Bướm
vàng đã đậu trái mù u rồi
Lấy
chồng sớm làm gì để lời ru thêm buồn
Trần
Tiến
Người
Huế hay tự hào về một chuyện đánh thắng Tây thời Tự
Đức. Thấy quân Pháp, trong các cuộc duyệt binh, khi bước
không co chân, tưởng họ không có đầu gối, vậy chỉ việc
kiếm cách đánh ngã xuống đất thì họ không đứng lên lại
được! Cũng như ta đã tưởng nước miếng của họ có hồ
vì chỉ liếm vào là dán được tem. Nhà học giả Đông phương
Thái Văn Kiểm dựa lên truyến thuyết kể chiến thắng nầy
:"Khi quân Pháp đổ bộ lên cửa Thuận An, kéo binh vào thành
Huế, quân ta mai phục hai bên đường vào đàn Xã tắc, bèn
lấy trái mù u, đổ ra đầy đường. Quân Pháp đi giày da,
đạp lên mù u, nhào té đảo điên. Quân ta thừa thế nhảy
ra đánh áp la cà làm cho quân Pháp phải chạy tán loạn. Vì
vậy mới gọi là trận giặc mù u. Ngày nay, hai bên đường
Xã tắc, còn hai hàng mù u cao ngất nghễu thỉnh thoảng rụng
trái trên vai người đi đường, như để nhắc nhở một trang
sử oanh liệt." (1). Một người quê gốc Huế, anh
Võ Hương An, rất am hiểu những sự tích ở chốn Thần kinh,
tìm hiểu sâu rộng thì nhận ra chuyện vậy mà không phải
vậy (4a). Tối hôm 22 tháng 5 năm Ất Dậu tức là
ngày 04.07.1885, hai vị đại thần Nguyễn Văn Tường và Tôn
Thất Thuyết thật muốn tấn công quân Pháp ở Trấn Bình
Đài tức Mang Cá, không quên cho rải trước đồn những trái
bàng và mù u. Suốt đêm, trước pháo đạn của ta, quân Pháp
bình tĩnh thế thủ trong hầm, đợi đến rạng ngày 23 mới
phản công. Quân ta ít thuốc đạn, thiếu tổ chức, tán loạn
bỏ chạy, đạp lên các trái bàng và mù u, té ngã, chà đạp
lên nhau, rất nhiều người chết. Thì ra gậy ông đập lại
lưng ông! Và không có chuyện đánh thắng Tây, cũng không phải
ở đàn Xã tắc. Theo nhà văn Pierre Loti, tức trung úy hải
quân Julien Viaud, thì quân Pháp chỉ đánh chiếm Thuận An rồi
thương thuyết đểđặt nền bảo hộ lên nước ta nên không
có chuyện quân Pháp từ Thuận An lên đánh thành Huế
(4b).
Nếu
sự tích được bố trí ở đàn Xã tắc thì có lẽ vì trước
đàn nầy có trồng cây mù u. Câu hỏi không được trả lời
rõ ràng là tại sao mù u được trồng ở đàn Xã tắc cũng
như cây thông trước Văn thánh, cây bàng truớc Võ thánh? Văn
thánh trồng thông, Võ thánh trồng bàng, Ngó vô Xã tắc: hai
hàng mù u. Một giải thích theo lối chơi chữ (4a),
ít được xem có sức thuyết phục, cần phải được dè dặt
đón nhận với tất cả tính thận trọng cần thiết nếu
không là để tìm hiểu cách lập luận của một số người
Huế : Văn thánh hay Văn miếu là nơi văn học thì phải tinh
thông nghĩa lý văn chương sách vở, nên trồng thông
để nhắc nhủ người đi học. Võ thánh hay võ miếu là nơi
tượng trưng cho việc dụng binh thì phải luận bàn kế
hoạch cho chu đáo nên phải trồng bàng. Cần phải biết
người Huế khi phát âm không phân biệt chữ có g và chữ
không có g. Còn Xã tắc là đàn được lập ra năm Gia Long
thứ năm (1806) để thờ các thần chủ về đất đai (TháiXã
Thần) và mùa màng (Thái Tắc Thần), tức là nơi
giao tiếp với đất trời mà thiên địa là mịt mù
nên người ta mới trồng cây mù u để tượng trưng
!!!
Còn
được gọi hồ đồng, nam mai, cây mù u mang tên khoa học Calophyllum
inophyllum L. (hay Balsamaria inophyllum Lour.) thuộc họ
Măng cụt Clusiaceae
(3) hay Bứa Guttiferae
(ñTK, PHH). Tiếng Hy lạp kalos có nghĩa là đẹp và phullon
là lá. Tiếng Phạn gọi nó là punnaga nên Ấn Độ có
tên punna hay
punnagam, Miến Điện có tên ponnyet.
Tây phương có những tên ballnut,
laurel wood, laurier
d’Alexandre. Bên đảo La Réunion, cây được gọi takamaka
và mang tên khoa học Calophyllum tacamahaca Willd. (hay C.
lanceolarium Roxb., hay C. lanceolatum Blume. hay C. spectabile
Willd.)(5).
Trong các đảo khác, còn có những tên domba ở Tích Lan,
tamanu
ở Tahiti, Tonga, kamani ở Hawai, dilo ở Fiji, fetau
ở Samua, nambagura ở Vanuatu, faroha ở Madagascar .....
Trong chi Calophylum bên ta còn có khoảng 15 cây khác phần
lớn mang tên còng (tía, nước, trắng, đa, dây, núi, nhám,
nhiều hoa, ....), bên cạnh những tên choi, rù ri, vấy ốc (PHH).
Cây cao chừng 15-20m, có lá mọc đối, mỏng, thon dài, phía
cuống hơi thắc lại, đầu lá hơi tù, gân nhỏ, nhiều, chạy
song song và nổi rõ ở cả hai mặt lá ; hoa khá to, thơm, màu
trắng, mọc thành chùm xim ở kẽ lá hay đầu cành ; quả hạch
hình cầu, khi chín có màu vàng nhạt, vỏ quả giữa mẫm,
vỏ quả trong dày, cứng ; hạt có lá mầm chứa rất nhiều
dầu. Mùa hoa: tháng 2-6, từ xa người ta phân biệt được
cây mù u với cây khác nhờ màu trắng đặc biệt của hoa;
mùa quả chín : tháng 10-12 (ñTL), có thể dùng để bổ sung
cho đường phố và công viên (3b). Cây mù u có ưu
điểm là dễ trồng, dễ mọc trên các loại đất, từ vùng
đầm lầy, ven biển đến đồi trọc khô cằn (2),
cần được chọn lọc làm vật liệu phục hồi các hệ sinh
thái phòng hộ vùng cát ven biển
(3a).
Nhiều
phòng thí nghiệm trên thế giới đã học hỏi những tính
chất dược liệu của cây mù u : sát trùng, làm se, long đờm,
giảm đau, lợi tiểu, tẩy xổ (17). Phân tử được
nhóm Gopalakrishnan ở Madras bên Ấn Độ khảo cứu nhiều là
những chất có sườn xanthon: dehydrocycloguanandin, calophyllin
B, jacareubin và dẫn xuất deoxy, mesuaxanthon A và B, euxanthon.
Tất cả đŠu có tính chất chống viêm khi đem thử trên chuột.
Hai chất jacareubin và deoxyjacareubin còn có khả năng ức chế
lở loét (6). Jacareubin, chất xanthon quan trọng nhất,
chỉ tìm ra được trong các loại Calophyllum. Chúng có
tính chất kháng vi khuẩn khi đem thử trên những trùng Staphylococcus
aureus, Bacillus subtilis, Escherichia coli, Klebsiella pneumoniae, Proteus
vulgaris, Samonella typhimuium, Pseudomonas aeruginosa và Vibro sp.
Hai chất jacareubin và deoxyjacareubin có nhiều hiệu lực nhất:
4-5 trên số 8 vi khuẩn (7). Những xanthon như inoxanthon,
caloxanthon A, B, macluraxanthon, calophyllic acid, brasiliensic acid,
inophylloidic acid, friedelanon, calaustralin, calophyllolid, inophyllum
C chiết xuất từ vỏ rễ và hột mù u đã được đem thử
lên tế bào KB và thấy có tính chất chống vi khuẩn
(28).
Nhóm Mahmud ở Karachi bên Pakistan khảo cứu một số chất cholesterol,
friedelin, canophyllol, canophyllic acid, inophynon, isoinophynon về
những tính chất chống vi khuẩn và chống nấm. Dùng chất
ròng hay tan hòa trong dung dịch (ethanol, butanol, chloroform), chúng
có hiệu lực chống
Staphylococcus aureus, Streptococcus pyrogenes
(17).
Một phòng thí nghiệm ở Nagoya bên Nhật Bản đem thử một
số phenylcoumarin lên virus Epstein-Barr, thấy chúng có khả năng
ức chế hoạt động chống trùng nầy. Đặc biệt calocoumarin
A rất hiệu nghiệm trên loét da chuột và có thể dùng để
ngăn chận ung thư (22). Dipyranocoumarin (37),
những inophyllum A,B,C,D,E,P (16)đã được đem thử
trong cuộc khảo cứu chống trùng HIV, hai inophyllum B và P ức
chế HIV reverse transcriptase (IC50 38 và 130 nM), tác dụng
chống HIV-1 trong tế bào cấy (IC50 1,4 và 1,6 microM)
(11).
Nói
chung, những hóa chất được chiết xuất từ rễ, lá, thân
cây và hột - dầu. Từ rễ, phòng thí nghiệm Phân khoa Hóa,
viện Đại học Serdang ở Mã Lai đã chiết xuất inophyllin-A
(27,33),
viện Vật liệu Y khoa Bắc Kinh 11 xanthon (25), nhóm
Iinuma ở viện Đại học Gifu bên Nhật Bản nhiều xanthon đủ
thứ : dipyranon (15) , caloxanthon, hydroxanthon, methoxyxanthon
(12),
caloxanthon A, B (13), D, E (14). Từ lá, nhiều
xanthon cùng jacareubin, amentoflavon đã được chiết xuất ở
viện Vật liệu Y khoa Bắc Kinh (38), friedelanon, triacontanol,
canophyllol (29), friedooleananon
(20) ở viện
Đại học Quảng Châu, inophynon, isoinophynon ở viện Đại học
Karachi bên Ấn Độ (19), những loại friedelan ở viện
Đại học Polynésia Tahiti (30). Từ hột, những inocalophyllin
A, B và những ester của chúng đã được chiết xuất ở viện
Đại học Kaohsiung Đài Loan (24), những coumarin ở
Phòng thí nghiệm Quốc gia Pune bên Ấn Độ(21), những
lipid đã được học hỏi (8). Từ dầu, một số
một loạt acid : myristic, palmitic, stearic, oleic, linoleic, linolenic,
eicosanic, hơn 58% acid không bảo hòa, đã được methyl este hóa
(36).
Trong thân cành, calophinon (26), trong thân gỗ tetrahydroxanthon
(9),
neoflavanoid, biflavonoid
(10), cùng nhiều xanthon khác
cũng đã được tìm ra. Trong số 36 chất dễ bốc hơi phát
xuất từ những cành nhỏ, có nhiều nhất là amorphen, caryophyllen,
cadinen và farnesen (35). Bên Việt Nam ta, dầu và nhựa
mù u thường được dùng trong môn y khoa truyền thống. Các
nhà khảo cứu ở viện Hóa học đã chiết xuất và xác định
được cấu trúc những chất tovopyrifolin, amentoflavon
(32),
pyranocoumarin calophyllolid, inophyllum-D, isocalophyllic acid từ lá
cây cùng những chất friedelan triterpen canophyllol, oxofriedelanoic
acid, canophyllic acid, friedlin và epifriedelanol (23,31,34).
Họ cũng đã học hỏi những lipid và acid mỡ trong dầu hột
mù u để xác định hydrocarbon, triglycerid và acid mỡ tự do,
nhất là thành phần chính phospholopid
(18). Ngày nay,
có nhiều quảng cáo dùng dầu mù u làm thuốc mỹ nghệ giàu
các vitamin B, C, bảo vệ, tái sinh da.
Ở
nước ta, cây mù u thường mọc hoang, tại những vùng đất
cát gần bờ biển, và được trồng ở nhiều tỉnh từ Kiến
An cũ, Quảng Ninh đến Quảng Bình, Phan Thiết, vào Vĩnh Long,
Mỹ Tho, Gia Định, Thủ Dầu Một, Bà Rịa,.... lấy hạt ép
dầu thắp đèn (ñTL). Ở Huế, cây mù u được trồng ở nhiều
đường, trong Đại nội, quanh công viên Phu Văn Lâu,.... Nhựa
có mùi hôi đặc biệt, dùng để bôi tan các chỗ sưng tấy,
chữa họng sưng, mụn nhọt, vết loét nhiễm trùng, tai có
mũ. Dầu trị ghẻ, nấm tóc, các bệnh da, chữa viêm thần
kinh trong bệnh cùi hủi, có thể bôi trị thấp khớp. Mủ
dùng ngoài làm lành sẹo, nhất là bị bỏng. Vỏ dùng trị
bệnh dạ dày và xuất huyết nội. Gỗ dùng thay nhựa. Rễ
chữa viêm viêm răng
(4a). Dầu mù u pha với iod dùng
Çể điều trị nhọt, quần đinh, mụn, dùng xoa bóp trị được
các bệnh phong thấp, dùng chữa bỏng rất có hiệu quả. Quả
mù u đốt cháy thành than rắc lên mụn nhọt có kết quả
tốt. Nhựa được dùng dưới dạng bột rác lên vết lở
loét, mụn nhọt, làm thuốc dán để điều trị các vết thương.
Ngoài công dụng của một cây dược liệu, mù u còn là một
cây công nghiệp, dầu dùng thắp đèn, nấu xà phòng, gỗ dùng
đểđóng tàu thuyền, làm cột buồm vì thân cây có sứa gỗ
xoắn hình trôn ốc, chắc và dẻo
(2). Thân cây, tỷ
trọng cao, bền bĩ, còn được dùng trong ngành đóng đồ gỗ,
nhạc khí, điếu hút, dụng cụ nấu ăn,.... Lá và hột cây
cho phân hủy, thối hỏng có thể dùng làm phân bón. Hột cây
đem nướng có tính chất đưổi muổi. Ở nhiŠu nước ven
biển, cây được trồng để bảo vệ bờ biển chống xói
mòn, ngăn chận bảo táp. Mù u thật là một cây có ích dù
hột cây không giúp ta thắng Tây thời Hàm Nghi! Đáng lạ là
không thấy có một văn bằng sáng chế nào về các vị thuốc
của cây, thường dùng trong ngành đông y truyền thống, kể
cả các phòng thí nghiệm Trung Quốc những năm gần đây cho
đăng ký rất nhiều những liều thuốc dân gian.
Nghiên
cứu và Phát triển 4(87) 2011,
khoahoc.net
07.2012
Tham
khảo
1-
Thái Văn Kiểm,
Cố đô Huế, Nha Văn hóa, Bộ Quốc
gia Giáo dục, Sài Gòn (1960) 3
2-
Đoàn Văn Quýnh, Tìm hiểu một số cây có giá trị bề
y dược học và môi trường trong quần thể cây xanh ở Huế,
Thông
tin khoa học và công nghệ, Huế 2 (1996) 98-9
3a-
Đỗ Xuân Cẩm,
Da dạng sinh học và khả năng tận dụng
các loài cây bản địa làm nguồn tài liệu phát triển rừng
phòng hộ ven bờ biển miền Trung, Nghiên cứu và Phát
triển, Huế 2 (85)(2011) 81-92; 3b- Mai Văn Phô, Hãy làm
cho Huế xanh hơn và đẹp hơn,
Nghiên cứu và Phát triển,
Huế 2 (85)(2011) 75-80
4a-
Võ Hương An, Huyền thoại trận mù u,
khoahoc.net
31.01.2008 ; 4b- Pierre Loti, Trois journées de guerre en Annam,
Les
Editions du Sonneur, Paris 2006
5-
Arbres de la Réunion, http://arbres-reunion.cirad.fr/especes/clusiaceae/calophyllum_
tacahamac_willd
Tài
liệu khoa học (giới hạn trong ba thập niên gần đây)
6-
C. Gopalakrihnan, D. Shankaranarayanan, S.K. Nazimudeen, S. Viswanathan,
L. Kameswaran, Antiinflammatory and CNS depressant activities of xanthones
from Calophyllum inophyllum and Mesua ferrera, Ind. J. Pharmacol.
12(3)
(1980) 181-91
7-
B.M. Sundaram, C. Gopalakrishnan, S. Subramanian, Antibacterial activity
of xanthones from Calophyllum inophyllum L. , Arogya (manipal, India)12(3)
(1986) 48-9
8-
J. Hemavathy, J.V. Prabhakar, Lipid composition of Calophyllum inophyllum
kernel, J. Amer. Oil Chem. Soc. 67(12) (1990) 955-7
9-
S.H. Goh, I. Jantan, A xanthone from Calophyllum inophyllum,
Phytochem. 30(1) (1991) 366-7
10-
S.H. Goh, I. Jantan, P.G. Waterman, Neoflavanoid and biflavanoid constituents
of Calophyllum inophylloide, J. Nat. Prod. 55(10) (1992)
1415-20
11-
A.D. Patil, A.J. Freyer, D.S. Eggleston, R.C. Haltiwanger, M.F. Bean, P.B.
Taylor, M.J. Caranfa, A.L. Breen, H. Bartus et all. The inophyllums,
novel inhibitors of HIV-1 reverse transcriptase isolated from the Malaysaian
tree, Calophyllum inophyllum Linn., J. med. Chem.
36(26)
(1993) 4131-8
12-
M. Iinuma, H. Tosa, T. Tanaka, S. Yonemori, Two new xanthones in the
underground part of Calophyllum inophyllum, Heter. 37(2)
(1994) 833-8
13-
M. Iinuma, H. Tosa, T. Tanaka, S. Yonemori Two xanthones from root bark
of Calophyllum inophyllum, Phytochem. 35(2) (1994) 527-32
14-
M. Iinuma, H. Tosa, T. Tanaka, S. Yonemori, Two xanthones from roots
of Calophyllum inophyllum, Phytochem. 38(3) (1995) 725-8
15-
N.U.D. Khan, N. Parveen, M.P. Singh, B. Achari, P.P.G. Dastidar, P.K. Dutta,
Two
isomeric benzodipyranone derivatives from Calophyllum inophyllum,
Phytochem.42(4) (1996) 1181-3
16-
K. Kawazu, T. Nitoda, H. Kazaki, Analytical method of inophyllum A,B,C,D,E,
and P, anti-HIV constituents of Calophyllum inophyllum by HPLC,
Okayama daigaku Nogakubu Gakujutsu Hokoku 87 (1998) 13-6
17-
S. Mahmud, G.H. Rizwani, M. Ahmad, S. Ali, S. Perveen, V.U. Viqar, Antimicrobial
studies on fractions and pure compounds of Calophyllum inophyllum Linn.,
Pakistan
J.Pharmacolog.15(2) (1998) 13-25
18-
Pham Quoc Long, Pham Hoang Ngoc, Tran Van Sung, Lipid composition from
seed oil of Calophyllum inophyllum L. (Clusiaceae), Tap chi Hoa
hoc 36(4) (1998) 48-51
19-
M.S. Ali, S. Mahmud, S. Perveen, V.U. Ahmad, G.H. Rizwani, Epimers from
the leaves of Calophyllum inophyllum, Phytochem.
50(8)
(1999) 1385-9
20-
C.F. Yao, H.P. Zeng, Studies on the chemical constituents of Calophyllum
inophyllum Linn., Huanan Shifan Daxue Xuebao, Ziran Kexueban (3)
(2000) 62-4
21-
S.P. Joshi, V.B. Deodhar, U.D. Phalgune, A new coumarin from the seeds
of Calophyllum inophyllum Linn., Indian J. Chem. B : Org. Chem.
Med. Chem. 39B(7) (2000) 560-1
22-
M.Itoigawa, C. Ito, H.T.W. Tan, M. Kuchide, H. Tokuda, H. Nishino, H. Furukawa,
Cancer
chemopreventive agents, 4-phenylcoumarins from Calophyllum inophyllum,
Cancer Letters 169(1) (2001) 15-9
23-
Tran Thanh Thao, Vo Thi Bach Hue, Nguyen Khac Quynh Cu, Isolation and
structure determination of calophyllolide obtained from seeds of Calophyllum
inophyllum L. grown in Vietnam, Tap chi Duoc hoc 40(9)
(2002) 16-8
24-
Y.C. Shen, M.C. Hung, L.T. Wang, C.Y. Shen, Inocalophyllins A,B and
their methy esters from the seeds of Calophyllum inophyllum, Chem.
Phar. Bull .51(7) (2003) 802-6
25-
Y. Wu, P.C. Zhang, R.Y. Chen, D.Q. Yu, X.T. Liang,
Two new xanthones
from Calophyllum inophyllum, Huaxue Xuebao 61(7) (2003)
1047-51
26-
H.C. Cheng, L.T. Wang, A.T. Khalil, Y.T. Chang, Y.C. Lin, Y.C. Shen, Pyranoxanthones
from Calophyllum inophyllum, J. Chin. Chem. Soc .51(2)
(2004) 431-5
27-
G.C.L. Ee, A.S.M. Kua, Y.L. Cheow, C.K. Lim, V. Jong, M. Rahmani, A
new pyranoxanthone inophyllin B from Calophyllum inophyllum, Nat.
Prod. Sci. 10(5) (2004) 220-2
28-
M.C. Yimdjo, A.G. Azebaze, G. Anatole, A.E. Nkengfack, E. Augustin, A.M.
Meyer, B. Bodo, Z.T. Formum, T. Zaccharias, Antimicrobial and cytotoxic
agents from Calophyllum inophyllum, Phytochem. 65(20)
(2004) 2789-95
29-
C. Yao, H. Zheng, X. Wang, Chemical constituents from cultivated Calophyllum
inophyllum Linn, Guangdong Huagong 32(8) (2005) 40-1
30-
F. Laure, G. Herbette, R. Faure, J.P. Bianchini, P. Raharivelomanana, B.
Fogliani, Structures of new secofriedelane and friedelane acids from
Calophyllum inophyllum of french polynesia, Mag. Res. Chem. 43(1)
(2005) 65-8
31-
Nguyen Thi Minh Hang, Nguyen Quyet Chien, Nguyen Van Hung, Coumarins
from leaves of Calophyllum inophyllum L., Tap chi Hoa hoc 43(6)
(2005) 683-7
32-
Nguyen Thi Minh Hang, Nguyen Quyet Chien, Nguyen Van Hung, Tovopyrifolin
C amentoflavone from the leaves of Vietnamese plant Calophyllum inophyllum
L. Tap chi Hoa hoc 43(1) (2005) 3-4
33-
G.C.L. Ee, A.S.M. Kua, C.K. Lim, V. Jong, H.L. Lee,
Inophyllin A, a
new pyranoxanthone from Calophyllum inophyllum (Guttiferae), Nat.
Prod. Res. A: Struc.Synth. 20(5) (2006) 485-91
34-
Nguyen Thi Minh Hang, Nguyen Quyet Chien, Nguyen Van Hung, Triterpenes
from the leaves of the Vietnamese plant Calophyllum inophyllum L.,
Tap chi hoa hoc 44(1) (2006) 115-8
35-
W. Mei, Y. Zeng, H. Dai, X. Zheng, Chemical constituents of the volatile
oil from Calophyllum inophyllum Linn., Zhiwu Ziyuan Yu Huanjing
Xuebao 15(1) (2006) 74-5
36-
Y.J. Su, L.M. He, Study on components of fatty acids in oil from se
eds of Calophyllum inophyllum, Fenxi Shiyanshi
26(6)
(2007) 62-4
37-
K.D. Pawar, S.P. Joshi, S.R. Bhide, S.R. Thengane,
Pattern of anti-HIV
dipyranocoumarin expression in callus cultures of Calophyllum inophyllum
Linn., J. Biotech. 130(4) (2007) 346-53
38-
Y. Li, Z. Li, H. Hua, Z. Li, M. Liu, Studies on flavonoids from stems
and leaves of Calophyllum inophyllum, Zhongguo Zhongyao Zashi32(8)
(2007) 692-4 |