Trong
rất lâu, dưới thời Pháp thuộc, trừ những người hâm mộ
văn hóa Huế - Phú Xuân, các nhà khảo cứu về Đông Dương
hồi ấy thường chỉ biết có văn hóa Cham Pa, và vì thiếu
kiến thức, cho nghệ thuật Việt Nam chỉ là một sản phẩm
phụ của văn minh Trung Quốc. Tôi đã được nghe nói như vậy
trong một bài diễn thuyết ở thính đường viện Bảo tàng
Guimet một hôm vào đầu thập niên 50. Rủi là vào lúc các
nhà khảo cổ muốn đi sâu vào văn hóa Cham Pa thì khu Angkor
được phát hiện, theo Trường Viễn
Đông Pháp hướng dẫn, họ không tiếp tục khai quật
nữa và rời Cham Pa qua Cao Mên. Tuy vậy, các nhà chức trách
Pháp cũng bỏ công thu lượm các cổ vật đưa vào các viện
bảo tàng Việt Nam như Sài Gòn, Hà Nội, Huế và nhất là
Đà Nẵng. Họ cũng không quên đưa về Pháp một số hiện
vật. Lịch sử chạm trổ Cham Pa kéo dài gần mười thế kỷ
và đã bị nghệ thuật Ấn Độ xưa ảnh hưởng mạnh. Nhưng
thiên tài của người Chăm dần dần đã giúp họ sáng tác
một văn phong đặc sắc nhiều mặt, biến chuyển qua thời
gian và không gian, đưa đến một di sản độc đáo mà những
nhà khảo cổ viện Guimet đã ý thức. Từ đó một cuộc triển
lãm "Kho tàng nghệ thuật Việt Nam : điêu khắc Cham Pa" đã
được tổ chức ở viện cuối năm 2005 với một số cổ
vật mượn ở các viện Bảo tàng Việt Nam (Đà Nẵng, Tp Hồ
Chí Minh), Lyon (Pháp), Rietberg (Thụy Sĩ), tập hợp với những
hiện vật của viện mà ta thấy ngày nay ở phòng Cham Pa.
Khi khách bước vào phòng, đập vào mắt tức
khắc là hình tượng thần Shiva đồ sộ kê ngay giữa phòng.
Một tượng bằng sa thạch (154x105x56cm), trình bày người ngồi,
hai chân xếp lại theo lối sattvaparyankasana, lưng dựa
vào một tấm bia. Có mười tay nhưng phần lớn bị gảy, hai
tay trước đặt lên đầu gối, những tay kia xòe ra trên tấm
bia. Shiva mặc một cái sampot trang trí với những cành
lá và những hột ngọc khéo chạm trổ như một tấm thêu,
vạc trước phủ lên chân. Trên đầu một cái búi tóc người
tu khổ hạnh quấn tròn jatamukuta mang ở giữa một hình
trăng khuyết thường là phù hiệu của Shiva. Trên vầng trán
một con mắt thứ ba. Vắt chéo ngang trên ngực là một con
rắn naga-yajnopavita thay thế chiếc dây thầy cả brahman.
Không rõ ràng nhưng có thể cũng là hình đầu một con rắn
trên bông tai. Hình hoa trang trí các băng tay keyura, angada,
vòng tay kankara, hình lá bốn cạnh trang hoàng thắt lưng
undarabandha.
Lịch sự và thanh nhã nhất là cái vòng kiềng
hara và
cái vành tròn kirita có những hàng ngọc nhiều cở khác
nhau tô điểm. Đáng tiếc là
pho tượng nầy không nguyên vẹn, chỉ được xác định nhờ
một dấu hiệu độc nhất. Những chuyên gia sắp tượng nầy
vào nhóm các hiện vật phong cách Chánh Lộ, rất gần với
tượng Shiva Tháp Mẫm. Chính Eugène Navelle, công sứ ở Quy
Nhơn, năm 1885 đã để ý đến ở tháp Bánh Ít và cho đem
về viện Bảo tàng Louvre, rút cuộc được trưng bày trong
viện Bảo tàng Đông Dương ở Trocadéro trước khi chuyển
qua Viện Bảo tàng Guimet (tượng 1). Còn có một pho tượng
cũng bằng sa thạch hình dung Shiva ngồi, khá bị xói mòn, ba
vạc trước sampot phủ xuống đùi và chân, tay mặt cầm
kiếm khadga, tay trái cầm một cán có lẽ cái đinh
ba trisula. Đầu
đội mũ
jata,
lông mày hình dấu ngoặc, râu mép rậm quặp xuống, râu cằm
cắt nhọn đúng theo phong cách Yang Mum, bông tai và vòng có
hoa trang trí rất lịch sự. Mang một dây thầy cả hình con
rắn, cũng có một con mắt thứ ba, tượng tìm ra ở Kontum,
tương tự tuợng Drang Lai (Phú Yên) có đánh dấu 1409, được
sắp vào phong cách Yang Mum, các thế kỷ 14-15, vào lúc Cham
Pa đang còn hùng mạnh (tượng 2).
|
|
tượng 1
:
Shiva Bánh Ít
|
tượng 2
: Shiva Kontum
|
Một pho tượng khác nhỏ hơn (58x39x22cm) nhưng
cũng không kém phần hấp dẫn, đối diện với tượng Shiva,
hình dung cặp Vishnu-Garuda : thần Vishnu cởi trên cổ Garuda,
chim thần có hai mắt mở tròn, miệng như mỉm cười, hai cánh
xoè rộng, một chân quỳ xuống, hai tay nắm hai chân của Vishnu.
Thần mặc một cái quần dài xuống tận đầu gối, đầu
đội một cái mũ lễ tám cạnh, trên vầng trán một vòng
hoa. Hai tai có chọc lỗ như để đeo bông tai không còn nữa,
cũng như thân trần trụi vì thiếu vòng kiềng, vòng tay, thắt
lưng. Trong số bốn tay, chỉ còn hai cái : tay trái sau nắm
cái vỏ sò sankha, tay mặt trước một quả đất bhumi.
Hai tay kia theo nguyên tắc phải nắm tay mặt sau cái dĩa cakra
và tay trái trước cái chùy gada nay đã mất, chỉ còn
thấy phần dưới dọc theo chân trái. Bằng sa thạch, pho tượng
nầy được tạc khoảng đầu thế kỷ IX, màu sắc được
thêm sau, vào thế kỷ XX. Các chuyên gia nghĩ tượng nầy thuộc
phong cách Mỹ Sơn E1, có thể nhận thấy sau nầy trong phong
cách Đồng Sơn cuối thế kỷ IX, đầu thế kỷ X. Pho tượng
đã được tìm ra trong dãy Ngũ Hành Sơn, tỉnh Quảng Nam (tượng
3). Cặp Vishnu-Garuda nầy còn còn được trình bày trong
một trán tường (69x69x18cm), bằng sa thạch, bị gảy nhiều,
bố cục tương tự như trong pho tượng kia tuy có phần phong
phú hơn, những lông trong cánh mặt thần điểu được thực
hiện rất tinh tế. Trong số bốn tay của Vishnu chỉ còn hai
tay nắm quả đất bhumi và dĩa cakra.
Đồ trang trí khá bị xói mòn gồm có vòng chân nupura,
vòng tay kankana, valaya, băng tay keyura, vòng kiềng
hara,
bông
tai kundala, vành tròn kirita. Garuda được trang trí
sang trọng, hai tay nắm cái đuôi con rắn naga
mà ta có
thể đoán đầu vươn lên đằng sau. Mặt Vishnu với đôi môi
dày, râu mép sít, lông mày rậm, tóc đổ xuống thái dương,
còn giữ những đặc tính của phong cách Bình Dương. Những
chuyên gia sắp tượng nầy, tìm ra ở Qui Nhơn, vào phong cách
Khương Mỹ, nằm vào giữa hai phong cách Đồng Dương sum sê
và Trà Kiệu diễn cảm (tượng 4).
|
|
tượng 3
:
Vishnu-Garuda
Ngũ Hành Sơn
|
tượng 4
: Vishnu-Garuda
Qui Nhơn
|
Đức Quan Âm có mặt
ở phòng Cham Pa qua dạng thức Avalokitesvara hay Lokesvara.
Pho tượng Avalokitesvara là một cái đầu bằng đồng đen (23x18x18cm),
mũi rắn rỏi, đôi môi dày, giữa trán một con mắt thứ ba,
vòng trán trang trí với những hình hoa, trên đầu búi tóc
người tu khổ hạnh quấn tròn jatamukuta.
Đôi lông mày dài, rộng, gần nối liền với nhau ở
giữa trán biểu lộ đặc tính Chăm. Giữa những bím tóc có
hình tượng đức A Di Đà thiền
định tương tự như ở tượng Đại
Hữu (viện Bảo tàng Tp Hồ Chí Minh). Nhiều vết đục
máng lưu lại ở mái tóc trình bày những chi tiết chứng minh
người Chăm sử dụng kỹ thuật dùng sáp nóng chảy (cire perdue)
gần giống kỹ thuật sáng tác tượng Tara Đồng Dương. Pho
tượng kiệt tác của nghệ thuật Cham Pa nầy, niên đại các
thế kỷ VIII-IX, được Georges Halphen phát hiện và đưa về
Pháp. Vào lúc ảnh hưởng Phật giáo rất mạnh lên nghệ thuật
ở Đông Nam Á ở thời kỳ ấy, công lao của ông là xác định
được phong cách của hiện vật (tượng 5). Bên phần
pho tượng Lokesvara bằng sa thạch (60x17x10cm) được xác định
nhờ hình tượng đức A Di Đà
trong búi tóc jatamukuta. Những lỗ hổng ở tai cho đoán
biết có đồ trang sức nay đã mất cũng như ở trên mình.
Pho tượng nầy được Cha H.de Pïrey tìm ra nhân khái quật
ở Mỹ Đức (Quảng Bình) những năm 1921-1922, cùng với một
pho khác giống hệt một thời được trưng bày ở viện Bảo
tàng Đà Nẵng cho đến lúc bị mất cái đầu. Nét mặt dịu
hiền của nhân vật cho phép sắp tượng vào môt thời kỳ
chuyển tiếp giữa hai phong cách Đồng Dương và Khương Mỹ.
Vào thời ấy, ngoài chùa Đồng Dương thờ Laksmindra-Lokesvara,
một loạt nhiều chùa khác đã được xây dựng ở miền bắc
Cham Pa (Quảng Bình hiện nay) : Mỹ Đức,
Đại Hữu (tượng 6).
|
|
tượng 5
: Avalokitesvara
|
tượng 6
: Lokesvara
|
Bên cạnh Shiva, Vishnu, Avalokitesvara, Lokesvara,
còn có nhiều nhân vật ít được biết hơn. Một cái đầu
bằng sa thạch (68x41x46cm) chưa chạm xong, được cho là tượng
đức Vairocana : đôi môi dày, râu mép rộng, cằm chẻ đôi,
đôi má lồi, bộ mặt tươi cười và trẻ trung cho thoát ra
một trạng thái trọn vẹn, nhân từ. Đôi mắt khép kín như
để ngài tách lìa chốn trần thế khuấy động.
Đứng về mặt mỹ học, chỉ có phần trên đầu
theo phong cách Đồng Dương có thể xem như là xong : mớ
tóc điệu hóa thành những ngọn lửa xoay tròn phải chăng
là một trong những đặc tính của đức
Phật ? Được Henri Parmentier và Charles Carpeaux để
ý lúc khai quật ở Đồng Dương năm 1902, tượng đem
về Sài Gòn trước khi Philippe Stern cho chuyển qua Pháp. Tại
chỗ, khảo sát những phần cơ thể bị gảy, những chuyên
gia nhận ra ấn quyết bodhyagrimudra hay bodhyangimudra
đặc trưng của Vairocana, một trong ba kỳ na (jina, thắng)
của bộ ba Phật Sakyamuni, Amitabha, Vairocana, hay một trong năm
kỳ na gia đình năm họ Thắng Tây Tạng, chiếm năm hướng
của mandala, Vairocana ngồi ở giữa (tượng 7).
Một trán tường bằng sa thạch (56x43x19cm) trình bày một người
ngồi, có bộ râu dài, hai chân xếp lại, hai tay chắp với
nhau, trông như một người tu khổ hạnh thờ Shiva rsi
trong nghệ thuật Khơ me, nhưng y phục tươm tất với vạt
trước đắp lên chân, những bông tai, vòng tay, băng tay, một
mũ lễ có những hàng ngọc trang trí biện minh cho một thánh
nhân Chăm nào đó. Hơn nữa, nơi tìm ra được, Thủ Thiên
(Bình Định), là một vùng Phật giáo thì khó lòng có mặt
Shiva. Tấm bảng trong phòng thận trọng đề : Người tôn thờ
bà la môn, phong cách nối tiếp Tháp Mẫm, thế kỷ XIII-XIV
(tượng 8).
|
|
tượng 7
: Vairocana
|
tượng 8
:
Người
tôn thờ bà la môn
|
Một nhân vật quen thuộc hơn tuy mỗi nơi một
khác : vị hộ pháp dvarapala (67x30x38cm)
ở Đồng Dương. Thần nầy thuộc phương bắc,
có vẻ dữ tợn hơn những thần miền nam : mặt bừng bừng
sát khí, má phồng trướng phẫn nộ, đôi mắt lồi trừng
trừng, đầu nghiêng một bên như con thú sẵn sàng xông vào
mồi. Tuy vậy, đầu có nhiều trang trí, ở trên mũ kirita
có
kết một cái hoa, ở dưới ba hàng tóc tết phủ toàn gáy.
Đáng để ý là con mắt thứ ba trên vầng trán ít thấy ở
sáu pho tượng tìm ra cùng nơi : ba hiện ở viện Bảo tàng
Đà Nẵng, một trong một bộ sưu tầm tư nhân bên Mỹ, hai
còn chôn dưới đất cho đến ngày một tượng được đào
ra và chở về viện Bảo tàng Guimet (tượng 9). Trái
với vị hộ pháp, pho tượng sa thạch (45x21x25cm), tìm ra ở
Đa Nghi (Quảng Trị), trình bày một vị thần hạng thứ được
gắn vào tầng trên tháp, mặt mày hiền dịu, mắt hình quả
hạnh, lông mày tinh vi, đôi môi khá dày kín đáo mĩm cười,
cùng với đồ trang trí, bông tai nhiều vòng, mũ miện đầy
hoa, chứng nhận phong cách Trà Kiệu. Tay nắm một hoa sen chớm
nở với những cánh hoa gấp xuống dưới che mất hai bàn tay
chắp lên ngang ngực, tượng cho thoát ra một cử chỉ kính
cẩn của người đang cầu nguyện mà bảng ghi tên Devata (tượng
10).
|
|
tượng 9
:
Hộ
pháp
|
tượng 10
: Devata
|
Những pho tượng vũ nữ với dải băng (trung
bình 75x28x25cm), thế kỷ X, tìm ra ở Trà Kiệu thuộc hệ thống
loại tượng hiếm có trong nghệ thuật Chăm. Trước kia ít
có, tượng chỉ được dùng bên trong các tháp, làm cột tượng
điện thờ linga chẳng hạn. Bây giờ, tượng được đưa
ra ngoài, thường thấy ở các chân nền, xen lẫn với những
tượng voi, sư tử. Cử chỉ những vũ nữ nầy cho bay lượn
quanh mình dãy vải dài và mỏng chưa được giải thích, nếu
không là tương tự những hình trong giới thiên thần chạm
trên đá như ở Orissa bên Ấn Độ thế kỷ VII, hay giống
những băng vải được các quý tộc và quyền chức dùng trong
triều nhà Đường những thế kỷ VII-X bên Trung Quốc. Tuy
mềm dẻo và đầy sức sống ở tư thế tribhanga, tượng
những vũ nữ nầy trình bày những điểm vẹo méo trong vũ
điệu như cánh tay quá dài, khuỷu tay cưỡng cong, hông
háng núng nính. Đằng khác, mặt mày vui vẻ, nét mặt
dịu dàng, đôi mắt quả hạnh đánh dấu một phong cách Trà
Kiệu muộn. Các vũ nữ cũng có vài trang trí, bông tai nhiều
vòng, vành đầu đầy hoa, quanh mình một khố nhỏ có thắt
lưng kéo dài xuống giữa hai chân. Thường các tượng được
trình bày mặt hướng ra trước, chân nhìn nghiên đang nhấc
lên trong thế đang nhảy múa trong một điệu vòng ở cung điện
các thiên thần (tượng 11, 12).

|
tượng 11,12
: Vũ nữ
|
Trong số những vị thần hạng dưới, ngoài
vị thần mang đồ cúng đã thấy là một, còn có những thiên
thần khác : nhạc công gandharva, chim thần kimnara
(nửa người nửa chim) cùng phu quân kimnari, thiên nữ
apsaras,…và
quái vật makara. Một hiện vật bằng sa thạch (60x122x44cm)
hình dung một nữ thiên hiền lành nhả ra từ lỗ miệng quái
vật, mắt lồi, sừng hình cuộn, bờm uốn quanh, răng nanh
nhọn. Makara là một thủy quái sống dưới biển, nửa
cá nửa voi, tương truyền có trong bụng một hòn ngọc quí
cống hiến quyền lực, đặc biệt về tình yêu. Hiện vật
nầy là thành phần bên trái của lưng ngai đức Phật, thường
được dùng để trang trí các công trình Ấn giáo và Phật
giáo. Đồng thời với sự phát triển Phật giáo, hiện vật
trang trí ngai đức Phật, tuy đã thấy từ thế kỷ V, phát
huy mạnh mẽ vào các thế kỷ VIII-IX, đặc biệt ở vùng Đông
Nam Á, nhất là trong nghệ thuật đồ đồng. Quái vật quay
mặt về đức Phật trong một cử chỉ linh hoạt đặc
sắc của những vị thần hạng dưới. Đồ trang trí tinh vi
thêm vào những nét điệu hóa trên bộ mặt hướng cổ
vật, được Henri Parmentier nhận ra năm
1902 ở Đồng Dương, vào phong cách Đồng Dương (tượng
13). Một hiện vật khác cũng bằng sa thạch (92x45x122cm),
hình dung
makara miệng mở to, môi sề rộng, lưỡi dày
cộm, ranh nanh nhọn, nhả ra một cặp nữ thiên mithuna vui
cười quyện vào nhau như một cặp tình nhân, cũng được
dùng trong trang trí kiến trúc, mút đầu những mái ngói. Măt
quái vật, mặc dầu chưa xong hoàn toàn, được chạm trổ
rất tinh vi : những mắt, tai, sừng, vòi cùng với lá sen qua
những đường cong, đường cong ngược, chồng chéo liên hệ
mật thiết với nhau, tương hợp thành một lối diễn xuất
rất tế nhị. Suy qua bộ mặt và những đồ trang trí, cổ
vật có thể thuộc phong cách Chánh Lộ (tượng 14).
|
|
tượng 13
:
Makara Chánh Lộ
|
tượng 14
:
Makara Đồng
Dương
|
Còn có một hình tượng makara bằng sa
thạch, dưới hình thức đầu rồng hay sư tử, mắt
lồi, miệng há, răng nhọn, trang trí vòng cổ, tìm ra ở Tháp
Mẫm, được liệt vào phong cách Tháp Mẫm, thế kỷ XII-XIII.
Thật ra, rất khó sắp tượng nầy vào một niên đại.
Đặc biệt của nó là có những điểm tương đồng
với những hình tượng Việt-Trung thấy ở các chùa miền
bắc, có lẽ bắt nguồn từ những cuộc tiếp xúc các nghệ
nhân Chăm với nghệ thuật Việt Nam. Người ta để ý thú
vật hiện ra khá trể trong điêu khắc Chăm, chỉ vào thế
kỷ XII, như vậy đây không phải là một sáng tác địa phương.
Vẫn biết trong cổ vật Champa đã thấy có những đầu quái
vật vào thế kỷ VII nhưng những đầu
nầy có thể có nguồn gốc Ấn Độ. Tượng nầy có
một mẫu gần tương tự cùng nhiều tượng lạ lùng gọi
là rồng trưng bày ở viện Bảo tàng Đà Nẵng, một hình
tượng đã được đặc biệt phát triển trong ngành chạm
trổ Chăm từ một mẫu bên ngoài đem lại (tượng 15).
Đem so sánh pho tượng makara nầy với pho tượng
rồng hay sư tử Trà Kiệu bằng sa thạch thế kỷ X thì cũng
thấy chẳng có khác nhau bao lăm. Mắt lồi, miệng há, răng
nhọn, không có sừng, chỉ khác nhau ở vòng đeo cổ và cái
vành tròn kirita (tượng 16).
|
|
tượng 15
:
Makara rồng Tháp
Mẫm
|
tượng 16
:
Makara rồng Trà
Kiệu
|
Sư tử còn được trưng bày dưới hai dạng
vểnh lên hay gồng mình. Những con thú nầy cũng như voi, chim
hay vũ nữ thường được tìm thấy ở chân đền, sắp thành
đôi hay bô ba, bộ bốn, lắm lúc bị chôn dưới đất ở
độ sâu khác nhau. Một pho tượng bằng sa thạch (31x30x36cm)
ở Trà Kiệu, thế kỷ X, trình bày một con sư tử đứng thẳng,
chân trái co lên, hai tay dang ngang mặt, miệng há rộng, nanh
nhọn hoắt, mắt lồi ra trông rất dễ sợ. Trên thân, một
tấm ngực phủ từ vai xuống đùi gối, được chạm trổ
bên trên toàn tấm, phía dưới chỉ ở viềng. Đây là một
đặc điểm vì trên tượng những sư tử khác loại đứng
nầy, chẳng hạn ở Đà Nẵng, tấm ngực được để
trống như chưa xong (tượng 17). Một pho tượng khác
cũng bằng sa thạch (145x140x40cm) ở Trà Kiệu, thế kỷ X, trình
bày một con sư tử hung hăng, bờm phủ lên đầu thành vòng,
dưới cổ thành tấm ngực. Miệng há rộng, môi sề vểnh
lên để lộ ra những chiếc răng sắc nhọn, nó có những
nét tương tự với những quái vật kirtimukha hay kala,
một mẫu lành tính, bảo vệ, ngừa bệnh rất được sử
dụng ở Trà Kiệu. Đặc biệt nó mang trên lưng một người
ngồi trên một tấm thảm, đấu gảy mất, chân mặt xếp
lại. Trà Kiệu cũng như Mỹ Sơn, Đồng Dương, Tháp Mẫm là
nơi cung cấp nhiều cổ vật nhất cho các viện bảo tàng Đà
Nẵng, Hà Nội, Tp Hồ Chí Minh và, ở Pháp, Toulouse, Guimet (tượng
18). Hai pho tượng sư tử nầy thuộc bộ sưu tầm ấy.
|
|
tượng 17
:
Sư
tử đứng
|
tượng 18
:
Sư
tử nằm
|
Vùng Trà Kiệu còn cống hiến những tượng
voi. Trong văn hóa Chăm, nếu sư tử tượng trưng cho chủ quyền,
voi đại diện cho quả đất, hai nhân vật xen kẻ nhau, từ
vùng nam Ấn Độ mà lại. Từ những thế kỷ VII-VIII, chúng
đã có mặt ở Mahabalipuram (Tamilnadu), Pattadakal (Karnataka),…Khi
qua Trà Kiệu, trang hoàng những chân đèn, tương phản với
sư tử luôn hung hăng, dễ sợ, voi có một bộ mặt giản dị,
bình thảng. Những mẫu voi khổng lồ mà dịu dàng, với một
thái độ hồn nhiên gần như ngây thơ, đi đúng với bản
chất hiền lành của voi Á Đông. Hai tai mở rộng hai bên cái
vòi cong lại đằng trước như để giữ thăng bằng với một
cái đuôi quá dài đằng sau, những mắt cá quá nhỏ biến
những bàn chân thành những ống giác bám voi vào đất. Tuy
vậy, tài năng của nghệ nhân là thành công gợi lên như thật
động tác đu đưa cái vòi và dáng đi chậm chạp của con
voi (tượng 19). Có một pho tượng bằng sa thạch (phong
cách Mỹ Sơn A1, thế kỷ X) hình dung một người ngồi nhưng
lại có một đầu voi : Ganesa. Nhiều sự tích về nguồn gốc,
thường kể là được Parvati, phu nhân Siva, thần chế tạo,
nhân ngăn không cho Shiva vào nhà, bị thần nầy chặt đầu
và trước cơn giận của Parvati đã lấy đầu voi thế vào.
Là một vị thần rất bình dân, Ganesa được bổ dụng vào
đẳng cấp các nhà nông sudra, nhờ biểu hiện một quyền
lực tinh thần, là người làm trung gian giữa con người và
thần thánh (tượng 20).
|
|
tượng 19
: Voi
|
tượng 20
: Ganesa
|
Viếng phòng Champ Pa không thể bỏ qua những
cổ vật trình bày trong tủ kính, có thể xem là quý. Trước
hết phải nói đến hai cái bao linga kosa bằng vàng và
bạc. Chữ tiếng sankscrit kosa thấy trong các bài viết,
liên hợp với những đồ cúng giàu sang của vua chúa trong
lễ nghi Shiva, rất lâu đã đặt câu hỏi cho các nhà nghiên
cứu. Trong sách xưa có nói đến một vật bằng bạc mà ánh
kim trông tựa mặt trăng. Sau đó, ở nhiều địa điểm khá
xa nhau, những văn khắc khoảng các thế kỷ VIII-IX kết hợp
kosa
với "mặt" chúa tể, thời đó Shiva đang còn được thờ dưới
dạng linga. Qua năm 1008 mới thấy có văn bản tả rành mạch
hơn : kosa bằng vàng, có nhiều trang trí rất đẹp, lộng
lẫy, huy hoàng hơn cả mặt trời, ngày đêm có bức xạ của
những viên ngọc chói lọi chiếu sáng, do vua Harivarman thành
kính dâng cúng Sricanabhadresvara. Năm 1904 Louis Finot bắt đầu
ý thức kosa là một cái bao linga. Nhưng phải đợi
qua 1920 cổ vật đầu tiên được ngành khảo cổ phát hiện
ra ở Hương Đình, vùng Phan Thiết (Bình Thuận). Trong rất
lâu cái bao nầy là độc nhất, được trưng bày ở viện
Bảo tàng Hà Nội, như tuồng nay đã bị mất. Sau nầy, nhiều
kosa
khác được tìm ra, từ Quảng Nam đến Bình Định. Hai cái
ở viện Bảo tàng Guimet, gần giống cái bao đã mất. Một
cái thứ nhất (14x15x13cm) ekamukhalinga bị hư nhiều, luôn
còn là một mẫu chạm trổ tinh vi. Một đầu người cổ rất
dài và cong như phọt ra trên mặt bao bằng bạc. Siva hoan hỉ
trong hào quang sắc đẹp thiếu niên dưới nguyệt ánh, với
con mắt thứ ba trên vầng trán, mang một búi tóc của người
tu khổ hạnh. Mọi chi tiết của nét mặt chứng minh nghệ
thuật truyền thống Chăm và hướng cổ vật vào phong cách
Mỹ Sơn E1, thế kỷ VII (vật thể 21). Cái thứ hai (25x19x25cm),
niên đại các thế kỷ VIII-IX, cũng là một ekamukhalinga,
nguyên vẹn hơn. Đầu Siva được chạm trổ tinh vi, từ đôi
môi, đôi mắt, mí mắt qua râu mép, mớ tóc cái búi những
tu sĩ khổ hạnh kết vòng jatamukuta, mọi chi tiết đều
được khắc rõ. Búi tóc nầy cuốn thành hình chóp trên đỉnh
đầu hiếm thấy có. Cổ vật còn quý ở chỗ nó còn giữ
những đồ trang trí : đôi bông tai kundala, vòng tay kirita
có hoa trên tai, vòng ngực với viên ngọc đỏ rubi (vật
thể 22).
|
|
vật thề
21 :
kosa
Hương Đình
|
vật thể
22 : kosa
|
Trong nghệ thuật Chăm, ngành kim hoàn chiếm một
địa vị quan trọng, đặc biệt trong những đồ cúng dâng
hiến vào điện thờ. Sinh thục khí nam linga là thể dạng
thiêng liêng nhất của Shiva thờ dưới hình thức trừu tượng
nguyên gốc dương vật. Cái jatalinga (nếu có khắc họa
khuôn mặt Shiva thì gọi mukhalinga) bằng kim loại nầy
được thực hiện theo kỹ thuật cổ truyền rập nổi thành
chín mảnh riêng biệt rồi cho ráp lại với nhau. Trang trí
dưới đế là lá cây điệu hóa, cánh hoa sen ở lớp bọc
dưới và lớp bọc trên, trái cây hình cầu ở vòng giữa.
Phần trên có chậu rửa tròn quanh (thay vì yoni hình vuông),
bên cạnh là rảnh nước chảy, chính giữa vươn lên cột
linga
phần dưới tám cạnh astara tượng trưng Vishnu, phần
trên nắp trùm hình tròn rudrabhaga hay pujamsa biểu
hiện Shiva, hình dáng một cái mũ tu sĩ khổ hạnh điệu hóa.Tất
cả đều bằng bạc, chỉ có nắp trùm là một hỗn hợp bạc
và vàng (vật thể 23). Trong tủ kính cón có một cái
bình nước bằng đồng thanh (24x20x17cm), niên đại thế kỷ
IX-XI, tìm ra ở Trường Xá (Quảng Trị) trong một vùng đã
cống hiến nhiều cổ vật Chăm. Bình nầy, được gọi là
kundika
bên Ấn Độ, gồm có một cái bụng phình tròn trên một cái
đế hình thân nón, cổ loe ra thành miệng để đổ nước
vào, bên phía bên có hai miệng nhỏ để đổ nước ra. Bình
nước nầy thường được dùng để tẩy uế người chủ
lễ trong Hồi giáo cũng như trong Phật giáo (vật thể 24).
Nếu cổ bình đã được thấy trong nghệ thuật Khơ me, câu
hỏi đã được đặt về hai miệng để đổ nước ra tuy
đã thấy có nhiều mẫu tương tự bằng đất nung, sành sứ
hay kim loại như hiện vật nầy.
|
|
vật thể
23 : Linga
|
vật thể
24 : Bình nước
|
Tuy không nhiều bằng
cổ vật các nước Á Đông khác, những hiện vật Việt Nam
nói chung, Cham Pa nói riêng, ở viện Bảo tàng Guimet như
đã thấy là những tác phẩm tiêu biểu một kho tàng văn hóa
phong phú của nước ta. Tuy sống lâu năm ở Pháp, tôi luôn
theo dõi hoạt động văn hóa bên nước nhà và hân hạnh được
nêu tên trong hai cuốn Le Musée de Sculpture Cam de Đà Nẵng (AFAO-EFEO-1997)
và Trésors d’art du Vietnam - la sulpture du Champa (Guimet – 2005),
xem như là được giới khảo cứu về Cham Pa thừa nhận.
Xô
thành thu đông 2016
|
|
Đọc thêm
-Emmanuel Guillon, Art et archéologie du Champa,
une ancienne civilisation du Vietnam, Picard, Paris 2011
-Pierre Baptiste et Thierry Zéphir, Trésors d’art
du Vietnam - la sculpture du Champa Ve-XVe siècles, Guimet, Paris 2005-2006
-Nguyễn Văn Kự – Ngô Văn Doanh, Du khảo văn
hóa Chăm, Viện Viễn Đông Bác
cổ Pháp, Viện Nghiên cứu Đông Nam Á, Nxb Thế giới Hà Nội
2005
-Léon Vandermeersch et Jean-Pierre
Ducrest, Le Musée de Sculpture Cam de Đà Nẵng, AFAO Paris 1997
Chim Việt
Cành Nam 67 10.07.2017
|