mang tên
rạch Long Khốt,
dài 270 km, rộng nhất 200 m, chảy qua hai tỉnh Tây Ninh và Long
An, là nguồn nước chủ yếu do sông Tiền tiếp sang qua kênhHồng
Ngự, đáp ứng một phần nhu cầu nước tưới cho sản
xuất nông nghiệp và sinh hoạt cho dân cư. Phần chính của
sông Vàm Cỏ Tây và tất cả các chi lưu của nó vào thời
nhà Nguyễn được gọi là sông Hưng Hòa. Sông Vàm
Cỏ Đông dài 185 km, rộng nhất 110 m, chảy qua nhiểu huyện
tỉnh Long An. Hai sông Vàm Cỏ Tây và Đông nước có nét đặc
trưng riêng màu xanh khi thủy triều lên và vàng đục khi thủy
triều xuống, khác với các sông khác ở đồng bằng sông
Cửu Long. Đổ vào rạch Long
Khốt có một số rạch hoặc đang còn vận dụng như rạch
Tầm Dương (hay rạch Tam Dưỡng) là nhánh Svay
Rieng thượng nguồn phía đông sông Mekong, hoặc hầu như bị
bồi lấp như rạch Soài Giang (hay
Rạch Bào) nối
thượng nguồn hai sông Vàm Cỏ Đông và Vàm Cỏ Tây. Đổ
vào giữa rạch Soài Giang là rạch Tầm Long nay gọi rạch
Cái Rô hay rạch Vàm Rồ chảy theo hướng bắc-nam
đổ vào sông Vàm Cỏ Tây tại huyện Mộc Hóa.
Ở tận sông Hồng em có biết
Quê hương anh cũng có dòng sông
Anh mãi gọi với lòng tha thiết
Vàm Cỏ Đông, ơi Vàm Cỏ Đông
Hoài Vũ Trinh

Sông Sở Thượng (Preak Kaoh Sampou)
còn gọi rạch Sở Thượng, là đoạn hạ lưu của Preak
Banam, chảy dọc theo biên giới Việt-Miên theo hướng tây bắc-đông
nam đổ vào kênh Hồng Ngự dẫn vào sông Tiền Giang. Sông
Sở Thượng là con sông biên giới giữa tỉnh Đồng
Tháp Việt Nam và tỉnh Prey Veng Cam Pu Chia. Sông Sở
Hạ, thượng nguồn được gọi rạch Cai Cỏ, tương
đối nhỏ, chảy uốn lượn ngoằn ngoèo từ Tân Thành, huyện
Tân Hồng, dọc theo biên giới Việt-Miên, đổ vào sông Sở
Thượng tại Tân Hội.
Sông Soài Rạp hay Xoài Rạp
dài khoảng 40 km, bắt đầu từ xã Phú Xuân, huyện Nhà Bè
và xã Bình Khánh, huyện Cần Giờ theo hướng nam đổ ra Biển
Đông tại cửa Soài Rạp, và làm ranh giới tự nhiên
giữa các huyện Cần Giờ và Nhà Bè, Cần Giờ và Cần Giuộc
(Long An), Cần Giờ và Gò Công Đông (Tiền Giang). Ngoài sông,
rạch kẻ ô đồng bằng Nam Bộ còn có một số kênh, những
tuyến đường giao thông thuỷ huyết mạch của đồng bằng
sông Cửu Long. Kênh cũng là một đốt sống quan trọng bậc
nhất của hệ thống nối liền TP Hồ Chí Minh với các tỉnh
miền Tây. Kênh
Dương Văn Dương, tên liệt sĩ thiếu tướng thay thế tên
La Grandière, và kênh Nguyễn Vãn Tiếp, hay kênh Tháp
Mười, thay thế tên Cậu Mười Hai, chảy song song dẫn
nước từ vùng Đồng Tháp Mười về
phần hạ lưu sông Vàm Cỏ Tây. Những kênh Đông
Điền ở Đồng Tháp, kênh
Bắc ở huyện Thanh Hóa dần nước ngọt từ sông Tiền
về phục vụ sinh hoạt và sản xuất cho cả huyện. Phía đông
hạ lưu Vàm Cỏ Tây nối thông với sông Vàm Cỏ Đông qua
hệ thống các kênh Trà Cú Thượng, kênh Thủ Thừa.
Một con kênh đào tại tỉnh Tiền Giang nối liền sông Tiền
Giang với sông Vàm Cỏ là kênh Chợ Gạo.
 
Con kênh được đào đầu tiên ở vùng đồng
bằng sông Cửu Long là kênh Bảo Định. Năm Ất Dậu
(1705), theo lệnh chúa Nguyễn Phúc Chu, Chính thống Vân trường
hầu Nguyễn Cửu Vân đem quân tiểu trừ quân giặc ngoại
xâm vùng Tây Nam bộ. Để đề phòng quân giặc tập kích,
Nguyễn Cửu Vân cho đắp một phòng tuyến kéo dài từ quán
Thị Cai đến chợ Lương Phú. Bên ngoài phòng tuyến, ông cho
đào một con mương hào nối liền rạch Vũng Gù và rạch Mỹ
Tho. Sau khi công trình đã được hoàn thành mỹ mãn, vua Gia
Long đặt tên là kênh Bảo Định và cho tạc sự kiện này
vào bia đá dựng tại Thang Trông để "truyền mãi về sau".
Công trình thật sự thoát lũ đầu tiên của nhà Nguyễn ở
đồng bằng song Cửu Long là kênh Thoại Hà (tức
kênh
Thụy Hà), nối rạch Long Xuyên với hệ thống thủy đạo
ở Rạch Giá. Năm 1817, khi Nguyễn Văn Thoại hay Nguyễn Văn
Thụy tức Thoại Ngọc Hầu về trấn thủ trấn Vĩnh Thanh,
thấy việc giao thông thương mại ở vùng đất này gặp nhiều
khó khăn, đồng thời ông nhận thấy cần phải khơi nguồn
để tháo bớt một phần nước lụt của sông Hậu ra biển
Rạch Giá nên nghĩ ngay đến việc đào một con kênh. Kênh
khởi công vào đầu năm 1818, nối rạch Long Xuyên ở Tam Khê
với hệ thống thủy đạo ở Rạch Giá, huy động khoảng
1.500 nhân công. Nhờ đào theo lạch nước cũ nên công việc
khá thuận lợi, một tháng đã hoàn thành kênh rộng 51,2 m,
dài 31, 744 km. Kênh đào xong, ông được vua Gia Long khen
ngợi và cho phép lấy ông lấy tên mình để đặt tên cho
con kênh mới đào là kênh Thụy Hà (Thoại Hà) và núi
Sập là núi Thụy Sơn (Thoại Sơn). Ðể đánh dấu một
công trình nhiều ý nghĩa này, Thoại Ngọc Hầu cho soạn một
bài văn khắc vào bia đá. Ðầu bia chạm to hai chữ Thoại
Sơn. Năm Minh Mạng thứ ba (1822), ông long trọng làm lễ dựng
bia tại miếu thờ Sơn thần (nay là ngôi đình thờ ông làm
Thành hoàng) bên triền núi Sập. Ðến nay, kênh vẫn
còn có giá trị lớn về các mặt trị thủy, giao thông, thương
mại, nông nghiệp và kênh cũng đã làm thay đổi bộ mặt
thôn xóm ở hai bên bờ. Tất cả thể hiện sức lao động
sáng tạo xây dựng đất nước của nhân dân Việt và chính
sách coi trọng thủy lợi để phát triển nhiều mặt của
triều Nguyễn.
Ðời Gia Long thập thất niên,
Ông Bảo hộ Thoại phụng truyền chỉ sai.
Ðào kinh Lạc Dục rất dài,
Ngang qua núi Sập trong ngoài giao thông.
Rồi vừa một tháng nhơn công,
Giáp vô Rạch Giá thương nông đều nhờ.
Nguyễn
Liên Phong (Nam Kỳ phong tục diễn ca 1909)

Năm 1819, sau khi đào xong kênh Thoại Hà, triều
Nguyễn lại cho đào tiếp một con kênh dài nhất triều đại,
100 km, chạy dọc theo khu vực đường biên giới Việt-Miên,
nối Châu Đốc với Hà Tiên. Công trình kéo dài 5 năm, từ
thời tướng Nguyễn Văn Nhơn làm Tổng trấn Gia Ðịnh Thành
cho đến thời tướng Lê Văn Duyệt thay thế. Chỉ huy trực
tiếp là các quan Nguyễn Văn Tuyên, Nguyễn Văn Tồn, Trần
Công Lại dưới quyền danh tướng lão luyện Nguyễn Văn Thoại.
Theo hệ đo lường ngày nay thì kênh có chiều dài là 87 km,
rộng 30 m, độ sâu trung bình khoảng 2,55 m. Tuy nhiên, trừ
đoạn láng Náo Khẩu Ca Âm (7.650 m) và chiều dài sông Giang
Thành (42.500 m) có sẵn, thì phần phải đào chỉ là 37 km.
Ước tính trong 5 năm, các quan phụ trách đã phải huy động
đến hơn 90.000 dân binh. Tổng số ngày công là 3.463.500 và
khối lượng đất đào là 2.845.035 m³. Vì công việc ở chốn
sơn lam chướng khí, việc ăn uống, thuốc men thiếu thốn,
số người chết vì bệnh tật, kiệt sức, vì thú dữ như
sấu, rắn rít... lên quá cao. Số người bỏ trốn rồi bỏ
mạng cũng lắm, mặc dù luật lệ ràng buộc, nhiều tai ương,
cho nên khi tin vui về đến Huế, vua Minh Mạng rất đổi mãn
nguyện vì nối được chí cha, liền sắc khen thưởng, dựng
bia ở núi Sam và ở bờ kênh mới đào để ghi nhớ thành
quả to lớn nầy. Khi hoàn thành, vua Minh Mạng lấy tên phu
nhân của Thoại Ngọc Hầu là bà Châu Thị Vĩnh Tế, có công
nhiều giúp chồng lo công việc đại sự, đặt tên cho con
kênh có tầm vóc chiến lược này là kênh Vĩnh Tế.
Nước
Nam trai sắc gái tài, Gương bà Châu thị lưu đời ngàn năm.Năm
Minh Mạng thứ 16 (1835), nhà vua cho đúc Cửu đỉnh để
làm quốc bảo và tượng trưng cho sự miên viễn của hoàng
gia, hình kênh Vĩnh Tế được chạm khắc trên Cao đỉnh.
Ðến bây giờ, kênh vẫn còn giá trị lớn về các mặt trị
thủy, giao thông, thương mại, biên phòng, thể hiện sức lao
động sáng tạo xây dựng đất nước của nhân dân Việt
và chính sách coi trọng thủy lợi để phát triển nông nghiệp
của triều Nguyễn. Kênh Vĩnh Tế, biển Hà Tiên,Ghe
thuyền xuôi ngược bán buôn dập dìu. Nghĩa trủng
là nơi cải táng hài cốt của những người đã chết trong
lúc đào kênh Vĩnh Tế. Tế nghĩa trủng văn còn được
gọi là Thừa đế lịnh, tế cô hồn kênh Vĩnh Tế tân
kinh, do Thoại Ngọc Hầu cho soạn theo lịnh vua, để ông
đọc trong buổi lễ tế các chiến sĩ, các sưu dân đã bỏ
mình trong công tác đào kênh Vĩnh Tế.
...Ðào kênh trước, mấy kỳ khó nhớ
Khoác nhung y chống đỡ biên cương.
Xông pha máu nhuộm chiến trường
Bọc thây da ngựa, gửi xương xứ này...
 
Dòng kênh nối từ sông Tiền (tại Tân Châu)
đến sông Hậu (tại Châu Ðốc) do nhân dân ba tỉnh là Vĩnh
Long, An Giang và Hà Tiên cùng góp sức đào là một công trình
đem lại lợi ích nhiều mặt quốc phòng, kinh tế, thủy lợi,
giao thông và phục vụ dân sinh. Lúc ban đầu kênh mang tên
Vĩnh
An Hà, sau này còn được gọi
Long
An Hà, Tân Châu Hà, kênh Vĩnh An, Kênh Cũ. Kênh được thưc
hiện dưới sự chỉ huy của Nguyễn Tri Phương (1800-1873),
một đại danh thần Tổng chỉ huy quân đội triều đình Nguyễn
chống lại quân Pháp xâm lược lần
lượt ở các mặt trận Đà Nẵng (1858), Gia
Định (1861) và Hà Nội (1873) và Nguyễn Công Nhàn.
một
danh tướng có công tiễu trừ cuộc nổi dậy của Lâm Sâm
ở phủ Lạc Hóa (nay là Trà Vinh). đuổi được quân Xiêm
xâm lấn ở Sâm Phủ, Bàn Ly, Sách Nô (1842),.. Sau này để
tỏ lòng biết ơn, người ta đã đặt tên hai con đường bên
bờ kênh là Nguyễn Tri Phương và Nguyễn Công Nhàn. Kênh khởi
đào từ tháng 10 năm 1843 đến tháng 4 năm
sau 1844 thì xong. Tuy nhiên, lần hồi kênh cạn dần vì phù
sa lắng đọng, nhất là chỗ giáp nước tại vàm kênh (Châu
Giang, Châu Ðốc). Ðến khi người Pháp cho đào thêm
Kênh
Xáng sâu rộng hơn vào năm 1914 (hoàn thành năm 1918), thì
kênh Vĩnh An mất hẳn vai trò quan trọng. Khi con kênh bị bồi
lấp và ô nhiễm quá nặng, ngày 10 tháng 8 năm 2009, chính quyền
địa phương đã tổ chức lễ động thổ, khởi công công
trình san lắp kênh Vĩnh An (đoạn thị trấn Tân Châu), hình
thành cụm tuyến dân cư ven hai đường Nguyễn Tri Phương và
Nguyễn Công Nhàn. Năm 1861, quân Pháp tấn công Ðịnh Tường,
Nguyễn Công Nhàn bị vu tội bỏ thành Mỹ Tho để đào thoát,
hành động này đã bị nhiều người Việt chê trách. Tuy nhiên
xét khía cạnh khác, ông vẫn được xem là người có công
giữ gìn bờ cõi, là người chủ xướng việc đào kênh Vĩnh
An Hà ở An Giang đem lại nhiều lợi ích thiết thực. Hiện
ở thị xã Tân Châu, có con đường mang tên ông.
 
Miền Tây là vùng sông nước kênh rạch chằng
chịt. Địa hình sông nước và đồng bằng chịu đựng khí
hậu nắng nóng và gió mùa đã phát triển ở người dân nơi
đây một đặc trưng tính cách riêng mà các nhà nghiên cứu
gọi là tính sông nước.
Tính cách này được thể hệ qua thói quen di
chuyển bằng xuồng, nhà ở gần kênh rạch. Nguồn thực phẩm
hằng ngày của người dân nơi đây cũng từ thủy sản là
chủ yếu. Từ cá, người ta chế biến thành rất nhiều món
ăn khác nhau (luộc, kho, chiên, nướng, hấp, nấu chua, nấu
ngọt, làm gỏi, làm chả, làm mắm,...) Từ môn canh chua, người
ta có thể thay đổi khẩu vị bằng cách nấu với bông điên
điển hay bông so đũa. Canh chua điên điển cá linh, Ãn chỉ
một mình thì chẳng biết ngon. Ðặc sản mỗi vùng tự
nhiên được thích ứng với nước non, núi sông nơi đang ở.
Gió
đưa gió đẩy về rẫy ăn còng, Về bưng ăn cá về đồng
ăn cua. Tính sông nước còn được thể hiện ngay trong
nhận thức Miền Tây. Ngôn ngữ người dân rất giàu các từ
ngữ chỉ các sự vật, khái niệm liên quan đến nước mà
trong tiếng Việt toàn dân không có như rạch, xẻo, láng, xáng,
lung, bung, bưng, bàu, đìa (nơi chứa nước), cù lao, cồn, bãi,
bưng, biền, trấp (vùng đất có nước bao quanh), rong, nhửng,
ương, giựt, ròng (sự vận động của nước), ghe, xuồng,
tam bản, vỏ lái, tắc ráng (phương tiện vận chuyển)...Sông
nước trở thành cơ sở, hình ảnh để diễn đạt tính cách
con người. Chàng trai e lệ tỏ tình:
Nước chảy liu riu,
lục bình trôi líu ríu, Anh thấy em nhỏ xíu anh thương.
Cô gái mân mê chiếc khăn rằn vắt trên vạt áo bà ba, dè
dặt thổn thức: Chiếc thuyền kia nói có, chiếc ghe nọ
nói không, Phải chi miếu ở gần sông, Em thề một tiếng
kẻo lòng anh nghi. Người dân từ bốn phương trời lại
sống chung ở đây, nguồn gốc tổng hợp tự nhiên hun đúc
trong lòng một tính bao dung mở rộng cuộc chung sống hài hòa
giữa các dân tộc Việt, Hoa, Chăm, Khơ Me, giữa các tôn giáo
Phật, Hồi, Thiên giáo, Tin Lành, Hòa Hảo, Cao Đài. Đi lại
dễ dàng, người Miền Tây thay đổi việc làm, chỗ ở không
khó khăn.
Ra đi gặp vịt cũng lùa,
Gặp duyên cũng kết, gặp chùa cũng tu;
Ra đồng gặp vịt thì lùa,
Gặp cướp thì đánh, gặp chùa thì tu.

Miền Tây là không gian sông ngòi kênh rạch cắt
xẻ ruộng nước thành ô vuông, vùng đồng bằng thành khu
vực sinh sống, đồng thời điều hòa giao thông đường thủy
trong lúc đường bộ cũng cần thiết không bằng. Khi đường
cái gặp sông, rạch thì bắt ngang có nhiểu cầu đúc (bằng
xi măng), cẩu sắt, phần lớn bắt đầu từ thời Pháp thuộc
: cầu treo Cả Rưng (Vĩnh Hưng), cầu Mới (cầu Mộc Hóa) tại
Mộc Hóa trên quốc lộ 62, cầu Tuyên Nhơn (trên quốc lộ
N2), cầu Dây Võng (Thủ Thừa), cầu nối cao tốc thành phố
Hồ Chí Minh - Trung Lương, cầu Tân An mới, cầu Tân An
(Long An). Để vượt mương rạch, trên lộ liên xã, liên
ấp, từ xưa thì có các cầu nhỏ làm toàn bằng vật liệu
sẵn có trong vùng như tre, dừa, tràm, đước : cầu ván
đóng đinh là cầu có mặt ván phẳng lỳ trên mố trụ
cầu bên dưới vững chắc trước tác dụng của nước ; cầu
tre lắt lẻo là loại cẩu đơn giản thô sơ với vài cây
tre chụm lại làm trụ, vài cây tre khác gác dọc làm thân
cầu, thường có tay vịn. Qua cầu có phần khó khăn, thử
thách nên cây cầu Miền Tây là biểu tượng đường đời.
Nếu người miền Bắc có kiểu hát ru con à ơi mà nỗi
buồn loang xa ra ngoài ngàn dặm, thì người phương Nam cũng
có điệu hát ru âu ơ đặc trưng, chuyên chở những
câu ca dao mộc mạc, chân phương, lai láng tình người.
Dí dầu cầu ván đóng đinh
Cầu tre lắt lẻo gập ghình khó đi
Khó đi mẹ dắt con đi
Con đi trường học mẹ đi trường đời

Ở Miền Tây còn có một loại câu nhỏ cũng
không kém đơn sơ làm bằng tre, cau, dừa, lồ ô, phi lao. Tuy
có tay vịn nhưng tre gác thân cầu không đồng đều nên khó
sử dụng và nguy hiểm. Người ta hình dung chỉ có những con
khỉ hay leo trèo mới có thể đi được, nên đặt tên là
cầu
khỉ. Một ý kiến khác cho rằng chính dáng người đi lom
khom như con khỉ của khách bộ hành đã khiến chiếc cầu
mang cái tên này. Phải chi lấy được vợ vườn,
Tập
đi cầu khỉ thêm đường dọc ngang. Thật ra người làng
tập đi rẩt lanh, trẻ em tụ tập trên cầu rồi nhảy xuống
kênh bơi lội, người lớn miệt vườn thứ thiệt gồng gánh
vác đồ hay đi xe đạp qua cầu. Trong những đoàn đám cưới,
có những cô đi dày cao gót không nề hà theo nhịp bước.
Tuy nhiên, nghe nói tai nạn cũng nhiều nên gần đây có phong
trào xây cầu xi măng thay thế các cầu khỉ. Vẫn biết kế
hoạch đúng lý đối với người ở làng xã hằng ngày phải
đi lại qua cầu với những nguy hiểm có thể xảy ra. Nhưng
đối với người khách phương xa, người con nhớ quê cũ về
tìm những cánh rừng tràm bạt ngàn xen lẫn vị ngọt ngào
của các vườn trái cây, những cuộc dạo chơi hào hứng trên
các chiếc xuồng hai, ba lá giữa các hàng cây dừa, cây đước
phủ bóng trên kênh, thì trước bóng vắng không phải cô lái
đò xinh xắn bến cũ mà là những chiếc cầu khỉ lắt lẻo
gập ghình trên lạch thì chỉ còn biết ngậm ngùi trước
cảnh thôn dã thân yêu chôn vùi dần trong ký ức cùng với
những kỷ niệm làng quê một thuở! Cách đây mấy năm, phong
trào xây cầu nông thôn vang vọng đến thành Xô miền nam Paris
và học viên các nhóm Thái Cực Quyền ở Công viên Sceaux cũng
gởi lòng về đóng góp bốn cây cầu hữu nghị giữa
2005 và 2009, nhịp cầu nối bờ vui trong chương trình
Chúng
Ta Hãy Cùng Nhau Xây Dựng Nhịp Cầu Tương Lai. Chiếc cầu
Hữu nghị VK 96 ở xã Vinh Kim, huyện Cầu Ngang, tỉnh Trà Vinh,
được tài trợ và hoàn thành năm 2009.
Con kênh xanh xanh những chiều êm ả
lướt trôi
Đêm đêm trăng lên theo dòng buồm căng gió
xuôi
Con kênh xanh xanh những mùa sen nở khắp nơi
Bao câu tơ duyên dạt dào tim ai thắm tươi...
Ngô Huỳnh (Con kênh xanh xanh)
 
(*) Ảnh chụp những năm 1998, 1999, 2005 sao từ
dương bản và mượn trên internet:
Thành Xô mùa
Phật Đản 2016
|
 |
Đã đăng trong
Diễn Ðàn Forum diendan.org 06.06.2016
Ðọc thêm
- Bùi Văn Bồng, Những dòng kênh miền Tây
Nam bộ , metinfo.blogspot.com 17.01.2008
- Lê Công Lý, Tìm
hiểu về hệ thống sông Vàm Cỏ, trananhtu19.blogspot.com
01.12.2011
- Phạm Văn Thành, Kênh
Vĩnh Tế trong chiến lược củng cố quốc phòng - an ninh của
nhà Nguyễn (1802 - 1867)... nde.agu.edu.vn
21.11.2014|
- Gia
Minh, Xâm nhập mặn và khô hạn nặng vùng Đồng Bằng
Sông Cửu Long, rfa.org/vietnamese/programs 03.01.2016
-ThS. Trần Thị Hồng Nhung, Nguồn tài nguyên
đất và sự phát triển nông nghiệp ở đồng bằng sông Cửu
Long text.123doc.org Báo cáo khoa học
- Phước Lộc, Về miền Tây Giới
thiệu về các tỉnh miền Tây, (nguồn vietgle.vn) mientay365.blogspot.com
- Nguyễn Minh Quang,
Tình
trạng thiếu nước ở đồng bằng sông Cửu Long,anhbasam.wordpress.com
7538; diendan.org
20.03.2016,
Tinh
hình thủy học của sông Mekong anhbasam.wordpress.com 7874;diendan.org
19.04.2016
- Chi tiết kênh lạch : xem Vikipedia.
- Chi tiết cầu nông thôn :
xem pontvk.org ; Nguyễn Văn Nghĩa, Nhịp cầu nối bờ
vui, Thế giới và Việt Nam 01.02.2010 |