Em sắp xa thành
phố
Vý
lại đất hương tràm,
Hỏi em thích gì nhất
Em cười : hoa vông vang
!
Thanh
Trắc Nguyễn Văn
"Thôi
thế cũng đủ làm Đẩu sung sướng đến rưng rưng nước
mắt. Tay vẫn cầm lá thư, lơ đãng,
chàng lững thững đưa bước ra phía
đồi sau nhà. Trời mát ! tóc thoảng nhẹ bay phất phơ
trên trán bâng khuâng vô tình đứng trông mấy bông vông vang
phất phơ bên bụi cỏ đương kín
đáo cúp lại trong buổi mai... và man mác hy vọng"
(1)
Trong
những năm thập niên 40, hầu
hết các học sinh Việt Nam đều có đọc Hoa vông
vang của Đỗ Tốn, được giải
Tự Lực Văn Đoàn, và ít nhiều đều có mơ mộng với
mối tình đầu của mình. Tác giả đã khéo tả tâm trạng
của chàng thiếu niên yêu đương tha thiết mà chẳng dám thổ
lộ với người mình yêu, cho đến
lúc nàng lên xe hoa về nhà chồng. Truyện tác động
vào trái tim tuổi trẻ khi đã một lần yêu trộm nhớ thầm
! Vậy mà hồi ấy tôi không biết và cũng không tìm hiểu
bông vông vang thơm đẹp như thế nào. Có lẽ vì ở Huế không
có cây ấy. Gần đây thôi, hơn một nửa thế kỷ sau, bên
phương trời Tây, khi dọn nhà, nhân mân mê cuốn sách cũ trước
khi sắp vào kệ, tôi như bị lôi cuốn lần giở đọc lại
những dòng xưa đã từng làm mình bâng khuâng, hồi hộp thuở
còn ngây thơ. Ừ nhỉ, vông vang là cây gì, hoa màu sắc, hương
thơm ra sao?
Tìm tòi trong sách thì mới
biết cây vông vang có nguồn gốc từ Ấn Độ nhưng mọc hoang
dại khá phổ biến ở vùng trung du, trong vườn, trên nương
rẫy, ven đường khắp nước ta (TH), gặp nhiều ở Tiền Giang,
Bến Tre, Hậu Giang, .... (VVC), cũng còn thấy ở Mã Lai, Trung
Quốc, Philippin (ĐTL). Nó là cây thân cỏ cao khoảng 1m, phía
gốc hơi thành gỗ, thân hơi có lông, lá hình tim, hoa màu vàng,
quả thuôn trên phủ đầy lông trắng nhạt, trên mặt có những
đường nhăn đồng tâm xung quanh rốn
hạt. Đỗ Tốn còn xác
định
thêm : "Hằng năm, cứ về dạo cuối xuân sang hạ, mà
có khi tới cả mùa thu, nếu bạn đi chơi về vùng quê, bạn
có thấy những bông hoa lớn bằng hoa râm bụt nở vàng tươi
lẫn trong bờ cây bụi cỏ thì đúng là hoa vông vang đó....
Hoa vông vang rất đẹp, tuy nhiên cánh hoa cũng rất mỏng
manh, chỉ một làn gió mạnh cũng đủ làm cho cánh yếu rập
nát bơ sờ".
Cây vông vang còn gọi bông
vang, bụp vang, bụp vàng, mang tên khoa học Hibiscus abelmoschus
L. hay Abelmoschus moschatus (hay moscheutos) Moench
hay (L.) Medic, thuộc họ Bụp hay Bông Malvaceae.
Người Ấn Độ gọi nó muskdana, Âu Mỹ thì có nhiều
tên : Ketnie musquée, musk mallow, ambrette. Cây chứa nhiều chất
sterol : campesterol, sitosterol, stigmasterol, ergosterol (11),
farnesol
(9). Sitosterol dưới thể bêta tìm ra được
cả trong lá, cánh hoa tươi lẫn trái khô (8),
myrcetin và dẫn xuất glucosid cùng cyanidinglucosid chỉ trong cánh
hoa tươi (6,8). Trong nhị và nhụy hoa đã được tìm
ra những dẫn xuất của flavon và aspartic acid bên cạnh sitosterol,
ikshusterol, methy linolenat, quercimeritrin, rutin (14).
Hột cây được khảo cứu nhiều nhất. Ngoài farnesol
(5,15),
sitosterol (3) đã thấy
trong các bộ phận khác của cây, hột còn chứa terpen, ambrettolid
(5,12),
farnesylacetat, oxacyclononadecenon
(12), ambrettolid acid lacton
(9),
những phospholipid như cephalin, phosphadityl serin, phosphadityl cholin
plasmalogen (7), methinin sulfoxyd (4), epoxyoleic
acid, sterculic acid cùng những acid dãy dài từ C10
đến
C18 bên cạnh protein trong tinh dầu (10)
gần đây được khảo cứu tường tận (16).
Là cây mọc hoang, vông vang
cũng được trồng để dùng
trong kỹ nghệ làm thuốc. Hột, còn gọi hột xạ, lấy ở
trái chín vào mùa hạ hay mùa thu, cho chiết xuất tinh dầu,
màu vàng nhạt ở nhiệt độ thường, mùi thơm có tác dụng
làm dậy mùi và bền mùi, giá rất
đắt. Đem phân tích, hột chứa đựng (%) tinh dầu (19,5), protein
(36) (10), sợi thô (31,46),
tinh bột (13,35), tro (5,3), độ ẩm (11,4) (2).
Tinh dầu có chỉ số khúc xạ nD20 1.4720, chỉ số
xà phòng hóa 214 và chỉ số iod 87,25, trong suốt nếu chiết
xuất với ether dầu hỏa, đục hơn
với ether hoặc cồn (2). Dùng sắc ký khí /
phối ký GC/MS cùng phổ kế 13C-NMR phân tích, đã được tìm
ra tetra, hexa, octa decenolid bên cạnh farnesen, decyl và dodecyl
acetat cùng những dẫn xuất của chúng (15,17,18).
Tinh dầu được dùng làm hương liệu, đặc
biệt trong nước hoa hay thuốc tránh sâu mọt. Người Ấn Độ
chế tạo những bã thơm hương xạ (196g từ 10kg hột,
134g từ 700g dầu) (5). Người ta cũng dùng chất nhầy
chiết từ rễ cây làm hồ giấy hay tinh chế tinh bột.
Về mặt dược liệu, cả
lá, rễ lẫn hột cây đều có công
dụng. Lá thu hái quanh năm, dùng tươi hay phơi khô, có
vị nhạt, nhiều nhớt, tính mát. Nó có tác dụng nhuận tràng,
lợi tiểu, tiêu độc, sát trùng, hoạt thai, dùng trị táo
bón, thủy thũng, thúc đẻ, tan ung
độc. Trong lá đã được chiết xuất một chất nhầy
là một peptidoglycan, trọng lượng phân tử khoảng 1.8000.000,
có hoạt động giảm đường trong
máu khi thử trên chuột (13). Rễ có vị ngọt
nhạt, cũng nhiều nhớt, tính mát, có tác dụng tiêu độc,
sát trùng, thư cân, giải cơ, trừ thấp, dùng trị
nhức mỏi chân tay, các khớp sưng nóng đỏ đau, co quắp,
mụn nhọt, viêm dạ dày hành tá tràng (VVC), có khi được
dùng làm thuốc bổ, thuốc mát thay sâm bổ chính (ĐTL).
Hột
cây có tính chất chống co thắt, kích thích lợi tiểu, được
dùng uống trị đái dầm, sắc uống làm thuốc kích
thích ruột và thận, cũng còn được dùng làm thuốc trấn
kinh, chữa di tinh, thông tiểu, dưới dạng thuốc sắc hay thuốc
bột. Một tính chất quan trọng của hột nữa là trị rắn
cắn. Trong dân gian, người ta thường nhai nuốc nước, lấy
bã đắp (VVC). Người Mexico gọi hột vông vang là hột rắn.
Hột không chứa đựng alcaloid ở thể
tự do hay ở thể glucosid, nhưng thí nghiệm cho thấy nó có
khả năng hấp thu than hoạt hóa. Nó có tác dụng tương tự
như nhũ tương phân tán để giải thể tính độc của nọc
rắn mang bành (2). Có nơi khai thác một cây
hơi giống vông vang là sâm bổ chính Hibiscus sagittifolius
Kurtz,
mọc ở Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, Hòa Bình, vùng Tây Bắc,
hoa sắc đỏ. Riêng cây sâm báo Thanh Hóa H. sagittifolius
var.
septentrionalis Gagnep, cũng cùng họ Bông Malvaceae, thì
lại có hoa màu vàng như hoa vông vang (ĐTL).
Nếu
hột vông vang được dùng thông dụng, hoa vông vang chỉ
nên để ngắm. Trong bản in lại, Đỗ
Tốn có dặn thêm : "Nếu bạn thấy hoa, bạn nên để
mặc cho hoa phơ phất giữa cây cỏ thiên nhiên, như vậy thì
hoa rất đẹp, chứ vì mến hoa mà bạn vội hái để
định đem về thì thực là một điều
đáng tiếc : hoa vông vang chỉ ưa cuộc sống giữa tự do và
hoang dại - điều mà tự đáy tâm hồn ai nấy chúng ta đều
mơ ước - chứ nằm ở trong tay bạn thì chỉ một giờ
thôi cũng đủ cho cả hoa lá phải
héo rũ " Một hôm, nhân đi dạo trong rừng vùng núi lửa
miền trung nước Pháp, tôi có gặp ở chỗ ẩm ướt, dưới
bóng cây, một loài hoa rất giống hoa vông vang mà tôi chỉ
biết qua sách vở, cũng màu vàng, cũng héo rũ nếu bị cắt
hái. Hỏi thì được trả lời tên nó là cây impatiens
hay impatiente (hoa móc tai) thuộc họ Móc tai Balsaminaceae,
người Pháp thường gọi hoa "đừng đụng tôi" (ne
me touches pas), tương tự như cách gọi hoa tai chuột myosotis,
thuộc họ Vòi voi Boraginaceae, là hoa "đừng quên tôi"
(forget-me-not) mà một bài hát đã làm náo động lòng
thanh niên thiếu nữ cả một thời. Đi vào quần chúng cùng
các loại hoa nầy, vông vang thật là hoa tình tuổi trẻ với
tất cả tư thế e lệ, tình cảm cao nhã của thời niên thiếu,
ngây thơ.
Nghiên cứu và Phát triển 1(35)
2002,vietsciences 07.2010
Tham khảo
1-Đỗ Tốn, Hoa
vông vang trong Hoa vông vang,
nxb Đời Nay, Hà Nội (1942)77
2- V. Bachster, Notes on Mexican drugs, plants,
and foods. V. Viper seed, a drug used against snake bite, Ciencia
(Mex.)
7 (1946) 307 ; Chem. Abs. 42 (1948) 3912a
3- G. Misra, V.N. Sharma, K.N. Kaul, The constitution
of ambrette seed, Soap, Perfumer and Cosmetics 34 (1961)
761 ; Chemù. Abs. 55 (1961) 23939c
4- L. Peyron, Precursors of certain sulfur
compounds encountered with essential oils, Bull. Soc. France Physiol.
Vegetale 7 (1961) 46 ; Chem. Abs. 56 (1962) 12014b
5- G. Misra, V.N. Sharma, C.R. Mitra, K.N. Kaul,
Aromatic
principles from Abelmoschus moschatus [Hibiscus abelmoschus] seeds,
Indian
72.408
; Chem. Abs. 58 (1963) 4384f
6- A.G.R. Nair, S. Nagarajan, S. Subramanian,
Flavonoids
of the flowers of Hibiscus abelmoschus and Althaea rosea,
Current
Sci. (India) 38 (14) (1964) 431 ; Chem. Abs
61
(1964) 11005a
7- K.C. Srivastava, S.C. Rastogi, Phospholipids
from the seeds of Hibiscus abelmoschus, Planta Med. 17
(2) (1969) 189 ;
Chem. Abs.71 (1969) 27896z
8- G. Misra, S.K. Nigam, C.R. Mitra, Chemical
examination of Abelmoschus moschatus [Hibiscus abelmoschus] leaf, flower,
and fruit, Acta Phytother.18
(7) (1971) 134 ; Chem.
Abs.
76 (1972) 12000g.
9- C.A. Paredes, Aromatic plant species of
Ecuador, Politecnica
3
(1) (1971) 134 ; Chem. Abs.
84
(1976)
102302b
10- M. Hashmi, M. Khan, M.S. Ahmad, S. Osman,
Abelmoschus
moschatus seed oils : a reinvestigation, J. Oil Technol. Assoc.
India 14
(2) (1982) 64 ; Chem. Abs. 98 (1983)
86284d
11- U.K. Chauhan, Sterols of some malvaceous
plants with particular emphasis on cholesterol occurrence, Proc.
Natl. Acad. Sci., Ind. Sect. B 54 (3) (1984 236 ; Chem.Abs.
103
(1985)
157419m
12- T.Y. Nee, S. Cartt, M.R. Pollard, Seed
coat components of Hibiscus abelmoschus, Phytochem. 25 (9)
(1986) 2157 ; Chem. Abs. 105 (1986) 222739y
13- M. Tomoda, R. Gonda, N. Shimizu, S. Nakanishi,
H. Hikino, Plant mucilages. Part XLI. A mucilage from Hibiscus abelmoschus
leaves, Phytochem.
26 (8) (1987) 2297 ; Chem. Abs.
107
(1987)
233080u
14 T. Ohmoto, K. Yamaguchi, K. Ikeda, Constituents
of Abelmoschus moscheutos L., Chem. Phar. Bull. 36 (2)
(1988) 578 ;
Chem. Abs. 109 (1988) 20257m
15- Y. Tang, T. Zhou, J. Ding, H. Sun, The
chemical constituents of the essential oil from ambrette seeds, Yunnan
Zhiwu Yanjiu 12 (1) (1990) 113
16- L. Cravo, F. Perineau, J.M. Bessiere, Study
of the chemical composition of the essential oil, oleoresin andnits volatile
product obtained from ambrette (Abelmoschus moscheutos Moench) seeds,
Flavour
Fragrance J. 7 (2) (1992) 65
17- Nguyen Xuan Dung, Pham Van Khien, Do Duc Nhuan,
Tran Minh Hoi, Ninh Khac Ban, P.A. Leclercq, A. Museli, A. Bihelli, J.
Casanova, Composition of the seed oil of Hibiscus abelmoschus L. (Malvaceae)
growing in VietNam,
J. Essent. Oil Res. 11 (4) (1999)
447
18- P.K Rout, Y.R. Rao, K.S. Jena, D. Sahoo, B.C.
Mishra, Extraction and composition of the essential oil of ambrette
(Abelmoschus moschatus) seeds, J. Essent. Oil. Res.16 (1)
(2004) 35 |