Kèn
Saranai bập bùng trong mờ ảo
Hận Đồ Bàn ai hát thật
say sưa
Rừng cây kraik thẩn thờ
buốn khôn tả
Lá tơ vàng thương tiếc
hào quang xưa.
Dorohiem Chế Liên
Tục
truyền vào thế kỷ XVII, ở nước Chiêm Thành có một cô
con gái không chồng mà có con, bị cha mẹ cho là hư hỏng,
la mắng đuổi đi,
lại thêm hàng xóm hắt hủi, phải sống lang thang, ngủ dưới
gốc cây, lượm lặt lúa rơi, ngắt hái rau hoang về ăn
đởđói.
Đứa
con trai sinh ra sống lêu lổng, lớn lên làm nghề giữ trâu.
Bị chế nhạo là con hoang, chàng xấu hổ bỏ nhà sang ở làng
Hamubrâu bên cạnh. Ở đây cũng
bị ghanh ghét, chàng lại tức tối dọn về làng Boh Muthuh
gần Phan Rang (5). Có tài bắn cung lại nhờ tướng
mạo vương giả, chàng được
nhà chiêm tinh học của nhà vua Mahataha để
ý và tiến cử vào triều. Vua không có con trai, nuôi chàng
ăn
học, còn gả ngay cả công chúa con mình làm vợ và sau cùng
truyền ngôi báu cho chàng
(2). Một tài liệu khác
kể rằng trước cảnh loạn lạc, một người Thượng gốc
Churư tên Thốt được dân chúng
Chăm và người Thượng bầu
ra làm lãnh tụ đứng ra dẹp
loạn. Loạn dẹp xong, tù trưởng Thốt được
dân chúng tôn lên làm vua (7). Dù sao vua Pô Rômê (từ
danh từ Rama, tức là đức vua
được
thánh hóa, còn gọi Pô Ramê, Pa Rame), theo thiên niên sử của
người Chăm, trị vì từ 1627
đến
1651. Bài ca tụng nêu lên vẻ đẹp
vô song của ông : đầu bằng
vàng, vai đùi bằng đồng
thanh nhẵn bóng, tay đeo nhẫn
lóng lánh, chân mang dày sáng loáng như những tia chớp, mặt
ông chói lọi như vàng, trong suốt như nước thuần khiết
(1).
Là một vị vua sáng suốt, biết tổ chức, ông chăm
lo đời sống nhân dân, nên đất
nước sống trong thái hòa. Ông buộc các lãnh tụ tôn giáo
Bà La Môn và Bani phải sinh hoạt chung với nhau, phân chia những
ngày lễ lớn như các nghi lễ về nông nghiệp cho hợp lý
để
các thầy tế lễ và giáo dân đạo
kia có thể tới tham dự. Nhiều đập
nước lớn dẫn thủy nhập điền
được
xây dựng tại những nơi khô cằn và triền núi để
nhân dân dễ bề canh tác. Nhà vua chọn Krong La (làng Palai Bacon,
xã Hòa Trinh, thị xã Phan Rang bây giờ) làm kinh đô,
cạnh sông Krong Binh, tức là sông Viêu. Nơi nầy trước kia
là kinh đô cũ (Virapura) của
vua Satyavarman, được trồng nhiều
cây kraik (ta phiên âm cây krết) tượng trưng cho uy quyền
nhà vua (7).
Vua Pô Rômê có ba vợ. Bà
thứ nhất là hoàng hậu Bia Suthi (hay Bia Suchi (2),
Bia Thanh Chik (5)) không có con, vua qua xứ Lào tìm thuốc
để
cho vợ có con nối dòng. Ông chẳng tìm ra thuốc nhưng trên
đường
lại gặp và đem từ Đắc
Lắc về một bà vợ thứ hai, sắc tộc Ê đê
(tức Radhé lúc trước) hay Koho (2), công chúa Bia Tan
Chan (hay Bia Thăng Chăn
(3),
Bia Thanh Chanh (5), Bia Suncan (2)). Ông có phước
với bà nầy vì không những bà đã
cho ông nhiều con mà sau nầy bà là người vợ độc
nhất chịu theo ông lên hỏa đàn
khi ông chết và được hỏa
táng (4). Năm 1629, nhân
Văn Phong là một người Chăm
nổi lên đánh phá các làng di
dân người Việt tại Phú Yên, Sãi Vương Nguyễn Phúc Nguyên
sai Nguyễn Phúc Vinh mang quân đánh
dẹp và thành lập Trấn Biên Dinh, lấn sâu vào lãnh thổ Chiêm
Thành tới chân núi Thạch Bi (đèo
Cả). Sau thất bại nầy, Pô Rômê làm hòa và xin cưới con
gái thứ ba của Sãi Vương là công chúa Ngọc Khoa (8)
trở thành Bia Út, tước hiệu hoàng hậu Akaran (7).
Ba bà vợ không hòa thuận với nhau và lắm khi nhà vua phải
rời cung điện để
tránh nghe nhũng cãi vả ồn ào hằng ngày (1). Có
thuyết cho rằng công chúa Ngọc Khoa giả làm gái đi
buôn qua Chiêm Thành. Vua nguyên là người hiếu sắc, nghe tin
có người đẹp, liền cho triệu
vào, say mê sắc chim sa cá lặn của nàng liền cưới làm vợ
thứ ba (5). Bà nầy đặc
biệt là đẹp nhất trong hàng
cung phi mỹ nữ, được vua sủng
ái vô cùng, duy phải cái tật hay làm nũng. Muốn được
độc
quyền tình yêu của nhà vua, thỉnh thoảng bà giả vờ đau,
rên xiết, lăn lóc (8).
Vua sai bốn ngự y giỏi lại hội chẩn, nghe tâu bà không có
bệnh gì thì ra lệnh chém đầu
cả bốn ông.
Theo giả thuyết cho bà bà
là thám tử của chúa Nguyễn thì bà đã
tìm hiểu cây kraik bảo vệ xứ sở là quan trọng đến
bực nào và đòi vua chặt đốn
cho được cây ấy. Sau một thời
gian lưỡng lự, không chịu nghe lời khuyên ngăn
của đình thần, của các nhà
chiêm tinh, vua sai một trăm binh
sỉ cầm rìu ra chặt cây nhưng chặt đến
đâu
thì vết thương hàn gắn ngay lại đến
dấy. Tức giận, vua giật rìu dồn dập bửa vào cây thì máu
phun ra và nghe cả tiếng rên. Vua la lớn :" Cây kraik,
tại sao mày làm hoàng hậu ta đau
khổ ? Làm sao ta để mầy sống
được
? " Đúng vào sau câu hỏi ấy,
cây quỵ sức sụp đổ, máu
tràn lai láng trên đất (1).
Cây bảo hộ bị đốn, như hết
còn được phù hộ, năm
1651, trước một trận giáp chiến với quân Việt, trong khi
quân sĩ và tướng tá chạy lên trốn ở đất
người Thượng (4), chỉ một mình vua Pô Rômê ở
lại kháng cự, bị bắt và hành hình. Cô con gái Pô Mum đem
xác cha về hỏa táng và như đã
nói, chỉ có Bia Tan Chan nhảy vào đống
lửa hy sinh theo chồng, còn Bia Suthi thì lượm được
một chiếc răng để
thờ (1). Ngày nay Pô Rômê và bà hoàng hậu Bia Tan
Chan được thờ trong một cái
tháp xây trên một ngọn đồi
cằn cỗi tại thôn Hậu sanh tức Palai Thươn, xã Phước Hữu,
huyện Ninh Phước, tỉnh Ninh Thuận. Ngưòi lớn tuổi ở đây
bảo đúng ra tháp Pô Rômê không
phải xây ra cho ông vua nầy mà nguyên là tháp của vua cha vợ
.... Còn bà hoàng hậu Bia Suthi thì được
thờ trong một ngôi miếu nhỏ cạnh tháp. Chỉ còn thiếu bà
hoàng hậu Bia Út, có thể đã
được
cho về nước lấy cớ thăm mẹ
đau
trước khi quân Việt tấn công Champa (5). Hàng năm,
vào ngày lễ Katê, người Chăm
lại đây cúng tế như ở tháp
Pô Klaung Garai cạnh Phan Rang (3).
Trước đây
hơn một thế kỷ, cây kraik lạ thường kia đã
được
một tác giả (1)
địnhdanh
là cây vấp Mesua ferrea Linn. thuộc họ Bứa (PHH) hay Măng
cụt (ĐTL) Guttiferae (PHH)
hay Clusiaceae (ĐTL). Mọc
nhiều ở vùng Assam, Myanmar, Hymalaya, nó mang một số tên khác
nhau : nahar, nahor, nagkassar, nagkesar, negkesar, nagkeshara, nagkeshor,
nageshwar (Ấn Độ),
bunga
lawang (Nhật Bản), Pháp gọi nó bois d’anis, bois de fer,
Anh Mỹ ironwood hay Indian rose chesnut. Là một đại
mộc cao 10-20m, tàn rậm, nhánh nhỏ, cây có phiến lá tròn
dài thon, chót nhọn, không lông, hoa cô độc,
thơm, cánh hoa trắng, tiểu nhụy nhiều, bao phấn vàng, chỉ
dính nhau ở đáy. Nó đặc
biệt được tả là một cây
có gỗ rất cứng trong số các cây vấp Mesua khác : vấp
Clemens tức M. clemensorum, vấp sét M. ferruginea, vấp
nhiều hoa M. floribunda, vấp trái to M. macrocarpa (PHH).
Gần đây, theo một học giả
khác (8) thì kraik là cây căm
xe (tên Cao Mên kram kraham) Xylia dolabriformis Benth.
Hay Mimosa xylocarpa Roxb., thuộc họ phụ Trinh nữ Mimosoideae,
họ Đậu Fabaceae hay Leguminosae.
Còn được gọi irul, pyinkado,
mang tên X. xylocarpa (Roxb.) Taubert hay X. kerrii Craib.
et Hutch, nó cũng là một cây đại
mộc cao đến 25m, lá xoan hay
bầu dục, không lông mặt trên, mặt dưới có lông thưa hay
dày, trái cứng nâu đỏ, hột
bầu dục, dẹp, dài. Gỗ nó đo
đỏ
cũng đuợc miêu tả là rất
cứng (PHH). Chỉ so sánh về độ
cứng của gỗ, cả hai cây nầy đều
có khả năng là cây kraik. Còn
nên xem xét thêm về mặt tính chất hóa học, dược học,
duợc liệu và ứng dụng của chúng vì một cây linh thiêng
như kraik ắt phải có ít nhiều dấu ấn gì đặc
biệt.
Thật ra, cây X. dolabriformis
hay X. xylocarpa (hai tên thường được
dùng trong các bản báo cáo khoa học) tương đối
ít được biết ngoài một số
tài liệu học hỏi về tính chất gỗ cây để
dùng nó làm giấy, đặc biệt
về lignin, ảnh hưởng của nhựa lên sức chịu đựng
của gỗ. Về thành phần hóa học, đã
được
tìm ra những ketomanoyl oxid, oxomanoyl oxid, sandara copimaradin -on,
-ol, -diol trong gỗ, dolabri proanthocyanidin trong vỏ cây. Hột
cây chứa đựng protein (albumin
và globulin) gồm có nhiều amin acid cốt yếu trừ cystin và
methionin, một số acid mỡ không bảo hòa mà nhiều nhất là
linoleic acid. So sánh hai thành phần của protein, albumin gồm
có nhiều isoleucin, cystin, methionin, tryptophan, threonin và ít
leucin, lysin, phenylalanin, tyrosin, valin hơn globulin. Còn có những
chất không dinh dưỡng là phenol tự do, tannin, phytic acid, hydrogen
cyanid, trypsin. Dầu ép từ hột cây chứa đựng
nhiều oleic, linoleic, behenic, lignoceric acid và chút ít palmitic,
stearic, cerotic acid cùng phytosterol. Về mặt dược liệu, tính
chất độc nhất được
biết là sự ức chế kết dính tiểu cầu máu do serotonin gây
ra của hydroxy pipecolic acid chiết xuất từ lá cây (15).
Cây Mesua ferrea được
các nhà khảo cứu chú trọng đến
nhiều hơn. Phần cây được
học hỏi nhiều nhất là hột cây và dầu ép ra. Hột cây
chứa đựng nhiều acid mỡ :
myristic, palmitic, stearic, linoleic, arachidic, mammeisin, những coumarin
là ferruol (cũng được tìm ra
trong vỏ cây), mammeigin, mesuarin, mesuol có vị đắng.
Đem
hột cây ép thì có được một
loại dầu nhớt vàng nâu có mùi khó chịu, chứa đựng
nhiều acid mỡ đã thấy trong
hột : palmitic, steraric, arachidic, oleic, linoleic, bên cạnh hexa
decanoic, octa decanoic, octa decatrienoic acid, stearin. Mùi dầu có
thể do các chất carbonyl như acetaldehyd, hexaldehyd, glyoxal mà
lại. Dầu hột cây giàu acid mỡ có thể là một nguồn kỷ
nghệ dầu, đem nhiệt phân thành
dầu thắp. Thành phần của dầu hột còn là các amin acid :
cystin, arginin, serin, citrullin, hydroprolin, prolin, alanin, methionin,
phenylalanin, isoleucin, leucin. Cũng có thể chiết dầu từ những
bộ phận khác của cây : dầu lá cây non giàu copaen và caryophyllen,
dầu hoa cây giàu copaen và germacren, dầu vỏ cây giàu bisabolen
và selinen. Ngoài ra, những mesua xanthon, những hydroxy, dihydroxy,
methyl xanthon, euxanthon, cùng sitosterol đã
được
tìm ra trong gỗ cây, những mesua bixanthon, betulenic acid, epicatechin,
pyrano jacareubin, những mesuferrol, flavonoid epicatechin, trong vỏ
cây, một flavanon glycosid là mesuein trong lá cây, amyrin, mesuaferrol,
những biflavonon mesuaferron, mesuanic acid trong nhị hoa, những
triterpenoid, tanin, samonin và các chất đường
trong hoa và nhị hoa. Nhị hoa được
xem là thành phần môn thuốc cổ truyền Ấn Độ
negkesar (19).
Về mặt dược liệu, cây
Mesua
ferrea cống hiến những chất mansuol, mensuon có tính chất
kháng sinh, hữu hiệu nhất chống Staphylococcus aureus
:
nồng độ tối thiểu ức chế
của mensuon là vào khoảng 30 g/cc tương dương với penicillin
khoảng 0,30 g/cc còn mensuol thì quanh 1% so với penicillin (11).
Những xa nthon như mensuaxanthon, jacareubin, calophyllin, dehydro cyclocyanidin
đề
có tác dụng làm suy nhược hệ thần kinh trung ương, có tính
chất kháng viêm khi thử trên chuột, không có một tác dụng
dược lý nào lên hệ thống tim mạch khi thử lên ếch và
chó (16). Tinh dầu hột cây có tính chất chống hen
suyển (13), khử vi khuẩn Pseudomonas solanacearum
rất hữu hiệu (12).
Được
khảo sát về tính chất ngừa thai, dưỡng thai (14),
hoa cây đem trộn với nhiều
cây khác như hột tiểu hồi Foeniculum vulgare, hột kha
tử Terminalia chebula, củ nga truật Curcuma zedoaria
trong
một liều thuốc cổ truyền Ấn Độ
có khả năng ức chế 60% sự
kết thai từ đấy tăng
gia tỷ lệ hư thai với liều lượng 500 ml/kg trên chuột (17).
Cây cũng được dùng trong cuộc
chữa chứng khó tiêu và những bệnh ở thận (23).
Một phần chiết của cây có tính chất ức chế tác dụng
của pancreatic lipase ở tụy (25), của glucotransferase
nên được cho vào thức ăn
hay thuốc đánh răng
chống viêm khớp răng (28),
chống những vi khuẩn Gram âm, Gram dương và kỵ khí Trichophyton
mentagrophytes, Candida albicans (22) nên được
dùng trong một liều thuốc chống trứng cá (21), trong
mỹ phẩm bảo vệ da (20) kích thích tóc mọc (26).
Tinh dầu hoa cây rất thơm, nhờ những chất aldehyd, được
dùng để ướp hương xà phòng
(10).
Hoa búp là một thuốc thiên nhiên nhuộm vàng
(9).
Dầu trong thuốc mỹ phẩm Krameris được
chiết xuất từ hoa búp (1 kg) với hexan (4 lần 2 lít) đun
sôi rồi đem tẩy màu với than
và cho cô lại (14,5 g) (27) . Trong kỹ nghệ, dầu hột
cây đã được
dùng làm nhựa, vec ni, nhựa polyester và được
xem là vật liệu rẻ tiền để
tổng hợp dầu biodiesel (24).
Tuy người Chăm
lúc trước chẳng biết những tính chất dược liệu nầy
của cây kraik ngày nay được
khoa học chứng minh, rất có thể họ đã
dùng các bộ phận của cây trong các liều lượng như đã
thấy trong nền y khoa cổ truyền Ấn Độ.
Nếu thật vậy thì rất dễ hiểu kraik được
xem như là cây bảo hộ xứ sở, tương đương
với cây neem Azadirachta indica (6a) đã
được
người Ấn Độ tôn vinh là "nhà
dược phẩm" trong làng. Bây giờ còn cần phải xác định
kraik là cây nào và kiếm cách khai thác những tính chất dược
liệu của nó trước khi người ngoại quốc lại dành ghi văn
bằng sáng chế như đã thấy
với cây neem Ấn Độ và nhiều
cây khác trên thế giới (6b).
Nghiên cứu và
Phát triển 1(54) (2006) 53-7
khoahoc.net 05.2007
Tham khảo
1- Antoine Cabaton, Nouvelles recherches, Hymne
à Pô Ramé,
Ernest Leroux Ed. (1901) Paris 112-4
2- Marcel Ner, Rapport. V- Trésors, traditions
et vestiges chams. Traditions cham en pays kil, BEFEO (1930) 572-3
3- Trần Kỳ Phương, A la recherche d’une
civilisation éteinte,
nxb Thế giới (1993) Hà Nội 76-83
4- Bernard Bourotte, Histoire des Montagnards
du Sud-Indochinois. Chute de la pricipauté des Che Ma, BSI (1) XXX
(1995) 40
5- Ngô Văn
Doanh,
Tháp cổ Chămpa. Sự
thật và huyền thoại,
nxb Văn
hóa-Thông tin (1994) Hà Nội 187-96
6- Võ Quang Yến a) Thuốc trị bá chứng
từ cây sầu đâu,
Thông
tin khoa học và Công nghệ Huế (3) (1996) 3-34 ; b) Thuốc
men thức ăn và văn
bằng, Thông tin khoa học và Công nghệ Huế (3) 33
(2001) 37-42
7- Nguyễn Văn
Huy, Tìm hiểu cộng đồng
người Chăm tại Việt Nam. 7-
Cố gắng tồn tại trong khó khăn,
Thông
Luận 174 (2003) 16-20
8- Hương Giang Thái Văn
Kiểm,
Trên
đường Nam tiến
theo dấu hai bà Ngọc Vạn và Ngọc Khoa, Nhớ Huế, Westminster,
California 15 (2004) 75-86
9- C.D. Mell, Interesting sources of natural
dyestuffs, Textiles Colorist 53 (1931) 30-2, 100-3, 187-90,
268-70
10- N.C. Deb, Chemical examination of the stearin
from the seeds of Mesua ferrea Linn. (Nag-Keshor). I- Ind.
Soap J. 8
(1941) 15-7
11- D.P. Chakraborty, M. Purkayastha, P.K.B. Bose,
Antibiotic
properties of some constituents of Mesua ferrea, Proc. Nat. Onst.
Sci. India
25B
(1959) 8-11
12- A. Kar, S.R. Jain, Antibacterial activity
of some Indian indigenous aromatic plants, Flav. Ind. 2 (2)
(1971) 111-3
13- M.B. Bhide, P.Y. Naik, R.S. Joshi, Studies
on the antiasthmatic activity of Mesua ferrea, Bull. Haffkine Inst.5
(1)
(1977) 27-30
14- P.K. Meherji, T.A. Chetye, S.R. Munshi, R.A.
Vaidya, D.S. Antarkar, S. Koppikar, P.K.Devi, Sreening of Mesua ferrea
(Nagkesar) for estrogenic and progestational activity in human and experimental
models, Ind. J. Exp. Biol. 16 (8) (1978) 932-3
15- L. Mester, L. Szabados, M. Mester, N. Yadav,
Identification
of carbon-13 spectroscopy of trans-hydroxypipecolic acid, a new inhibitor
of platelet aggregation induced by seretonin in the leaves of Xylia xylocarpa,
Planta Medica 35 (4) (1979) 339-41
16- C. Gopalakrishnan, D. Shankaranarayanan, S.K.
Nazimudeen, S. Viswanathan, L. Kameswaran, Antiinflammatory and CNS
depressant activities of xanthones from Calophyllum inophyllum and Mesua
ferrea, Ind. J. Pharm. 12
(3) (1980) 181-91
17- C. Seshadri, S.R. Pillai, Antifertility
activity of a compound ayurvedic preparation, J. Sci. Res. Plants
& Med. 2 (1-2) (1981) 1-3
18- D. Konwer, S.E. Taylor, B.E. Gordon, J.W.
Otvos, M. Calvin, Liquid fuels from Mesua ferrea L. seeds oil,
J. Am. Oil Chem. Soc.66
(2) (1989) 223-6
19- R. Banerji, A.R. Chowdhury, Mesua ferrea
: chemical constituents and biological activity, Ind. J. Forestry15
(3)
(1993) 207-11
20- K. Kose, T. Ikeda, K. Kondo, S. Uehara, Mesua
for skin cosmetics, Jpn. Kokai Tokkyo Koho JP 10265361 (1988)
8 tr.
21- E. Bombardelli, A. Cristoni, P. Morazzoni,
R. Seghizzi, Pharmaceutical and cosmetic antiacne formulations containing
plant extracts (Krameria triandra or Mesua ferrea), PCT Int. Appl.
WO
9817293 (1988) 14 tr.
22- E. Bombardelli, P. Morazzoni, Pharmaceutical
and cosmetic formulations with antimicrobial activity, PCT Int.
Appl. WO 9817294 (1988) 13 tr.
23- T.J. Dennis, K. Akshaya Kumar, Constituents
of Mesua ferrea, Fitoterapia 69 (4) (1988) 291-304
24- B.K. De, D.K. Bhattacharya, Biodiesel from
minor vegetable oils karanja oil and nahor oil, Fett Lipid 101
(10)
(1999) 404-6
25- N. Gowéadia, T.N. Vasudevan, Studies on
effect of some medicinal plants on pancreatic lipase using spectrophotometric
method, Asian J. Chem. 12 (3) (2000) 847-52
26- O. Nakaguchi, M. Katsada, M. Matsuyama, T.
Hashigaki, T. Sakano, K. Onishi, Y. Yamaguchi, Y. Okamoto, Plant active
ingredient or extract for hair restoration, Jpn. Kokai Tokkyo Koho
JP
2001031528 (2001) 10 tr
27- Indena S.P.A. Italy, Pharmaceutical and
cosmmetic formulations with antimicrobial activity, Cont-in-part
of U.S. Ser. N0 254 .038 (2001) 5 tr
28- K. Oshima, T. Mitsunaga, Glucosyltransferase
inhibitor containing specified plant extracts, Jpn. Kokai Tokkyo
Koho JP 2002187843 (2002) 9 tr |