Thứ nhất là đình Đông Khang,
Thứ nhì đình Bảng, vẻ vang đình Diềm
Cách
Hà Nội 20km về phía bắc, Đình Bảng có ngôi đình cổ to
lớn nhất vùng, kiến trúc độc đáo.
Được kết hạng loại to, đẹp, thứ nhì Đình Bảng,
đình được ca ngợi từ nhiều đời. Thứ nhất đình Đông
Khang, lúc trước goi Đông Yên,
ngoài kiến trúc độc đáo vùng kinh Bắc, lại còn nổi tiếng
hằng năm dựng cầu nói khoác, trở thành một trong sáu
làng cười Bắc Ninh. Ngôi đình làng Diềm, còn
gọi Viêm Xá, xây dụng năm 1692, thờ đức thánh Tam Giang tức
hai anh em Trương Hống, Trương Hát, theo Triệu Việt Vương
đánh giặc, từ trầm ở cửa Đại
Nha vào thế kỷ XVII. Đình Diềm là một công trình kiến
trúc quy mô to lớn bậc nhất ở Kinh Bắc. Làng Đình Bảng
trước đây được khai khẩn từ rừng Báng nên gọi là làng
Báng, sau được đổi tên thành thôn Cổ Pháp. Khi đình Báng
được xây dựng và nổi tiếng mọi người biết đến Cổ
Pháp qua đình Báng và được gọi lái đi là làng Đình Bảng.
Đình Bảng xưa vốn thuộc hương Cổ Pháp (hương là đơn
vị hành chính cổ gồm nhiều xã, làng), huyện Đông Ngàn,
phủ Từ Sơn. Hương Cổ Pháp, rộng hơn là vùng hai bờ sông
Thiên Đức và sông Tiêu Tương nối từ Gia Lâm ngày nay qua
Đình Bảng tới Tiêu Sơn. Đình Bảng được coi là vùng
quê địa linh nhân kiệt. Đây là
quê hương của Lý Thái Tổ, người khởi lập triều Lý, khai
sáng Thăng Long Hà Nội. Đình
Bảng giáp Hà Nội là cửa ngõ mở thông lên phía Bắc nên
nơi đây có phong trào cách mạng sôi nổi, là nơi an toàn khu
của Xứ ủy Bắc Kỳ tổng khởi nghĩa cách mạng tháng Tám.
Ngày nay ở Đình Bảng còn có di tích lịch sử đền
Lý Bát Đế (hay còn gọi là Đền
Đô (nơi lớn nhất thờ 8 vị vua nhà Lý), Ðinh Đình
Bảng, chùa Xuân Đài hay còn gọi là Kim Đài (nơi Lý Công
Uẩn từng đi tu), Thọ Lăng Thiên Đức (nơi chôn cất các
vị vua nhà Lý), chùa Cổ Pháp, Đền
Rồng thờ Lý Chiêu Hoàng, vị vua thứ chín của thời
Lý, nhà Tam Tự đường họ Nguyễn Thác.

Ngôi Ðình Bảng cổ kính xây theo hình chữ công
là một công trình đồ sộ, nguy nga. Sàn nhà sắp xếp theo
lối cổ truyền người Việt xưa, tráng lệ, cao ráo, cao hơn
mặt đất một met để tránh thú dữ : lúc trước xung quanh
đây là rừng Báng, rậm rạp cây ngàn, beo cọp tự do đi lại
kiếm ăn. Bên trong các họa tiết hoa văn, hình long ly quy phụng,
những hình chạm không có hình nào giống nhau. Như vậy là
nhờ có nhiều thợ chạm hay nhóm thợ khác nhau gop suc, mỗi
người hay mỗi nhóm chạm khắc theo sở thích hay khả năng
của mình, tương tự như quân binh bằng đất sét mặt mày
tất cả đều khác nhau ở mộ vua Tần Thủy Hoàng tại Tây
An. Bắt đầu được xây dựng năm 1700, ngôi đình năm 1736
mới hình thành, nhưng theo giai thoại thì cũng phải khoảng
60 năm ! Cũng dể hiểu khi ta biết thuở ấy chưa có máy móc
dụng cụ hổ trợ, nhất là để dựng đứng hay sắp xếp
những cột gỗ to nặng. Mọi việc đều phải thực hiện
bằng tay, có khi vận dụng những cột gỗ lim to quá nặng
cần phải đào lỗ để làm đòn bẩy, giải thích vì sao quanh
các đình có những áo sâu. Điển hình là cái hồ lớn nhân
tạo hình chữ nhật trước nhà thờ Phát Diệm mang tên chính
thức Ao Hồ. Đất thiêng nầy thường được những tín đồ
xin về đắp nền nhà, đổ sân hay nới vườn tin tưởng may
mấn, hạnh phúc sễ được đất thánh đem lại cho gia đình.
Cần nói thêm công đầu của đình là do quan Nguyền Thác Lượng,
người Đình Bảng, từng làm trấn thủ Thanh Hóa, và phu quân
Nguyễn Thị Nguyên, quê gốc Thanh Hóa, một bà vợ đảm đang,
đã tìm gỗ lim về dâng làng xây dựng, mong ngôi đình trường
tồn. Ngôi nhà của ông Nguyền Thác Lượng cho dựng thử trước
khi dựng đình hiện nay vẫn còn đứng vững và được giữ
gìn bảo tồn.
 
Đình Bảng là nơi
hội tụ văn hoá tín ngưỡng. Trước đình thờ ba vị nhiên
thần Cao Sơn đại vương (Thần Đất),
Thuỷ
Bá đại vương (Thần Nước) và Bạch Lệ đại vương (Thần
Trồng Trọt). Họ là các vị thần được cư dân nông nghiệp
tôn thờ, cầu mong mưa thuận gió hoà cho mùa màng tươi tốt.
Hàng năm vào tháng 12 âm lịch nhân dân lại mở hội cầu
khẩn cho một năm mùa màng bội thu. Cũng tại đình làng nhân
dân còn thờ Lục Tổ (sáu vị có công lập lại làng vào
thế kỷ XV). Sau này khi đền Lý Bát
Đế bị thực dân Pháp phá năm 1948, nhân dân đã tiếp
nhận bài vị của tám vị vua triều Lý về thờ tại đình
Đình Bảng Hình ảnh độc đáo của kiến trúc
dân tộc Đình Bảng giữ được toàn vẹn kiểu thức
nhà sàn dân tộc áp dụng cho kiến trúc đình làng. Nhìn lại
lịch sử từ buổi đầu dựng nước, hình ảnh ngôi nhà sàn
còn in giữ trên các trống đồng Đông
Sơn Một sáng tạo của cha ông ta trong lĩnh vực kiến trúc
nhà ở không thể đem ngôi đình đồ sộ sau mấy mươi
thế kỷ đem so sánh với những nhà sàn trên trống đồng
Đông Sơn nhưng phải nhận thấy cả hai mẫu hình này
có phong thái thống nhất, có sự kế thừa và phát triển
truyền thống kiến trúc được xác lập từ buổi đầu dựng
nước. Đình Bảng là một công trình kiến trúc quy mô,
nguyên trước có cả tam quan, cửa giữa xây hai trụ gạch
kiểu lồng đèn cao, hai bên có cửa cuốn tò vò giả mái,
phía sau là khoảng sân rộng, hai bên là hai dãy tả vu và hữu
vu. Cũng như mọi ngôi đình khác, công trình quan trọng nhất
của Đình Đình Bảng về mặt kiến trúc nghệ thuật là toà
Bái Đường (Đại Đình)

Bái Đường của đình
có hình chữ nhật, dài 20m, rộng 14m chia làm bảy gian, hai
chái nằm trên nền cao bó đá xanh có hai bậc cấp. Vẻ đồ
sộ của đình thể hiện qua phần mái toả rộng chiếm 2/3
chiều cao tổng thể và 6 hàng, khoảng 60 cột lim lớn nhỏ
có đường kính từ 0,55- 0,65 m, được đặt trên các tảng
đá xanh vuông vức. Khi bước vào lòng đình, quý khách choáng
mắt trước tinh hoa của nghệ thuật chạm khắc thế kỷ XVIII.
Cuốn hút đầu tiên trong đầu mọi du khách là bức cửa Võng
lớn ở cung giữa thuộc gian ngoài. Bức Võng phủ kín một
diện rộng, kéo dài từ thượng lương xuống hạ xà và mở
ngang hết một gian. Cửa Võng được chạm lộng kết hợp
chạm nổi tinh xảo trên cả 7 lớp, 9 ô các đề tài tứ linh,
tứ quí.... Phía trên bức cửa Võng là bức trần gỗ che kín
mái gian giữa với hình trang trí là một con chim phượng xoè
rộng cánh tới các vầng vân mây quanh đó. Hoa văn trang trí
trên các cấu kiện kiến trúc khác rất đa dạng, chạm trổ
tinh vi, trau chuốt, hài hoà. Kết cấu bộ khung đình khá vững
chắc, gắn với nhau bằng các loại mộng theo lối chồng giường
Thượng
tam, hạ tứ. Mỗi bức chạm khắc ở đình là một tác
phẩm nổi tiếng độc nhất vô nhị. Càng chiêm ngưỡng, càng
thêm bị cuốn hút: Bức Bát mã quần phi thể hiện 8
vi vua triêu Ly, nói lên sự sống động, phóng khoáng và nét
thanh bình của mảnh đất nầy qua hình ảnh và tư thế của
từng chú ngựa. Bức Lưỡng nghê phục chầu, con đực,
con cái, mỗi con một vẻ. Những bức chạm rồng tuyệt xảo:
Long
vân đại hội, Ngũ long tranh châu, Lục long ngự thiên...từng
bức gợi tả một cảnh tuong. Suốt hơn 200 năm kể từ khi
khởi dựng, cho đến nay đình Đình Bảng đã đi vào đời
sống tình cảm và là niềm tự hào của người xứ Bắc cũng
như nhân dân cả nước. Với vẻ đẹp về quy mô kiến trúc,
nghệ thuật chạm khắc, nghệ thuật trang trí và cái quý giá
hơn là đình Đình Bảng hiến du khách một cái nhìn trọn
vẹn của kiến trúc đình làng được xây dựng vào nửa đầu
thế kỷ XVIII, trong khi các ngôi đình khác không còn giữ được
dáng vẻ nguyên vẹn nữa.

Nhiều nhà học giả tin trong kiến trúc ngôi đình
có một ý nghĩa tiềm tàng phong thủy dựa lên tin tưởng trong
dân gian.Thời xưa, thưở chưa có xe cộ, làm ăn hay đánh giặc
xa xăm có khi phải đi xa hàng năm, hàng tháng đi nhiều mà
về ít, có nghĩa là phải nhiều may mắn. Muốn đi lanh phải
dùng ngựa tương đối vừa chắc chắn, vừa tiện lơi nên
có bức tranh phô biên nhât la Mã đáo thành công. Bình
thường 8 con chạy về ý là 8 con đều cùng một chí hướng,
đó là ý nghĩa nguyên thủy của các tranh thời xưa. Đây cũng
là một bức tranh tâm lý cho chủ nhân của nó mạnh dạng
dồn hết nhiệt huyết, tiến về một hướng để đạt mục
đích. Ngày nay người vẽ ngay ra môt con quay đầu lại để
làm cho bức tranh thêm sống động. Con nây thường ở vị
trí giữa hay con đầu của 8 con (không khi nào con cuối đàn),
ý khuyến khích hay cổ vũ đồng đội tiến lên để đạt
mục đíchTrong phong thủy, Mã đáo thành công thường
chỉ dành tặng những người mới bắt đầu làm ăn buôn bán,
mới khai trương hoặc những người đang trên đường lập
công danh. Chú ý: người đã có quan chức hoặc đại gia rồi
thì không nên nhận tranh 8 ngựa vì nó sẽ có nghĩa ngược
lại, mã truy phong, đem phong ba tới. Những người này
phải dùng những vật khác trong phong thủy để bảo vệ và
làm vững, bền những gì họ đang có. Khi ngựa còn mạnh,
chạy lanh thì được gọi phi (phi trong gió, phi nước
đại có nghĩa chủ sở hữu ngựa có quyền lực, uy tín),
có 8 con ngựa vì số 8 theo Hán tự là bát cùng âm với
chữ phát trong phát đạt. Chu Mục Vương nôi tiếng với sử
sách nhờ sở hữu bức tranh Bát Tuấn, nhất là dưới
thời ông trị vì, đi vi hành khắp nơi trên cỗ xe ngựa đó,
cuộc sống của người dân trở nên thịnh vượng. Con số
8 cũng là một con số may mắn của người Trung Quốc, tượng
trưng cho sự giàu có và thành công. Bức tranh vẽ những con
ngựa phi nước đại, tràn đầy sinh lực, tinh thần tuyệt
vời sẽ truyền cảm hứng cho mọi người làm việc chăm chỉ
và theo đuổi mục tiêu của mình. Ngựa phi nước đại còn
gọi là lộc mã đem lại nguồn tài lộc, sự phát
đạt trong kinh doanh

Sau khi xây dựng xong, đình Đình Bảng chưa thờ
các vị thành hoàng ngay mà thờ hai cặp vợ chồng chết trong
tư thế lạ.Ngày ấy, khi đình làng chưa được xây dựng,
bên cạnh khoảng đất để xây đình có một ngôi miếu nhỏ
cạnh cây đa cổ thụ có hai cặp vợ chồng nọ sinh sống.
Không ai biết hai cặp vợ chồng này là người ở đâu đến,
chỉ biết họ sống trong ngôi miếu được một thời gian
khá lâu. Sáng sớm họ đã ra khỏi miếu, tối đến về miếu
ngủ. Ngày nào cũng như ngày nào, bỗng một hôm, họ không
ra khỏi miếu nữa. Thấy lạ, dân làng nhìn vào miếu bỗng
phát hiện hai cặp vợ chồng này chết trong tư thế chồng
nằm trên, vợ nằm dưới, bộ phận sinh dục của hai người
dính chặt nhau. Chưa bao giờ gặp phải cảnh này, dân làng
cho là điềm lạ liền lập miếu thờ làm thành hoàng làng.
Sau khi xây dựng đình, dân làng chuyển họ sang đình để
thờ. Bắt nguồn từ tích này, vào ngày 13 của ngày mở hội,
dân làng Đình Bảng cúng hai con lợn đã thịt nhưng chưa luộc
chín (một con cái, một con đực) đặt chồng lên nhau. Sau
khi cúng xong, số thịt này được chia đều cho dân làng theo
cấp bậc đã phân. Tuy nhiên khoảng 20 năm trở lại đây,
hai con lợn sống ấy được thay thế bằng hai cái đầu lợn
đã luộc chín. Sau khi tín ngưỡng thờ thành hoàng làng là
những người có công với làng phát triển, dân Đình Bảng
quay sang thờ những người có công.
Đó là bốn vị thần và lục tổ (6 người có công
khai phá, mở mang cho dân làng Đình Bảng). Theo truyền thuyết,
thần đất là người có công lớn đối với dân làng. Thuở
ấy, dân làng Đình Bảng luôn phải chống chọi với thú dữ
từ trong rừng ra, lại không biết trồng trọt chăn nuôi nên
cuộc sống vô cùng khốn khổ. Một hôm, có một vị lão nông
tóc bạc trắng, gương mặt hiền từ, phúc hậu đến dạy
cho dân làng cách khai phá đất đai để trồng trọt, chăn
nuôi... Từ đó, cuộc sống người dân dần ấm no, hạnh phúc.
Một thời gian sau, vị lão nông ấy liền đưa cho dân làng
một bức vẽ thần Lệ Thần và bảo dân làng lập miếu thờ
làm thần bảo hộ rồi cụ già biến mất. Biết là thần
hiển linh, dân làng liền lập miếu thờ thần với hiệu là
Bạch Lệ Đại Vương và mở hội vào ngày 12-15 tháng mười
hai âm lịch hàng năm để tưởng nhớ công lao. Có thể nói,
bốn ngày hội này không chỉ tổ chức lễ tạ ơn thần linh
mà còn là ngày để tổ chức lễ rước chạ để tưởng
nhớ công ơn dân làng Đồng Nguyên đã giúp đỡ, cứu mạng.

Xây dựng vài chục năm mới xong, đình làng Đình
Bảng được coi là " ngôi nhà chung " diễn ra các hoạt động
hội họp, lễ hội của dân làng. Phía trước là tòa tam quan,
phía sau là khoảng sân rộng, hai bên là hai dãy tả vu và hữu
vu. Cũng như những ngôi đình khác, tòa Bái Đường của đình
là nơi rộng rãi, to lớn, dùng làm nơi tổ chức các sinh hoạt
chung (dài 20 m, rộng 14 m có sức chứa hàng trăm người)..
Cũng trong những ngày diễn ra lễ hội, dân làng Đình Bảng
có dành riêng một ngày để đón chạ tới chung vui cùng.Tương
truyền cách đây mấy trăm năm, khi nhà Trần cướp ngôi nhà
Lý, con cháu nhà Lý phải chạy trốn khắp nơi để tránh diệt
vong. Ngày ấy, ở làng Đình Bảng cũng có 6 người trong 6
dòng họ : Nguyễn (Lý), Trần, Ngô, Đặng,
Đỗ, Lê là những người có mối quan hệ thân thiết
với nhà Lý phải chạy trốn khỏi làng. Những người này
chạy đến làng Đồng Nguyên thuộc phủ Thiên Đức nay là
một phường thuộc phía Đông Bắc của Từ Sơn, Bắc Ninh.Tại
đây, họ được người dân Đồng
Nguyên che chở, nuôi ăn uống. Khi quân nhà Trần đến
tìm 6 người nọ, không ai bảo ai, dân làng Đồng Nguyên đều
lắc đầu nói không biết, không có người lạ nào tới làng
hết. Nhờ sự che chở của người dân nơi này, họ đã thoát
được kiếp nạn. Ẩn náu một thời gian, khi nguy hiểm qua
đi, 6 người quay trở lại Đình
Bảng tiếp tục lập nghiệp. Cũng từ đây, mối thâm tình
giữa Đồng Nguyên và Đình Bảng được hình thành, hai làng
kết
chạ (kết nghĩa anh em) với nhau. Có ơn phải trả, sau lần
giúp đỡ ấy khoảng 200 năm thì người Đồng Nguyên xảy
ra hỏa hoạn, cánh đồng làng Đồng Nguyên bốc cháy ngùn
ngụt, dân làng lâm vào cảnh đói
khổ. Nhớ lại ơn xưa, người Đình Bảng lại kéo nhau
sang giúp đỡ người Đồng Nguyên.
Người mang cuốc, cày, trâu bò, người mang thóc, lúa sang cứu
trợ, giúp người dân Đồng Nguyên cày cấy vụ mới... Kể
từ đây, mối thâm tình giữa hai làng càng gắn bó keo sơn.
Mỗi khi hai làng tổ chức lễ hội lại mời nhau sang dự.
Vì coi nhau là anh em ruột thịt, hai làng hình thành tập tục
không cho trai gái hai làng cưới nhau. Bốn ngày lễ hội trong
đó dành riêng một ngày để đón chạ cho thấy tình
anh em gắn bó keo sơn. Bên cạnh đó, tập tục kết chạ này
cho thấy từ xa xưa, người Kinh Bắc vô cùng hiếu khách, đây
là nét đẹp có tự ngàn đời của người Việt Nam bởi tập
tục này có ở hầu khắp các nơi.
Thành
Xô mùa xuân 2019
|
3 4
|
Đọc thêm
- Hồng MâySự
thật về những giai thoại ly kỳ đình Đình Bảng,
nguoi
dua tin 27.012.2012
- Que Anh, La maison communale de Dinh Bang, la magnifique,
Le
Courrier du Viet Nam 08.04.2013
- Bao Bac Ninh, Đình
Đình Bảng, Một công trình kiến trúc tuyệt mỹ batdongsan.com.vn
17.06.2014
-Valérie Zuccha, Dinh Bang,
Les secrets de la culture villageoise au Viet Nam, Indochine
en frofondeur 20.04.2017
|