Cây
chi thơm lạ thơm lùng,
Thân
cây tới lá, người trồng cũng thơm.
Ca
dao
Cách
đây hơn 20 năm, nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường trong bài Cây
hồi (tập văn Ai đã đặt tên cho dòng sông) đã
kể chuyện mánh khóe ác nghiệt của người Tàu lặp lại
biện pháp Trương Phụ thời nhà Minh ra tay tiêu diệt cây hồ
tiêu, lần nầy qua trả giá đắt mua vỏ cây hồi, hòng làm
tiệt giống ở nước ta. Cạnh tranh kinh tế về sản xuất
cây hồi nầy giữa hai vùng biên giới Việt-Hoa mãnh liệt
đến nỗi mọi phương sách đều tốt, bất chấp tình nghĩa,
đạo lš. Cũng may mà người dân ta chỉ sušt bị lừa thôi
....
Cây
hồi là một loại hương liệu quí giá trong thức ăn, nước
uống cũng như trong Đông dược, Tây y. Nếu ở bên nước
ta, trái hồi hương là hương vị tô phở hay món xào ca ri,
ở Nam Âu tinh dầu hồi là nền tảng một loạt rượu khai
vị vùng Địa Trung Hải, từ ouzo bên các nước Hy Lạp,
Nam Tư, Thổ Nhĩ Kỳ phía đông bắc, qua raki, pastis, sambucca
ở Ý,
anisette
ở Pháp miền tây nam. Hỗn hợp với tinh
dầu những cây khác, nó là thành phần của những rượu absinthe,
grappa, ratefia, chartreuse, .... Gần đây, Bắc Âu cũng dùng
hồi làm rượu
brandy. Không phải tình cờ mà trước
chiến tranh, từ những năm 30, người Pháp đã ra sức phát
triển cuộc trồng hồi ở miền Bắc nước ta và hãng Schimmel
lo chuyên chở về mẫu quốc. Mức tối cao đạt được vào
những năm thập niên 40, diện tích đồn diền trồng hồi
lên đến 100 ha. Người Pháp đầu tư vào cuộc trồng hồi
nầy vì biết vùng đất biên giới Việt-Hoa có đất tốt
nhất để trồng hồi : Vân Quang, Cao Lộc, Lộc Bình, Văn Lãng,
Tràng Định, .... quanh Lạng Sơn, đối diện với Hải Nam,
Long Châu bên Quảng Tây, chiếm một diện tích tổng quát trên
dưới một ngàn hecta.
Tên
cây hồi có phần rắc rối vì ở suốt miền Đông Á có nhiều
cây cống hiến tinh dầu tương tự. Giữa thế kỷ XVIII, nhà
thảo mộc kiêm bác sĩ người Thụy Điển Carl von Linné đặt
tên cây hồi là Badanifera anisata từ các danh từ badiane,
badiania, sau đó ít lâu ông cho đổi ra Illicium anisatum L.
Qua năm 1825, von Siebold đặt tên những cây hồi mọc trong các
sân chùa Nhật Bản là Illicium japonicum Sieb., năm 1837
đổi thành Illicium religiosum Sieb. et Zuss., thật ra chỉ
là cây
Illicium anisatum nói trên. Người bản xứ gọi
cây hồi Nhật nầy (Japanese star anise) là shikimi, tên Tàu là
mangtsao, có trái chứa chất độc, tinh dầu lại có mùi hôi,
đã từng được sắp vào họ Mộc Lan Magnoliaceae. Năm
1886, nhà thảo mộc trẻ tuổi người Anh Joseph Dalton Hooker
xác định cây hồi cánh sao, đặt tên Illicium verum Hook.f.
(f. viết tắt chữ fils nghĩa là con, để khỏi lầm lẫn với
ông cha, sir William Jackson Hooker, cũng là một nhà thảo mộc)
tức là đại hồi, hay đại hồi hương, thường được gọi
là hồi Tàu hay hồi sao (Chinese star anise hay rút
gọn star anise). Người Pháp có tên essence de badiane.
Ở
miền núi nước ta (Lạng Sơn, Sa Pa, Đà Bắc, Tây Bắc, Trường
Sơn) có một loại cây có mùi hôi, cũng chứa chất độc mà
ta gọi hồi núi hay đại hồi núi là Illicium griffithii Hook.f.
et Thoms, chưa được dùng, ở Ấn Độ thường được biết
qua tên hồi giả Bombay. Gần đây, cây Illicium floridanum Ellis
mang tên hồi Mỹ, hồi bụi (American star anise, star bush)
còn cây Illicium parviflorum ở Florida thì được gọi hồi
vàng, hồi đầm (yellow star anise, swamp star anise). Ngoài
ra còn có một loạt các Illicium khác : I. augustisepalum,
I. brevistylum, I. difengi, I. dunnianum, I. flabellifolia, I. floridanum,
I. majus, I. microanthum, I. parviflorum, I. tashiroi, I. tsangii. Bên
cạnh các Illicium nầy thuộc họ Hồi Illiciaceae, còn
có hai cây hồi Pimpinella anisum L. (lúc trước có tên
Anisum
vulgare Gartner) tức là dương hồi hay dương hồi hương
và Foeniculum vulgare Mill. tức là tiểu hồi (fennel,
fenouil), cả hai thuộc họ Hoa tán Umbelliferae. Theo
lời giải thích của Gs Đỗ Tất Lợi, hồi là về, hương
là thơm ; thịt thiu hay tương thối cho ít đại hồi vào thì
mùi thơm lại trở về ngay, do đó có tên thơ mộng "bát giác
hồi hương". Trái chín phơi khô của cây hồi mang tên Fructus
Anisi Stellati hay Anisatum stellatum. Vì nhiều tên lẫn
lộn như vậy, xác định cây không dễ và lắm khi các nhà
khảo cứu gọi lầm tên. Trong một phần lớn các bản báo
cáo, danh từ anise đã được dùng mà các tác giả thận
trọng không chỉ rõ loại hồi nào tuy ngày nay người ta thường
cho anise là Pimpinella anisum tức là dương hồi.
Đại
hồi, dương hồi
Chất
chính có nhiều trong đại hồi Illicium verum là chất
trừ sâu anethol. Anethol cũng là chất chính trong tinh dầu chưng
cất và kết tinh từ hoa hồi ở Lạng Sơn mà một phản ứng
biến hóa thành obepin, tiếp tục tác dụng với các keton, aldehyd
để cống hiến những chất thơm (18). Tinh dầu đại
hồi (75-90% anethol) cũng là nguyên liệu sản xuất anisaldehyd
(19).
Trái đại hồi còn chứa feniculin, khác với dương hồi : chất
nầy đã được dùng để phân biệt hai loại tinh dầu kia.
Khi đốt nóng, feniculin biến thành anisoxid, không có trong tinh
dầu dương hồi. Anethol cùng với estragol là hai phenyl propanoid
cống hiến vị ngọt dịu. Những veranisatin có tính chất giảm
nhiệt ở liều lượng nhỏ (1 mg/kg), nhưng qua 3 mg/kg chúng
gây co giật dó thể dẫn đến chết (10). Đại hồi
còn chứa methoxy cinnamaldehyd, những glycolipid, phospholipid gồm
có phosphatidyl inositol, phosphatidyl serin, .... cùng những sterol
như sitosterol, campesterol, những kaemferol, quercetin tự do hay
ở thể rhamnosid, xylosid. Lá đại hồi chứa nigranoic acid methyester
có sườn cốt cycloartan mà một chất đồng phân đã tìm ra
được trong Illicium dunnianum. Tinh dầu đại hồi và dương
hồi đã được dùng làm thuốc kìm khuẩn trong đồ ăn chống
những trùng như Escherichia coli, Bacillus subtilis, Samonella enteridis
(9)
..
GÀn đây, nhiều văn bằng sáng chế xứ Luthuani cho trộn đại
hồi trong một loại brandy làm thuốc bổ, chống co thắt,
kích thích tim, tiết dịch tiêu hóa (17). Theo tài liệu
cổ, đại hồi có tác dụng đuổi hàn, kiện tỳ, khai vị,
dùng chữa nôn mửa, đau bụng, bụng đầy chướng, giải độc
của thịt, cá. Thường dùng hiện nay làm thuốc giúp sự tiêu
hóa, ăn uống không tiêu, nôn mửa, đau nhức tê thấp (ĐTL).
Cũng
như ở đại hồi, hóa chất chính trong dương hồi Pimpinella
anisum là trans-anethol 57,4% từ toàn cây, 75,2% từ dầu trái
với một liều gây chết LD50 trên ruồi là 75 µg/một
con. Trong tinh dầu hồi Việt Nam, số lượng trans-anethol là
80-95% trong trái, 55-57% trong lá, còn anethol thì chỉ 0,04 và
0,07% (3). Bên cạnh anethol, đã được tìm ra carvon,
estragol, limonen, carophyllen, pinen, camphen, phellandren, anisketon.
Trái hồi còn chứa acid mỡ, coumarin, flavonoid, stigmasterol tự
do hay ở thể palmitat, stearat. Rễ cây hồi chứa geijeren, zingireben,
bisabolen. Còn trong tinh dầu hồi thì đã được tìm ra nhiều
sterol mà nhiều nhất là sitosterol. Đem thử trong âm đạo và
tử cung chuột, thỏ, tinh dầu hồi nhờ trans-anethol có hoạt
động estrogen, nghẽn chặn hiệu ứng của testosteron vào túi
tinh dịch, của progesteron lên âm đạo (1), được
dùng để làm dịu những triệu chứng tuyệt kinh, phòng ngừa
những bệnh loãng xương, đau tim, ung thư (28). Có
tính chất co thắt (21), chống oxi hóa (22),
nó được dùng làm thuốc che chở da, kích thích tóc mọc,
chống phình tĩnh mạch, bảo vệ phòng ngữa phóng xạ, điều
biến chất kích thích trong cà phê. Bột hồi dùng trong thuốc
viên chống u khối tá tràng (15). Cây hồi trộn với
khoai, trứng, đường,..làm thức ăn cho ong mật. Trái hồi
được dùng trong nước tương, dung dịch nhũ tương, giấm
bổ sức khỏe. Rễ hồi trộn với la khoai, lá trà, hoa hồng
,.. làm thuôc hút. Hương hồi được sự dụng làm thơm thức
ăn hải sản, thuốc đánh răng, khử hơi miệng. Nhờ anisaldehyd,
tinh dầu hồi có tính chất chống nhạy, những loại Dermatophagoides
farinae, D. pteronyssinus (27) như trong tinh dầu tiểu
hồi Foeniculum vulgare nhưng trong tinh dầu nầy hoạt chất
fenchon, nhiều gấp 20,3 lần anisaldehyd, đóng vai trò quan trọng
hơn (25).
Tiểu
hồi, hồi Nhật
Cũng
như đại hồi và dương hồi, tiểu hồi Foeniculum vulgare
chứa đựng nhiều trans-anethol, 22 mg mỗi trái bên cạnh fenchon
có thể đạt đến 10 mg mỗi 100 trái. Có loại tiểu hồi
chứa đựng nhiều fenchon (70 mg/100ml tinh dầu) hơn anethol (6
mg). Trong tinh dầu tiểu hồi còn có estragol, tocopherol, coumarin,
những glycosid, arabinosid đủ loại, những flavon, flavonol, limonen,
rotundifolon. Hương vị trái tiểu hồi phát xuất từ những
chất dễ bốc hơi, trong số ấy đã được thức biệt thujen,
pinen, phellandren, ocimen, cymen, caren, camphon, farnesen, cadinen, những
anisol, .... Lá tiểu hồi chứa đựng fenicularin, nelumbosid, isohamnetin.
Trong rễ tiểu hồi đã đuợc tìm ra những coumarin như umbelliferon,
bergapten, terpinen, terpinolen, pinen, myrcen, phellandren, cymen, limonen,
myristicin, petersilienapiol. Đặc biệt tiểu hồi cống hiến
một số sinh tố : những vitamin A, B1, B2,
C, E, PP, nhưng cũng chứa đựng những mycotoxin như aflatoxin
B1, B2, G1, G2, rubratoxin,
citrinin, zearalenon, sterigmatocystin. Nhờ có mùi thơm, trái tiểu
hồi được dùng để ướp hương dầu mè, thuốc làm tóc
mọc, chữa da, gội đầu, đánh răng, khử hơi miệng, mùi
chân tay. Tiểu hồi có tính chất kháng sinh, nhuận tràng, lợi
tiểu, được dùng để chữa hen suyển (2), tiêu chảy,
đầy hơi, chống đau, giảm nhiệt (14), chống co thắt,
kích thích ăn ngon, giảm hạ đường trong máu (12),
giảm hạ cholesterol nhờ petroselinic acid (11). Trái
tiểu hồi nhờ những tính chất của anethol đã được dùng
để khử trùng, trị giun sán (6) chống bệnh bạch
cầu(4,8), giảm hạ các hiệu ứng phụ các thuốc
chữa ung thư như adriamycin, cyclophosphamid, đồng thời tăng
gia sự miễn dịch của cơ thể (7). Nó còn có tính
chất chống nấm(24), chống oxi hóa nhờ oleanolic acid,
glucosylsinapyl alcool và glycosyl oxybenzoic acid (13), những
miyabenol và những feniculosid (16). Về mặt diệt trùng,
tinh dầu hồi (85,63% anethol) chống rất hữu hiệu Escherichia
coli, Listeria monocytogenes, Salmonella typhimurium, Staphylococcus aureus
(26).
Cây
hồi Nhật Illicium anisatum, còn có tên I. religiosum
ít dùng, lúc đầu được gọi shikimi no ki hay ashikimi, nay rút
gọn lại shikimi. Từ nhiều thế kỷ, người ta đã biết trái
cây nầy có tính chất gây co giật. Năm 1881, nhà hóa học
J.F. Eykman chiết xuất một vài miligam một chất độc kết
tinh còn uế tạp đặt tên shikimin. Sau đó nhiều công tác
khác cũng đề cập đến shikimin nhưng không cho rõ những tính
chất của nó. Phải đợi đến năm 1952 mới thấy J.F. Lane
và các cộng tác viên thành công làm ròng và đặt tên anisatin.
Cấu tạo dần dần được xác định bên cạnh những chất
đọc tương tự khác, neoanisatin, noranisatin, nordeoxy anisatin,
pseudo anisatin mà thể dáng thấy rõ qua quang tuyến X. Sau nầy,
nhiều sesquiterpen khác cũng được tìm ra : deoxy pseudo anisatin,
deoxy majucin, những anisalavcton, sesquiterpen lacton, những phenyl
propanoid glycosid trong trái hay vỏ trái. Trái và lá hồi Nhật
còn chứa catechin, epicatechin, proanthocyanidin, flavano, procyanidin.
Tính chất co giật của anisatin đã được thực nghiệm : tiêm
vào chuột, nó làm tê liệt cơ quan hô hấp và gây chết ở
liều lượng 0,7 mg/kg. Những phần chiết từ lá, rễ, vỏ
cây cũng có tác dụng tương tự. Tiêm vào tĩnh mạch mèo liều
lượng 0,02-0,04 mg/kg, nó tăng gia tạm thời động mạch cảnh,
động mạch vành và lưu lượng máu xương chậu động mạch.
Những bản báo cáo về cây shikimi dưới tên I. religiosum
gọi
chất độc là hananomin bên cạnh chút ít estragol (tức là methy
chavicol) và eugenol, acid mỡ, những sterol mà nhiều nhất là
sitosterol. Tinh dầu trái ở liều lượng nhỏ gây cơn giật
ở chuột trước khi giết chết ; với liều lượng lớn hơn,
tinh dầu ấy có thể giết chết cả chó. Shikimi có tính chất
chống ấu trùng muổi Culex quinquefasciatus (20),
cống hiến shikimic acid dùng làm thuốc hủy hoại động vật
gặm nhắm, đặc biệt chuột thui (5), hay trong thuốc
làm mọc tóc (23).
Những
loại hồi khác
Những
loại hồi khác cũng bắt đầu được nghiên cứu. Vỏ trái
cây I. majus Hoopk.f. et Thoms chứa anisatin, majucin, neomajucin,
những chất độc neosatin và oxoneosatin gây co giật ở chuột,
những sesquiterpen lecton loại anisatin. Safrol, linalool, limonin
được xác nhận trong tinh dầu vỏ trái vừa I. majus vừa
I.
microanthum Dunn. Vỏ cây I. difenji B.N. Chang (hay
I.
jadifengpi) chứa magnolol, sitosterol, những epiisopimaric, abietatetranoic,
mangiferolic, mangiferonic, betulinic acid, limonen, linalool. Hai chất
sau nầy cũng đã được tìm ra trong I. brevistylum
bên
cạnh cineol, terpinol. Trong thân lá I. dunnianum có sesquilignan,
trong vỏ trái có neodunniamin, deoxy pseudoanisatin. Phần chiết
chứa những phenyl propanoid. Nhân một cuộc tìm kiếm những
sesquiterpen lacton trong các loại Illicium, dunnianin, dibenzoyl
dunnianin, deoxy oxodunnianin, pseudoanisatin cùng những floridanolid
đã được tìm ra trong I. floridanum Ellis. Chất biocyclo
illicinon asaron acetal trong gỗ cây I. tashiroi tăng gia cholin
acetyl transferase ở neuron vách chuột. Thân lá I. angustisepalum
chứa
đựng abietan diterpen và prezizaan sesquiterpen. Phần chiết từ
I.
tsangii cống hiến một loạt tsangan là những sesquiterpen
có sườn cốt allohimachalan, megastigman hoặc murolan, hoặc santalan
và isocampherenan. Sau cùng, những cyclo parvifloralon cùng những
lacton parviflorid, cyclo parviflorid đã được chiết xuất từ
I.
parviflorum ở Bắc Mỹ.
Trong
thị trường, trái hồi được biết nhiều nhất là nguyên
liệu dùng để làm rượu khai vị hay rượu tiêu cơm. Sau đây
là một vài công thức làm rượu.
Liqueur
d’anis
: 500 g rượu 95°, 500 g đường, 30 g hột hồi, 2
cái trứng, 320 g nước.
Chartreuse
:
500 g rượu 95°, 500g đường, 1 g rễ bạch chỉ, 10 g hột tiểu
hồi, 1 g hột dương hồi, một nhúm bột nghệ, 700 nước.
Ratafia
aux épices
: 50 g rượu 95°, 100 g đường, 5g hột thìa là,
5 g hột cúc gai, 5 g hột rau mùi, 5 g hột đại hồi, 5 g hột
dương hồi, 5 g hột tiểu hồi, 5 g trái mọng bách xù, 250
g nước.
Nguyên
tác cách thức làm rượu nói chung là ngâm các hột trong rượu
95°, cho tan đường trong nước rồi trộn với nhau ít lâu
trước khi dùng. Trứng chỉ lấy lòng trắng cho vào nước
dùng.
Tin
tức Khoa học và Công nghệ 3(29) 2000,
khoahoc.net
06.2011
Tham
khảo
1-
A. Sharaf, N. Goma,
Phytoestrogens and their antagonism to progesterone
and testosterone, J. Endocrinol.
31(3) (1965) 289-90
2-
Z.P. Kostennikova, O.I. Belova, T.V. Grigor’eva, K.I. Varentsova, M.N.
Lyakina, Evaluation of the quality of the Traskov antiasthmatic mixture,
Farmatsiya
(Moscou) 25(4) (1976) 60-3
3-
Hoang Van Phiet, Hoang Thanh Huong, Mai Nghi, Basic study of Lang Son
anise as a contribution to plant chemistry, Tap san Hoa hoc 17(4)
(1979) 12-6
4-
Y. Liu, Pharmaceutical composition for treating nonlymphatic leukemia
and its components, Eur. Pat. Appl. EP 203,386 (1986) 13 tr.
5-
. Yamada, Rodenticides for moles, Jpn. Kokai Tokkyo Koho JP
6245,508 (1987) 6 tr.
6-
I. Yasuda, T. Hamano, I. Takano, T. Seto, I. Murata, S. Miyazawa, M. Oda,
T. shibuya, Anthelminthic effects of Chinese medicines. III. Lethal
and inhibitory effects of antyu-san and fennel components in Anisakis type
I larvae, Kenkyu Nenpo-Tokyo-toritsu Eisei Kenkyushuo (39) (1988)
24-7
7-
Y.G. Liu, Plant materials as immunostimulants for decreasing side effects
in cancer chemotherapy,
Can
CA 1,264,474 (1990) 22 tr.
8-
Y.G. Liu, Safe antileukemia drug comprising harringtonine, homoharringtonine,
anethole, oleanolic acid, and ginsenoide, Can CA 1,267,845 (1990)
8 tr.
9-
H. Fujita, T. Okumura, M. Hasegawa, K. Pponma, Bacteriostatic agents
containing star anise powders or extracts for foods, Jpn. Kokai
Tokkyo Koho JP 04,278,069 (1992) 6 tr.
10-
E. Okuyama, T. Nakamura, M. Yamazaki, Convulsants from star anise (Illicium
verum Hook.f.),
Chem. Pharm. Bull. 41(9) (1993) 1670-1
11-
M. Then, G. Petri, B. Simandi, S.erneczky, Biologically valuable substances
of common fennel (Foeniculum vulgare Mill.). I. Comparison and evaluation
of samples extracted by conventional and supercritical methods,
Olaj. Szappan, Kosmet (Hung) 44(4) (1995) 146-51
12-
G.S. Essway, H.M. Sobbhy, H.A. El-Banna, The hypoglycemic effect of
volatile oil of some Egyptian plants, Vet. Med.J. Gisa 43(2)
(1995) 167-72
13-
R. Nakayama, H. Kikuzaki, N. Nakatami, H. Horiuchi, Antioxidative activity
of constituents from fennel seeds, Nippon Kasei Gakkaishi 47(12)
(1996) 1193-9
14-
M.O.M. Tanira, A.H. Shah, A. Moshin, A.M. Ageel, S. Qureshi, Pharmacological
and toxicological investigations on Foeniculum vulgare dried fruit extract
in experimental animals, Phytother. Res. 10(1) (1996)
33-6
15
Y. Pan, G. Chen, J. Sun, L. Xiao, Bismuth aluminate granules for peptic
or duodenal ulcer,
Faming Zhuanli Shenqing Gongkai Shuomingshu CN
1,150,024 (1997) 10 tr.
16-
M. Ono, C. Masuoka, Y. Ito, Y. Niiho, J. Kinjo, T. Nohara, Antioxidative
and antihyaluronidase activities of some constituents from Foeniculi Fructus
(fruit of Foenniculum vulgare Miller), Food Sci. Technol. Int. Tokyo
3(1)
(1997) 53-5
17-
G. Sargunas, G. Daniuniene, C. Talacka, S. Aleksiunas, J. Audrioniene,
E. Jokubauskis,
Formulation for alcoholic bitters, Lith. LT
3,679 (1996) 9tr. ; LT 3,690 (1996) 10 tr. ; LT 3,773 (1996) 7 tr.
; 4,127 (1997) 9 tr. ; LT 4,134 (1997) 9 tr.
18-
Le Thi Anh Dao,
Transformations of anethol from Vietnamese anis oil
fragrant products,
Tap chi Hoa hoc 35(1) (1997) 82-4
19-
Mai Ngoc Chuc,
Preparation of anisaldehyde from essential oil of Illicium
verum, Hoa hoc va Cong nghiep Hoa chat (5) (1997) 30-2
20-
T. Ikeda, K. Nagata, H. Honda, T. Shono, T. Narahashi, Insecticidal
activity of sikimi extract and its modulation of the GABA receptor channel,
Pesticide
Sci.52(4) (1998) 337-42
21-
M.H. Pourgholami, S. Majzoob, M. Javadi, M. Kamalinejad, G.H.R. Fanaee,
M. Sayyah, The fruit essential oil of Pimpinella anisum exerts anticonvulsant
effects in mice, J. Ethnophar. Iran 66(2) (1999) 211-5
22-
I. Gulcin, M. Oktay, E. Kirecci, O.I. Kufrevioglu, Screening of antioxidant
and antimicrobial activities of anise (Pimpinella anisum L.) seed extracts,
Food
Chem.
83(3) (2003) 371-82
23-
I. Sakaguchi, N. Ikeda, M. Matsuo, M. Nakayama, K. Kato, Hair growth
stimulants containing Illicium extracts, Jpn. Kokai Tokkyo Koho
JP
2003012470 (2003) 6 tr.
24-
N. Mimica-Dukic, S. Kujundzic, M. Sokovic, M. Couladis, Essential oil
composition and antifungal activity on Foeniculum vulgare Mill. obtained
by different distillation conditions, Phytoth. Res. 17(4)
(2003) 368-71
25-2-
H.S. Lee, Acaricidal activity of constituents identified in Foeniculum
vulgare fruit oil against Dermatophagoides spp. (Acari : Pyroglyphidae),
J.
Agric. Food Chem.
52(10) (2004) 2887-9
26-
I. Dadalioglu, G.A. Evrendilek, Chemical compositions and antibacterial
effects oils of Turkish oregano (Origanum monutiflorum), bay laurel (Laurus
nobilis), spanish lavender (Lavandula stoechas L.), and fennel (Foeniculum
vulgare) on common foodborne pathogens, J. Agric. Food Chem. 52(26)
(2004) 8255-60
27-
H.S. Lee, p-Anisaldehyd acaricidal component of Pimpinella anisum seed
oil against the house dust mites Dermatophagoides farinae and Dermatophagoides
pteronyssinus,
Planta Medica 70(3) (2004) 279-81
28-
N. Tabanca, S.I. Khan, E. Bedir, S. Annavarapu, K. Willett, I. Khan, N.
Kirimer, K.H.C. Baser, Estrogenic activity is isolayted compounds and
essential oils of Pimpinella species from Turkey, evaluated using a recombinant
yeast screen, Planta Medica 70(8) (2004) 728-35
|