Sầu
đâu trong héo ngoài tươi
Vui
là vui gượng, cười là cười khuây
Ca
dao
Sầu
đâu là một cây quen thuộc ở Việt Nam. Nó mọc ở ngoài
Bắc cũng như ở trong Nam, trên đồi núi cùng suốt miền đồng
bằng. Ông cha ta đã từng hái lá bỏ vào chum vại để trừ
sâu, nấu nước tắm súc vật, sắc thuốc từ vỏ thân, vỏ
rễ, hột, lá để tẩy giun, diệt trùng, chữa bệnh ngoài
da hay viêm âm đạo. Tuy đã được dùng từ lâu trong hệ thống
Ayurvedic bên Ấn Độ, trình bày trong các sách y khoa Phạn tự
thời xưa như Susrutasanhita, được thế giới chú ý từ hơn
một nửa thế kỹ nay, mãi đến gần đây nó mới được
các phòng thí nghiệm, các hãng kỹ nghệ khảo cứu sâu rộng
để khai thác những hoạt chất độc đáo của nó.
Một
số lớn luận án tiến sĩ, các văn bằng sáng chế đã nghiên
cứu cặn kẽ cấu trúc, thành phần hóa học cùng những tính
chất dược lý của những hoạt chất ấy. Không hiếm những
bản tổng kết đăng ở các báo và những sách chuyên môn
xuất bản riêng biệt gom góp những kết quả đạt được.
Các nhà khảo cứu còn tổ chức nhiều hội nghị quốc gia
như bên Ấn Độ hay quốc tế : Rottach Egern (1980), Rauisch Holzhausen
(1983), Eschborn (1984) Sofia (1985), Nairobi (1986),.... để trình
bày, trao đổi, thảo luận về những cơ chế tổng hợp hay
tác dụng của những hoạt chất lên các cơ quan sinh vật.
Năm 1995, cả một bộ sách dày hàng trăm trang gồm hàng chục
chương đi vào chi tiết của mọi lãnh vực khảo cứu (1).
Trong
rất lâu, vấn đề danh từ chưa được thống nhất. Tên các
hóa chất được đặt ra rất hỗn độn, không theo một hệ
thống hay một trật tự nào. Ở Việt Nam ta ngay cả tên cây
cũng chưa được định nghĩa rõ ràng. Cuốn Tự điển Việt
Nam, Nxb Khoa học Xã hội (Hà Nội 1994, tr.824) chưa phân
biệt cây xoan và cây sầu đâu. Ở Huế tên còn được thi
vị hóa thành sầu đông. Trong cuốn Cây thuốc Việt Nam
của Viện Dược liệu, Nxb Khoa học và Kỹ thuật (Hà Nội
1990, tr.97, 263), cũng như trong các cuốn Thuốc trị bệnh
từ cây cỏ hoang dại của Lê Quý Ngưu và Trần Như Đức,
Nxb Thuận Hóa (Huế 1995, tr.394), Les plantes médicinales au Vietnam
của ACCT (Paris 1990, tr.151), cả hai tên xoan và sầu đâu (hay
sầu đau) đều được đặt cho cây Melia azedarach. Xin
tạm gác một bên những tên xoan rừng, sầu đâu rừng, sầu
đâu cứt chuột dành cho cây Brucea javanica
(Linn.) Merr.
thuộc họ Thanh thất Simaroubaceae và tên sadao hay sầu
đâu Thái Lan đặt cho cây Azadirachta indica siamensis. Theo
Giáo sư Phạm Hoàng Hộ trong cuốn Cây cỏ Việt Nam (Montréal
1992, Q.II, t.1, tr.487) sầu đâu là Azadirachta indica Juss.,
sầu
đâu cao là Azadirachta excelsa (Jack) Jacobs, còn xoan
là Melia azedarach L., xoan đào là Melia azedarach
cultivar
tosendam, tất cả thuộc họ Xoan Meliaceae.
Trong
sách Những cây thuốc thông thường, Nxb Đồng Tháp (Sa
Đéc 1987, tr. 265) Võ Văn Chi cũng gọi Azadirachta indica
là
sầu đâu, còn thêm tên xoan đào. Sau cùng, Giáo sư Đỗ Tất
Lợi trong cuốn Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam,
Nxb
Khoa học và Kỹ thuật (Hà Nội 1986, tr.181, 1147) thì cho sầu
đâu là Melia azedarach, thêm vào các tên xoan trắng, xuyên
luyện, khổ luyện, đốc hiên,.... Sau đó ông phân biệt
Melia
azedarach hay Melia indica là xoan Ấn Độ, còn Melia
toosendam là xoan Tứ Xuyên hay xoan Tây Bắc.
Kiểm
điểm những cách gọi vừa thấy, dựa lên đề nghị của
Giáo sư Phạm Hoàng Hộ, trong khi chờ đợi ý kiến của các
nhà thảo mộc, xin tạm thời thống nhất các tên thành 3 nhóm
:
*
Sầu đâu là Azadirachta indica A.Juss. Người
Ấn Độ trước kia đặt tên bakayan khác với nim
(hay neem) từ chữ phạn mahanimba. Người Telugu có
tên vepa. Âu Mỹ dùng danh từ china berry, china tree,
neem tree hay margosa. Vì vậy hóa chất có những tên
bakayanic acid, neobakayanin, nimbin, nimbinon, nimbinal, margosa, margocin,
margoson,... azadirachtin, azadirachtol, azadirachion, vepaol.
*
Xoan hay xoan Ấn Độ là Melia azedarach Linn. Người Ấn
Độ gọi nó là djharek, còn Âu Mỹ thì có tên berry
tree, có khi cũng gọi china berry.
*
Xoan Tứ Xuyên là Melia Toosendam Sieb. et Zucc.
Cây
sầu đâu được các nhà khảo cứu Ấn Độ và Pakistan chú
ý trước tiên và rất nhiều vì nó đã được kê khai vào
những môn thuốc cổ truyền các nước ấy. Có tác dụng trong
lãnh vực chống viêm, kháng vi khuẩn, kích thích miễn dịch,
nó được tôn vinh là "cây dược phẩm trong làng" (2).
Thật ra cây sầu đâu mọc ở nhiều nơi, ở Việt Nam cũng
như ở các nước khác, từ châu Á qua châu Phi, đặc biệt
ở Nigeria. Vào thập niên 30, máy móc phân tích chưa tinh vi,
công thức các hóa chất chưa được biết rõ ràng. Khảo cứu
có hệ thống chỉ bắt đầu với những công tác của S. Siddiqui
ở Viện Đại học Karachi (Pakistan) từ những năm đầu thập
niên 40. Hoạt chất nằm trong đủ mọi bộ phận của cây,
từ hoa, lá, trái, hột qua thân, nhựa, cành, rễ. Ứng dụng
của chúng bao gồm các lãnh vực canh nông, y khoa và ngay cả
chút ít kỹ nghệ: bảo vệ mùa màng, chữa đủ thứ bệnh,
chế tạo kính men. Việc khảo cứu tính chất trừ khử sâu
bệnh đã được tăng gia những năm gần đây, mỗi năm hàng
chục bản báo cáo trình bày tác dụng các hoạt chất của
cây lên các loài sâu bọ. Hoạt chất được chiết xuất nhiều
nhất là từ trái cây, phần lớn ở những trái chín tươi.
Nhiều liều thuốc dùng ngay phần chiết thô. Một số lớn
hóa chất được chiết từ hột, trung bình trọng lượng chiếm
10% của trái. Nhiều nghiên cứu chỉ cách ép hột ra dầu (thường
được gọi neem oil, 45%) rồi mới chiết xuất từ dầu. Dung
môi thường được dùng là rượu (methanol, ethanol), aceton,
ether, ether dầu hỏa, chloroform, .... và nước. Cũng có phương
pháp tách từ dầu ra một chất đắng vô định hình (25%)
cống hiến hoá chất qua các phép rửa, lọc, làm ròng.
Hóa
chất quan trọng đầu tiên được chiết ra là azadirachtin hay
ấn khổ luyện tử tố. J.H. Butterworth và D.E. Morgan ở Viện
Đại học Keele bên Anh ngâm hột sầu đâu trong ethanol rồi
dùng phép sắc ký trên alumin tách ra một chật vô định hình.
Sau nhiều lần lọc qua sắc ký lớp mỏng và cho tan hòa trong
carbon tetrahydrochlorid, azadirachtin kết tinh thành bột, năng suất
0,7g /kg. Về dung môi chiết xuất, sau nầy đã thấy có dùng
hỗn hợp ethanol-nước, ethanol-hexan, một mình hexan hay dùng
hexan rửa hột rồi mới chiết xuất với ethanol, năng suất
đạt đến 5g/2kg. Cũng có thể dùng nước để chiết nhưng
sau đó phải chiết lại với ethylacetat. Có báo cáo đã đề
nghị dùng carbon dioxyd tới hạn trong một hệ thống luồng
động thì ngoài azadirachtin còn chiết được cả salanin, nimbin,
tiglyolazadirachtol và genunin. Nhưng muốn có azadirachtin thật
ròng (hơn 99%) thì phải cho nó qua máy sắc ký lỏng hiệu năng
cao HPLC. Azadirachtin ròng cần thiết để xác định cấu trúc
của nó qua các phương pháp cọng hưởng từ hạt nhân NMR,
quan tuyến X, phối ký MS, đánh dứt một cuộc thảo luận
giữa K. Nakanishi, W. Kraus và H.B. Broughton trong gần 15 năm sau
1975.
Ngày
nay, nhiều azadirachtin đồng vị đã được chiết xuất : loại
A và B có nhiều nhất, C và D chỉ có ít. Dùng phép HPLC thì
đồng thời với các azadirachtin kia, những nimbin, nimbolid, ohchinolid,
deacetynimbin, azadiradion, salanin, ba azadirachtin H, I, K cùng hydroxy
norazadirachtin cũng được chiết ra. Một văn bằng sáng chế
được đề nghị sản xuất azadirachtin bằng phương pháp cấy
mô, dùng Agrobacterium tumefaciens gây nhiễm vào mô
Azadirachta
indica. Sau azadirachtin, phân tử được kảo cứu cặn kẽ
nhất về cấu trúc là nimbin. Chất nÀy được S. Siddiqui chiết
xuất từ 1942 trong dầu cùng với nimbinin và nimbidin. Sau đó,
ông khảo cứu rất nhiều về những chất tương tự trong
đủ các bộ phận của cây. Mãi đến 1959 mới thấy có khảo
cứu về cấu trúc, tính chất hóa học, hóa học lập thể,
.... và nguồn gốc : nimbin cùng như salanin có thể đều phát
xuất từ vilasamin tìm ra trong lá. Ngoài azadirachtin, cây sầu
đâu tổng hợp và tích lũy rất nhiều loại hóa chất, từ
những muối như Ca, Cu, Fe, K, Na, Zn trong gỗ, trong dầu, ngay
cả muối quinin, những chất hữu cơ đơn giản như alcan, sulphid
thơm mùi hành tỏi, amin trong nhựa đến những phức tạp như
flavanol trong hoa, trong lá, steroid trong gỗ, trong lá, đường
trong nhựa, trong vỏ. Amin acid cũng có mặt trong nhiều bộ
phận của cây : hoa, lá, dầu, nhựa. Ngoài ra, khoảng 120 hoá
chất hữu cơ có vòng kín no hay không, mang đủ chức acid,
alcool, ester, ether, epoxyd, ceton, .... Hầu hết các tên được
đặt không theo một danh pháp nào. Những danh từ được dùng
nhiều để làm gốc là azadirachta (azadirachtin, azadirachtinol,
hay cắt ngắn lại thành azadiron, azaditol), nim (nimbin, nimbandiol)
và margosa (margosin, margoson).
Azadirachtin
và các hoạt chất khác của cây đã được thử nghiệm lên
nhiều loại sâu bọ, từ châu chấu, bọ hung qua dế mèn, sâu
đậu, sâu lúa,.... Tác dụng đầu tiên của là xua đuổi hoặc
ngừa ăn trước khi sâu bọ cắn vào lúa, đậu hay trái cây.
Nếu lỡ ăn vào thì một loạt phản ứng khác tác dụng lên
nền sinh lý thần kinh và cơ thể chúng chẳng hạn để dừng
chậm hay ngăn chặn quá trình biến thái của nhộng trần.
Cả bốn azadiractin đều có tác động tương tự lên sâu đậu
và bọ hung. Một phần các bản báo cáo chỉ định rõ ràng
các hoạt chất, một phần cho biết là một phần chiết nhưng
không biết từ bộ phận nào của cây hay trình bày qua một
tên thương mãi : Margocide OK, CK, Neem-Azal, RB-a, RB-b, hoặc Margosan-O,
Azatin, RH-99099, Neem PTI-EC4, NSE,....
Trong
y khoa, nhờ cống hiến chất bổ, làm se nên vỏ cây được
dùng khi buồn nôn, oẹ mửa (16), để chữa tăng tiết
dạ dày, loét thực quản, loét tá tràng (24). Phần
chiết của hột có tác động lên tinh trùng nên được dùng
ngừa thai (19). Lá dùng để chữa bệnh vàng da, đau
gan, eczema (7). Hoạt chất diệt trùng, chống viêm
thường được chỉ định trong phần chiết : nimbolid, nimbidin
và nimbic acid trong hột, polysaccharid, nimbionon và nimbionol trong
vỏ, alkenal, methylbutenol, flavanol glycosid trong lá, amin acid trong
lá và vỏ. Nimbonon và nimbinol đã được đem thử với các
vi khuẩn Gram dương như Bacillus subtilis, Staphylococcus epidermicis,
S. aureus, và các vi khuẩn Gram âm như Klebsiella ozaen cùng
khác vi khuẩn S. citreus, Streptococcus lactis, Acinetobacter calcoaceticus
(15).
Bên phần nimbolid thì tác dụng rất mạnh lên S. aureus, S.
coagulase cũng như nimbic acid lên S. aureus, B. subtilis, S.
coagulase và Diphtheroidae (9).Tính chất gây
kháng thể
(18), chữa loét, khối u (12,18),
giảm hạ đường trong máu (23) đã được đề cập
đến. Một tính chất cũng khá quan trọng là diệt muỗi, chữa
trị sốt rét. Azadirachtin đã cho kết quả hiệu nghiệm theo
thứ tự :
Aedes
togoi = Anopheles stephensi > Culex quinquefasciatus > Aedes aegypti
Chiết
từ lá, isonimbocinolid đã được thử lên Aedes aegypti (11),
alcan Me(CH2)nMe (n = 16,17,24,32) lên Culex
pipiens fatigans (8). Chiết từ hột, dipropyl disulphid
diệt muỗi Aedes aegypti. Những chất có lưu huỳnh đóng
vai trò trong việc xua đuổi không những muỗi mà còn các loài
sâu bọ khác như sâu thuốc lá
Heliothis virescens, sâu
lúa mì H. zea (14). Gedium cũng là một chất chống
sốt rét hiệu nghiệm (17).
Một
tính chất đã từng được biết ở nước ta là dầu sầu
đâu không kích thích da (20) nên phần chiết từ hoa,
lá, cành, rễ đã được pha trộn với nhiều chất khác để
làm thuốc bảo vệ da (4,5), xà phòng liệu pháp (21),
xà phòng chữa nấm da (22). Phần chiết từ hột được
dùng để chữa da đầu, bảo dưỡng tóc, phòng ngừa tóc rụng
(6).
Còn phần chiết từ lá, gỗ, vỏ, thân pha với ethanol 90% thì
được dùng trong việc phòng ngừa và chữa trị viêm lợi,
viêm khớp răng (3). Sau cùng, qua một lãnh vực khác,
tro gỗ thân cây được dùng trong kỹ nghệ đồ gốm : nhờ
kích thước đúng mức, bản chất vô định hình, do đó khả
năng phản ứng lớn, người ta đã đem nó thay thế calcite
trong việc chế tạo kính, men phải nung lên đến 1250 độ.
Như
vậy, từ canh nông, y khoa qua kỹ nghệ, cây sầu đâu đã đóng
góp đắc lực. Tạo hóa đã khéo tổng hợp, chỉ trong một
cây mà không biết bao nhiêu là hóa chất : cây sầu đâu thật
là một nhà máy hóa học tinh vi mà chưa có một thực hiện
nào của con người có thể sánh được. Đặc biệt, trong
số các hóa chất tự nó chế tạo ra, azadirachtin cũng như
salanin, nimbin, deacetylnimbin đã từng được lập công thức
thành thuốc trừ sâu bọ, bảo vệ mùa màng, hoa quả (10),
bên cạnh các chất thuốc khử trùng, chống viêm, chữa loét,
khối u, diệt muỗi, chữa trị sốt rét, bao dưỡng da, tóc,
phòng ngừa thụ thai,.... để chỉ kể một số ứng dụng
thường gặp. Thật dễ hiểu khi thấy những hãng thuốc Hoa
Kỳ muốn ghi văn bằng đoạt chiếm một tài nguyên quí báu
như vậy, một tài nguyên mà nước ta chú trọng về canh nông,
bị nhiều bệnh nhiệt đới hoành hành, không thể không kiếm
cách khai thác.
Thông
tin khoa học và Công nghệ 3 1996,
khoahoc.net
01.2012
Tham
khảo
1-
Neem tree, Azadirachta indica A. Juss. Others meliaceous plants,
Schmutterer Helmut Ed., VCH (Weiheim, Đức 1995)
2-
Le
neem ou arbre-pharmacie du village, Nutranews (10) (2004) 20-23
3-
Keimiat G.m.b.H., Dental care compositions from Azadirachta indica,
Brit.
1,314,136 (1973) 3 tr.
4-
H. Sawanobori, H. Tanaka, K. Saito, Y. Takeuchi, S. Shirasawa, S. Saito,
Melia
azedarach extracts for skin cosmetics,
Japan
77 28,853 (1977)
2 tr.
5-
H. Sawanobori, H. Tanaka, K. Saito, Y. Takeuchi, S. Shirasawa, S. Saito,
Melia
azedarach extracts for skin cosmetics,
Japan
77 28,854 (1977)
2 tr.
6-
A. Latif, Formulation for treating hair, Brit. UK Pat. Appl.
2,000,971
(1979) 2 tr.
7-
S. Siddiqui, B.S. Siddiqui, S. Faizi, T. Mahmood, Isolation of tetranortriterpenoid
from Azadirachta indica Phytochem. (12)
23 (1984) 2899-901
8-
S.R. Lange, Chemistry of alkanes separed from leaves of Azadirachta
indica and their larcival insecticidal activity against mosquitoes,
Schriftenr.
GTZ (1984) 161 (Nat. Pestic. Neem Tree Other Top. Plants) 59-65
9-
W. Rojapano, S. Suwanno, S. Somjaree, T. Glinsukon, Y. Thebtaranont, Mutagenic
and antibacterial testing of nimbolide and nimbic acid, J. Sci.
Soc. Thailand (4) 11 (1985) 177-81
10-
K. Feuerhake, H. Schmutterer, Development of a standardized and formulated
insecticide from a crude neem kernel extract,
Z. Pflanzenkrankh.
Pflanzenschutz (6) 92 (1985) 643-9
11-
S. Siddiqui, S. Faizi, T. Mahmood, B.S. Siddiqui,
Isolation of a new
tetranortriterpenoid from Azadirachta indica Juss (Meliaceae),
Heterocycles
(5)
24
(1986)
1319-24
12-
S. Siddiqui, S. Faizi, T. Mahmood, B.S. Siddiqui,
Two new insect growth
regulator meliacins from Azadirachta indica A. Juss (Meliaceae),
J.
Chem.Soc. Perkin Trans 1 (1986) 1021-5
13-
C. Nishimura, Y. Kumazawa, S. Yamamoto, M. Shimizu, Y. Tamura, T. Normura,
Polysaccharides
as enhancers of antibody formation,
Jpn. Kokai Tokkyo Koho JP
62,167,729 (1987) 6 tr.
14-
M.F. Balandrin , S.M. Lee, J.A. Klocke, Biological active volatile organosulfur
compounds from seeds of the neem tree, Azadirachra indica (Meliaceae),
J.
Agric. Food Chem. (5) 36 (1988) 1048-54
15-
S. Siddiqui, I. Ara, S. Faizi, T. Mahmood, B.S. Siddiqui,
Phenolic tricyclic
diterpenoids from the bark of Azadirachta indica,
Phytochem.
(12)
27
(1988) 3903-7
16-
I. Ara, B.S. Siddiqui, S. Faizi, S. Siddiqui, Structurally novel diterpenoid
constituents from the stem bark of Azadirachta indica (Meliaceae),
J.
Chem. Soc Perkin Trans 1 (1989) 343-5
17-
S.A. Khalid, H. Duddeck, M. Ganzalez-Sierra, Isolation and characterization
of an antimalarial agent of the neem tree Azadirachta indica, J.
Nat. Prod. (5) 52 (1989) 922-7
18-
P.G.K. Kigodi, G. Blasko, Y. Thebtaranoth, J.M. Pezzuto, G.A. Cordell,
Spectroscopic
and biological investigation of nimbolide and 28-deoxonimbolide from Azadirachta
indica, J. Nat. Prod. (6)
52 (1989) 1246-51
19-
S. Garg, G. Doncel, S. Chabra, S.N. Upadhvay, G.P. Talwar, Synergetic
spermicidal activity of neem seed extract, reetha saponins and quinine
hydrochloride, Contraception, (2) 50
(1994) 185-90
20-
S.K. Tandan, S. Gupta, S. Chandra, J. Lal, R. Singh,
Safety evaluation
of Azadirachta indica seed oil, a herbal wound dressing agent,
Fitoterapia
(1)
66
(1995) 69-72
21-
Y. Li, Preparation of therapeutuc toilet containing margosa seed oil,
Faming
Zhuanli Shenqing Gongkai Shuomingshu CN 1297028 (2001) 5 tr.
22-
Y. Li, Medical soap fortinea treatment containing margosa seed oil,
Faming
Zhuanli Shenqing Gongkai Shuomingshu CN 1297029 (2001) 5 tr.
23-
A.S. Chauhan, K.B. Chalasani, S. Surapanini, S.K. Yandrapu, R. Kataram,
G.M. Chary, P.V. Diwan, K.V. raghavan, Therapeutic/edible compositions
comprising herbal ingredients and methods for treating hyperglycemia,
U.S.
Patent Appl. Publ. US 20030180399 (2003)
24-
U. Bandyopadhyay, K. Biswas, A. Sengupta, P. Moitra, P. Dutta, D. Sarkar,
P. Debnath, C.K. Ganguly, R .K. Banerjee, Clinical studies on the effect
of neem (Azadirachta indica) bark extract on gastric secretion and gastroduodenal
ulcer, Life Sci.(24) 75 (2004) 2867-78 |