Ðàn
tranh lệ đúc nghìn xưa
Tay ai khơi mạch
bây giờ lệ tuôn.
Trụ Vũ
|
|
|
|
Phương
Oanh
|
Ngọc
Dung
|
Vân
Anh
|
Nguyệt
Ánh
|
Định
cư trên đất Pháp hơn một nửa thế kỷ, lần đầu tiên
tôi cảm thấy gần đất nước hơn bao giờ hết: đấy là
hôm dự lễ hành trình 40 năm Phượng ca của giáo sư nhạc
sĩ Phương Oanh ở Nhạc viện Antony hôm 17.02.2009, với đủ
mặt cánh phượng các trường Antony, Orsay, Lognes, Sevran, Taverny,
Paris, Giáo Xứ, Bruxelles, Oslo,...(Phương Oanh, Ngọc Dung, Vân
Anh, Nguyệt Ánh,...) Trên sân khấu, mấy chục cây đàn tranh
đồng loạt hòa tấu trong tay những nữ công lộng lẫy khăn
áo vàng tôn nữ đưa khán giả về lại đất nước mền yêu
sau nhiều năm xa cách. Cùng với tiếng đàn tranh thánh thót,
tiếng đàn bầu não nùng, tiếng đàn nhị réo rắt, tiếng
đàn đáy tế nhị, tiếng đàn nguyệt trầm lắng,...những
cây đàn Việt Nam nhắc nhở một nền văn hóa bền vững mấy
ngàn năm văn hiến. Trong các nhạc khí, có lẽ các loại đàn
dây nhẹ nhàng hợp nhất với thị hiểu của người Việt.
Có nhiều thứ đàn dây. Cây đàn quen thuộc, ở đâu cũng
thấy mặt, có thể từ thế kỷ XI, là cây đàn kìm hay đàn
nguyệt, gọi như vậy vì hộp vang âm có hình mặt trăng.
Hai dây đàn làm bằng lụa có thể so theo nhiều cách khác
nhau, thường theo quãng bốn, chỉ nghe theo tai, nhiều khi trong
lúc đàn."Trong tác phẩm Đoạn trường tân thanh của Nguyễn
Du, Thúy-Kiều không chỉ là một trang giai nhân quốc sắc,
với tấm nhan sắc tươi thắm, kiều mị, đến nỗi hoa phải
ghen, liễu phải hờn, mà nàng còn là một con người thông
minh, tài hoa với một ngón đàn tuyệt diệu nghề riêng
ăn đứt hồ cầm một trương". Một loại đàn tương tự
đàn nguyệt nhưng cần đàn ngắn hơn, giọng đàn từ đấy
cũng gọn hơn là đàn đoản. Đàn bầu là cây
đàn đặc biệt Việt Nam chỉ có môt dây, nghệ sĩ tay mặt
dùng que tre đánh đàn, tay trái thao tác âm thanh qua một ống
tre nối liền với hộp đàn. Trước khi trở thành chiếc đàn
quý phái ngày nay, trong rất lâu nó là dụng cụ ăn làm của
người nghèo. Hình ảnh ông cụ mù xách đàn hát dạo, có
đứa trẻ dần đường nay còn lẩn vẩn trong đầu óc nhiều
người. Sách xưa đánh dấu đàn bầu từ năm 1770. Cũng còn
có những loại đàn dây khác, ít thông dụng hơn. Đàn đáy
không biết xuất hiện năm nào nhưng những điêu khắc ở
đình Lỗ Hạnh, đình Hoàng Xá, đền Tam Lang (thế kỷ XVI-XVIII)
cho đàn phổ biến vào thời nhà Mạc. Có tên gốc lúc đầu
là đàn không đáy "vô đề cầm" vì không có đáy "hậu đàn",
đàn cũng có thể lấy gốc từ chữ dây đeo (chữ Hán
là đái) nên đàn đái đọc chệnh ra thành đàn
đáy. Đàn đáy và trống con thường được dùng để đệm
ca trù. Một loại đàn tuy dễ chơi ít được dùng, hộp đàn
hình trái lê cắt theo chiều dài, đầu chạm hình dơi, mười
phíếm, phiếm cuối cùng chỉ ngắn bằng nửa những phiếm
khác. Mang tên tỳ bà phiên âm chữ pipa, đàn gảy
với một ngón tay mặt hay một miếng sừng thú, nhập vào
nước ta khoảng thời Trần, Nói chung nhiều đàn có nguyên
quán Á châu, nhập cảng Việt Nam qua trung gian Trung Quốc, nhưng
sau một thời gian được Việt hóa thành một dụng cụ đặc
sắc. Tỳ bà nghe dạo canh khuya, Dường
như tiên nhạc gần kề bên tai.
Tỳ Bà Hành miêu
tả tâm trạng quan Tư Mã Giang Châu họ Bạch trong đêm nghe
người ca nữ đã luống tuổi ở bến Tầm Dương, đánh đàn
tỳ bà và kể chuyện đời chìm nổi của mình.
40
năm Phượng Ca 2009
Một trong những
chiếc đàn tiêu biểu đất Việt là đàn tranh, phát
xuất từ đàn cổ tranh Guzheng còn gọi đàn thập
lục 16 dây. Hộp cộng hưởng làm bằng gỗ, chính xác
là gỗ cây phượng, từ 13 dây triều đại nhà Đường tăng
từ 12, 13, 18, 23, đến 25 dây. Dần dần để âm phát tốt
hơn, thân gỗ và số lượng dây được thay đổi. Tôi có
thẩy trong tay cố Gs Trần Văn Khê một cây đàn thân ngô đồng
16 dây, âm phát ấm hơn. Tương trryền một ông cụ gặp khó
khăn khi chia đàn cho hai đứa con, lấy búa chặt đàn theo chiều
dọc : một nửa cây 13 dây còn thấy ở miền bắc Trung Quốc
và Nhật Bản, nửa kia 12 dây ở Mông Cổ và Hàn Quốc. Một
thuyết khác cho ông Mộng Điệp sáng chế ra thế kỷ III trước
Công nguyên một cây đàn bằng gỗ ngô dồng, giống cây đàn
Việt Nam nhưng to hơn, dài 1,5m, 13 dây theo truyền thống Bắc
Kinh, 16 dây theo truyền thụ lối Quảng Đông. Ở Đài Loan,
phương pháp làm đàn được kỹ nghệ hóa, tăng lượng mà
giảm phẩm, đàn sơn trên bất cứ gồ gì, kể cả ván ép,
dây cước (dây đồng) hay dây thép, lẽ tẩt nhiên yếu về
âm thanh. Qua các thế kỷ VII, VIII, người Việt bản địa
hóa theo phong cách đặc thù trong thủ pháp ; ngón đàn, tay
nhấn nhá, trong thang âm điệu thức, biến nó thành một loại
nhạc mang tính dân tộc, phù hợp với quan điểm thẩm mỹ
của người nước ta, và nói chung ngôn ngữ âm nhạc Việt.
Được thế, một phần cũng nhờ cấu tạo cây đàn. Hình
hộp dài 110-120cm, đàn tranh có khung hình thang, đầu lớn 12-30cm
có lỗ và con chắn để mắc dây, đầu nhỏ 15-20cm gắn khóa
lên dây. Giá đàn làm bằng gỗ tùng trắng, thành
đàn, đáy đàn, thùng đàn bằng gỗ lim đỏ, gỗ lim già,
gỗ lim vàng hoặc tử đàn. Mặt đàn và đáy đàn cũng ảnh
hưởng nhiều lên âm thanh nên phái chọn gỗ tốt. Ngựa
đàn, còn gọi con nhạn, nằm ở khoảng giữa để
gác dây và có thể di chuyển để điều chỉnh âm thanh. Nghệ
nhân mang ba móng gảy bằng kim loại hay sừng vào ba ngón cai,
chỉ và giữa tay mặt. Âm sắc đàn tranh trong trẻo, tinh khiết,
không có tạp âm, không có tiếng ồn, thích hợp với các
điệu nhạc vui tươi, duyên dáng, đáp ứng những tính năng
trầm hùng, khỏe mạnh. Âm sắc đàn tranh đồng thời cũng
thánh thót như nước chảy mây trôi. Nghệ nhân có thể dùng
tiếng đàn để khơi dậy những dòng cảm xúc trong lòng người
nghe. "Âm đàn trầm lắng uyển chuyển như mưa bụi trên lá
chuối, lặng im thì nghe văn vẳn bên ai, khiến người nghe
từ từ chìm đắm trong giai điệu tiếng đàn, khi thì ưu tư
trầm mặc, lúc lại đầy cảm xúc bi thương". Không phải
tình cờ mà Bạch Cư Dị viết Đàn tranh trong đêm, Tô
Thức soạn thảo Đàn tranh ở chùa Cam Lộ. Nghe đàn
tranh không chỉ là thưởng thức nghệ thuật mà còn là một
cách cảm nhận tài năng, cảm xúc và những dòng tâm tư được
người chơi gởi gắm qua tiếng nhạc nữa.
Dây hồng
áo tía ánh trăng soi
Mình đàn mình
hiểu bóng lẻ loi
Dây dừng ngón
lặng âm thanh dứt
Vạn trùng ly
biệt chẳng nên lời
Dạ tranh (Bản dịch
Lê Nam Phong)
Trần
Văn Khê (1921-2015)
Nsưt Hải Phượng,
ái nữ Ngưt Thúy Hoan, sau những chuyến xuất dương qua Pháp
(1993), qua Úc (2005), được mời sang Mỹ ba lần, một lần
cùng nsưt Trần Vương Thạch, biểu diễn ở trường Đại
học Denton miền bắc bang Texas một lần trong chương trình
"Việt Nam sắc hương xưa" tại Hý viện Shorecrest. Từ hồi
5 tuổi cô đă học đàn vởi mẹ. Lớn lên, cô vào học ở
nhạc viện, đại học rồi cao học (2003), nghĩa là suốt tuổi
thơ và thời niên thiếu đời cô gắn liền với cây đàn
tranh. "Quan trọng nhất đối vởi cô là luôn còn sống được
với nghề, luôn còn có những khán giả lắng nghe thực sự
chân thành. Chỉ cần một khán giả còn lắng nghe là mình
còn duy trì được nhiệt huyết đam mê ". Cô bộc bạch
tâm sự chơi nhạc ở nhà hàng cũng quan trọng không kém gì
biểu diễn ở nhà hát vì ở đây khán giả còn ở lại bắt
tay, chia sẻ cảm xúc với nghệ sĩ, từ đó cảm nhận rất
gần tình cảm của họ, việc đánh giá quân bình các hoạt
động nghệ thuật, tôn trọng những điều chuẩn mực mà
không bị ràng buộc vào sự cứng nhắc quy tắc. Luôn tìm
được sự tích cực trong quan hệ công việc, phải chăng đó
là những phẩm chất của Hải Phượng? Cô cũng nói chuyện
say mê về gia đình của mình. Cô cảm động đọc những bài
thơ bố cô làm tặng mẹ cô "Mười sáu dây tình lên tiếng
khóc, Dập dìu ánh nhạc tóc tơ bay". Trong ngôi nhà nhỏ
cạnh chùa Pháp vân, cô cháu gái xinh xắn cũng cầm đàn (đồ
chơi) im lặng nghe cô giáo, dấu hiệu "con nhà tông": mẹ một
cây đàn thì con cũng phải có một cây đàn.
Có
những buổi tối, bố, mẹ và con với bà ngoại ngồi trò
chuyện về âm nhạc, về bảo tàng, về văn hóa nghệ thuật,
về những bài thơ của người đã đi xa. Không gian đó làm
cô cảm thấy hạnh phúc vô cùng và càng thêm trân trọng những
điều mình đang có. Tình yêu đến với cô từ... sở thích
truyện trinh thám. "Tụi mình gặp nhau tại Liên hoan Thanh
niên tiên tiến Đông Nam bộ lần thứ nhất. Lúc đó anh ấy
là công an, mình và Quỳnh Hoa, Từ Hoàng Thông đề nghị anh
kể chuyện săn bắt cướp". Hỏi cô trong một cuộc phỏng
vấn về một kỷ niệm thật đặc biệt trong những chuyến
lưu diễn, cô cười và ánh mắt còn bộc lộ niềm xúc động:
"Ðó là lần mình biểu diễn ở Paris với thầy Trần Văn
Khê năm 2003, khi biểu diễn xong, có một bác khán giả, cũng
là một nghệ sĩ chơi đàn tranh và là bạn của thầy, đến
nói chuyện, giọng Nam bộ rặt. Bác nói: Ở đây mà có mấy
cây quạt thì tui đã thảy lên cho cổ rồi. Câu nói đó làm
Phượng thực sự xúc động. Khi mình ra về, gia đình bác
ấy cứ đứng nhìn theo mãi. Ánh mắt của họ làm mình thêm
vững tin vào con đường đã chọn. Mình sẽ vẫn luôn có những
khán giả như thế nếu luôn nỗ lực, tự nghiêm khắc với
chính mình". Tôi gặp Hải Phượng ở Paris hồi cô được
thầy Trần Văn Khê hướng dẫn. Nhìn lại mấy chiêc ảnh
năm xưa tôi bùi ngùi thấy ngày tháng quá mau qua, nay kẻ ở
người mất. Cô còn hương sắc trẻ trung một phụ nữ Việt
Nam duyên dáng (gái một con trông mòn con mắt) nhưng những
nét già dặn che mất vẻ ngây thơ một thời đôi mươi má
hồng môi thắm! Chỉ thiếu chăng làn khói lam chiều gợi thương
nhớ mông lung, mái tóc đen dài xỏa bay trong gió nhắc nhở
chiếc xuồng ba lá lướt sóng kênh lạch Cửu Long lúc chiều
tà.
Về phương
Nam lắng nghe cung đàn
Thổn thức vọng
dưới trăng mơ màng
Rồi theo sông
Cửu Long nhớ nhung dâng tràn.
Chợt thương
con sáo bay xa bầy
Sương khói buồn
ở lại lòng ta
Vũ Đức Sao Biển (Điệu Buồn Phương Nam)
Hải
Phượng 2015
Sau nhiều lần biểu
diễn ở trung tâm nghệ thuật Kennedy Center tại Wahington DC
sau nhiều thời gian mời mọc, kiểm soát vất vả, nghệ sĩ
Vân Ânh Vannessa Võ được mời trình bày vào hôm 11 và 12 tháng
3 nhạc đàn tranh ở Tòa Bạch Ốc Cô sinh ra năn 1975 và sống
lên tại Hà Nội nên chỉ có tiếng vang xa xăm về cuộc chiến,
sau nầy qua định cư ở Mỹ mới được nghe những câu chuyện
bạn bè chia sẻ là họ đã phải đau khổ như thế nào, trả
giá gì để ra khỏi được Việt Nam. Qua Mỹ, tiếp xúc với
đồng bào, cô mới nhân định được ảnh hưởng của sự
đau khổ và sức hủy diệt của cuộc chiến tranh tới cuộc
sống con người. Rồi sau đó những lần lưu diễn ở Mỹ,
có những người cựu chiến binh Mỹ đã đến cảm ơn và
nói chuyện về một cái nhìn toàn diện là cuộc chiến tranh
khi xảy ra không để lại cho ai một cái gì vui tươi sung sướng..
Bên chiến thắng đạt được hạnh phúc nhưng cũng chịu đựng
đau khổ, bên nào cũng có sự mất mát của nó. Sự hủy diệt
của chiến tranh thật là quá lớn. Thậm chí nó còn tạo ra
điều, đối với cô là kinh hoàng nhất, là sự căm ghét giữa
con người với nhau. Cái ghét đó trở thành sự hận thù trong
con người ta, nó không chỉ dừng lại sau khi cuộc chiến kết
thúc mà còn tiếp tục đi đến thế hệ trẻ hơn, con cái
của những gia đình đã phải trả giá chiến tranh. Chính vì
thế mà cô cũng vui vì điều cuối cùng cô muốn chia sẻ là
sức mạnh của con người, niềm hy vọng này không chỉ dừng
lại trong cộng đồng Việt mà còn lan ra những cộng đồng
khác, Chúng ta hãy đứng lên và tiếp tục đi và tìm được
sức mạnh để biến mình trở thành người mạnh mẽ hơn.
Ns Vân Ánh độc tấu đàn tranh nhạc phẩm Sakura (Hoa anh đào)
do nhà giáo Bích Vượng chuyển soạn tại tư gia gs Trần Văn
Khê đêm giới thiệu 31.10.2010. Không phải là những sợi dây
đàn koto dày bản như thường lệ mà người Nhật hay trình
tấu, chỉ với tiếng đàn Việt mang âm sắc thanh, mỏng, cao
vút, người nghệ sĩ cũng có thể đem lại không khí Phù Tang
với những cánh hoa chuyển soạn tại tư gia. Giải Grammy của
Mỹ được biết đến là giải thưởng danh giá nhất trong
ngành công nghiệp thu âm.Vào tháng 9 năm 2014, cô được mời
trở thành thành viên của hội đồng vòng loại giải Grammy
bao gồm 15 nghệ sĩ có chuyên môn về lĩnh vực âm nhạc thế
giới và đã hoạt động trong lĩnh vực này nhiều năm. "The
Odyssey From Vietnam to America chủ yếu ca ngợi tinh thần sức
mạnh của con người nhưng niềm cảm hứng là câu chuyện
từ chuyến vượt biển của những người Việt Nam, làm sao
họ có thể tìm được sức mạnh để vượt qua khó khăn,
cô nghĩ là khó nhất trong cuộc đời người ta". Cô
nghĩ âm nhạc truyền thống Việt Nam do cô đem tới cho những
khán giả ở Mỹ có thể phần nào hàn gắn vết thương mà
người thân của những binh sĩ Mỹ tử trận trong cuộc chiến
đã phải chịu đựng. Cùng lúc,với số tiền 40.000 đôla
được tổ chức Asian American for Community Involvements trao tặng,
ns Vân Ánh cho biết dự án From Vietnam to America, một tác phẩm
được viết để ca ngợi sức mạnh tinh thần của người
Việt, được trình diễn vào cuối năm 2015 ở San Francisco.
Thật ra 20 năm trước, cô đã đoạt
giải Nhất cuộc thi Tài năng trẻ đàn tranh toàn quốc và
giải nhất độc tấu nhạc dân tộc hiện đại - tiền đề
cho sự phát triển dòng nhạc world music mà cô đang theo
đuổi. Năm 2003, cô sáng tác âm nhạc cho bộ phim được đề
cử giải Oscar Daughter From Danang, năm 2009 cô đoạt giải
Emmy Awards với soundtrack phim Bolinao 52 và gần đây nhất,
bộ phim tài liệu A Village Called Versailles với phần âm
nhạc do cô đồng sáng tác đã đoạt giải thưởng Khán giả
trong Liên hoan phim New Orleans. Năm 2013, CD Three Moutain Pass
của cô đạt Top 10 những CD hay nhất thể loại world music
tại Hoa Kỳ và Top 50 những CD hay nhất của tất cả các thể
loại âm nhạc tại Mỹ. Cô đã sáng tác rất nhiều tác phẩm
mang âm hưởng hiện đại trên những cây đàn truyền thống
từ đó cô được coi là người thổi một sức sống hiện
đại mới với những nhạc cụ dân tộc. Ý cô là chơi nhạc
nhưng cũng không chơi nhạc pop hay giao hưởng mà cô chọn
nhạc dân tộc. Người phương Tây gọi đó là nhạc cổ điển
truyền thống.
Vân
Ánh 2017
Phụ lục
Trận
tiền
Tôi mơ
hồ nhớ một tiếng kêu
Từ giàn hoa
lý khoảng ngang đầu
Từ phía sông
Tiền sang sông Hậu
Từ điệu đàn
tranh đến khúc đàn bầu
Từ buổi Huyền
Trân xa đất Mẹ
Sang Chiêm Thành
với nỗi ngậm ngùi riêng
Lòng tôi đâu
ở cùng hai Châu Ô và Rí
Mà hiểu được
Huyền Trân giữa trận tiền
Giang Hữu Tuyên
Vườn Xô những
ngày nắng mới 2018
|
 |
Đọc thêm
-Võ Quang Yến, Hành trình 40 năm Phượng
Ca, Chim Việt Cành Nam, 24.08.2008
- Võ Quang Yến, Từ Schumann qua Pbượng Ca,
Diễn
Đàn 28.11.2011
-Đỗ Văn,
Tiếng
đàn tranh Hải Phượng, Báo ảnh Việt Nam, 16.01.2015
-Thanh Hiệp, Tiếng đàn tranh làm vỡ òa cảm xúc kiều bào
ở Seattle – Mỹ, Báo Mới, 20.03.2017
-Huỳnh Ngọc Chênh, Dập dìu ánh nhạc tóc
tơ bay, Báo Thanh Niên, 02.11.2005
-Ngọc Minh, Nghệ sĩ đàn tranh, Dù ở
đâu cũng tạo ra sụ khác biệt, Thể
thao văn hóa. 22.09.2014
-Hồng Hoa, Nghệ sĩ
đàn tranh Võ Vân Ánh viết tác phẩm ca ngợi sức mạnh tinh
thần người Việt, VOA tiếng Việt 31.12.2014
-Pi Uy, Nghệ sĩ đàn tranh Vân Ánh về Việt
Nam lập quỹ âm nhạc, Dân Trí, 01.04.2013
Chim Việt Cành Nam 72 15.10.2018
|