Năm
1986, về thăm quê hương lần thứ nhất sau 37 năm xa cách,
nhận thấy nền khoa học đất nước cần phải phát triển
và phát triển mạnh mới mong rút kịp các nước láng diềng
đang hùng hổ trở thành những rồng con, tôi cảm thấy mình
lâu năm đi học ở nước ngoài, không thể dửng dưng đứng
nhìn như người ngoài cuộc. Hôm chia tay, bà Nguyễn Đình Chi,
một nhân vật ở Huế, nắm chặt tay tôi, dặn đi dặn lại
: Huế tội nghiệp lắm, phải làm một cái chi cho Huế nhé
! Làm sao quên được mấy lời tâm huyết đó. Nhưng suốt
đời đi làm khảo cứu khoa học thuần túy, trừ chuyện dạy
học, tôi có biết làm gì ngoài phòng thí nghiệm ! Hồi ấy
ở Huế cũng như ở Hà Nội, Hải Phòng, Đà Nẵng, Nha Trang,
đi đâu cũng nghe nói đến rong câu chỉ vàng, chiết xuất
agar. Không phải là một kỹ nghệ hoàn toàn hóa học là nghề
làm ăn của tôi, có lẽ đây là một lối ra có khả năng
giúp Huế. Về lại Pháp, tôi chạy vạy kiếm và tìm ra được
một phòng thí nghiệm chuyên về rong rau. Hơn nữa, nhà khảo
cứu đã học hỏi về rong câu chỉ vàng lại đang mở ra một
công ty chiết xuất agar. Nghĩ là dịp hiếm có, gặp đúng
lúc, một cơ hội cần phải nắm lấy, tôi điều đình để
anh giam dôc đồng ý về Việt Nam với tôi xem xét tại chỗ.
Sau nhiều lần tiếp xúc với Huế, Hà Nội, Hải Phòng, Thanh
Hóa, công ty của anh ta ở Pháp và các viện đại học, các
xí nghiệp nuôi trồng rong câu, chế biến agar ở trong nước
thấy có khả năng đi đến một cuộc hợp tác có lợi cho
đôi bên. Sau chuyến qua Pháp thực tập của những giáo viên
Huế, tôi mừng thầm thấy đồ án có hy vọng thành công.
Nhưng đáng buồn thay, chuyện không thành, có lẽ thời cơ
chưa đến, mục tiêu không rõ, hay nơi làm không chọn đúng.
Năm
năm sau, viện Biển ở Nha Trang đưa ra đề tài lấy máu sam
làm thuốc thử nội độc tố. Cũng chẳng phải là một đề
tài hóa học, tôi lại chạy kiếm và may mắn như lần trước
tìm ra được một công ty ở Pháp chịu đưa hai anh tổng giám
đốc và giám đốc kỹ thuật về Nha Trang với tôi xem xét
điều kiện khả thi. Về nhân lực, phòng thí nghiệm ở viện
Biển thấy có đủ khả năng thi hành công tác. Bây giờ công
ty Pháp chỉ còn đem về máy móc và kỹ thuật là có thể
dựng lên đơn vị chiết rút máu sam. Điều kiện còn lại
cần thiết là một phòng thí nghiệm vô trùng, xây dựng có
phần tốn kém. Chúng tôi liền ra Hà Nội tiếp xúc viện Khoa
học, được viện ưng thuận ủng hộ xây phòng và luôn tiện
đở đầu dự án. Mọi việc trong bước đầu rất khả quan
và khi lên máy bay trở về lại Pháp, hai nhà kỹ nghệ lạc
quan hứa hẹn tiếp tục. Thế nhưng sau nhiều tháng thư từ
qua lại, có những trở ngại gì đây, họ cho tôi biết khó
lòng làm việc ở Việt Nam. Vẫn biết thuốc thử nội độc
tố là một chất thuốc chiến lược, hiện nay còn nằm trọn
vẹn trong tay Hoa Kỳ, nước ta hồi ấy lại đang còn bị cấm
vận, khó khăn có thể từ đấy mà ra. Đằng khác, như với
dự án rong câu chỉ vàng, một công ty cở nhỏ hay vừa không
có quyền thất bại, nghĩa là họ chỉ dám bắt tay vào khi
chắc chắn thành công. Tôi rất tiếc ta không nắm ngay cơ
hội, nhất là tôi chỉ tìm ra được một công ty độc nhất
ấy chịu nhận ý nghĩ chuyện làm thuốc ở Việt Nam. Đứng
làm trung gian trong một chuyện xây dựng kỹ nghệ ở nước
ta thấy ra không dễ !
Tôi
đã từng đắn đo : mình không phải là nhà kinh doanh, nếu
từ Pháp đưa được kỹ nghệ gia về Việt Nam xây dựng công
ty, nhà máy trên những nguyên liệu có sẵn trong nước là
việc làm đúng với tình hình đất nước và nằm trong vòng
khả năng của mình. Về dạy học cũng là việc có thể làm
trong khuôn khổ đóng góp chất xám, nhưng trong nước đâu
có thiếu giáo sư : người ta thường bảo Việt Nam là một
trong những nước đang phát triển có nhiều bằng cấp đại
học nhất. Mặc dầu hai thí nghiệm kỹ nghệ không đưa đến
kết quả hoàn toàn mong muốn, tôi không nản lòng nhưng cũng
không dám tiến thêm một bước, nhất là không tìm ra được
đề tài trong lãnh vực của mình. Về nước thấy Đông y
đang chuyển mình nhưng trong dân gian còn đang dùng nhiều cây
lá đem sắc uống như ông cha ta đã từng làm từ xưa. Khi
sắc thuốc tức là chiết xuất mọi hoạt chất trong cây lá,
chất thuốc có mà chất độc cũng nhiều. Trong Tây dược
trái lại, mỗi một cây thuốc được đem phân tích tìm cho
ra hoạt chất có tính chất dược liệu, khảo cứu về mặt
sinh học trước khi đem thử trên sinh vật, con người, sau
đó mới tính chuyện cho ra thành thuốc. Nhiều nhà khảo cứu
bên nhà đã ý thức vấn đề nầy và tôi nhận lời đi tìm
tài liệu cây thuốc cho họ. Âu cũng là một cách đóng góp
chất xám nằm trong tầm tay của mình.
Công
việc tôi muốn giúp tương đối không khó cho một người
đã từng làm khảo cứu ở Pháp. Tôi biết ở thư viện nào
có sách báo hóa học, có thì giờ ngồi tìm đọc, có khả
năng hiểu những bài báo, có chí tiêu hóa những tài liệu
lượm lặt được để đúc kết thành những bài mà tôi gọi
là tổng luận, loại review hay mise au point quốc
tế, miễn là có thiện chí muốn làm. Lúc đầu, tôi chỉ
sao chụp những bài báo và gởi cho những nhà khảo cứu nhưng
nhiều lần về nước thấy những bài báo được sắp trong
các ngăn kéo, không mấy ai đọc được, nên y nghĩ đến với
tôi là chịu khó viết và cho đăng những bài tổng luận ấy
lên báo cho mọi người được hưởng. Tuy phải chịu khó
và bỏ công vào, vượt qua những chướng ngại danh từ, thuật
ngữ, đặc biệt cho một kẻ sống tha hương hơn một nửa
thế kỷ, vận dụng hàng ngày toàn ngoại ngữ, viết bài khoa
học bằng tiếng Việt đối với tôi không phải là một chuyện
khó. Tôi nhớ lại từ những năm 60 đã từng viết những
bài khoa học phổ thông đăng trong các báo Bách Khoa, Phổ Thông
bên nhà : các bạn tôi khen tôi đã có công thầm kín kích
thích tinh thần khoa học trong số các bạn đọc trẻ, một
bước đầu có khả năng ảnh hưởng lên nền giáo dục nếu
được áp dụng đại trà. Bây giờ đây, hướng về những
khảo cứu viên, bài tổng luận cần phải được bàn bạc
sâu rộng hơn với đầy đủ tài liệu, nghĩa là với một
tinh thần khác các bài phổ thông.
Cái
khó sau khi viết bài là tìm cho ra tờ báo chịu đăng. Bên
nhà hiện có nhiều báo phổ thông khoa học, giá trị không
đồng đều, nhưng đều không đáp ứng nhu cầu của tôi.
May về Huế, tôi gặp anh Lê Phước Thúy, nay đã mất, hồi
ấy làm Tổng biên tập tờ Thông tin Khoa học và Công nghệ
của
sở Khoa học Công nghệ Môi trường tỉnh Thừa Thiên Huế.
Anh Thúy khuyến khích tôi viết và hứa đăng toàn vẹn, không
sửa đổi, không cắt xén, dù bản tài liệu tham khảo dài
dòng vì, theo anh, cái quý là số tài liệu. Trong tinh thần
ấy, tôi đã dẫn không những tên tác giả, tên báo, số báo,
trang báo mà còn cả tựa đề bài báo để độc giả có ngay
một ý niệm. Tôi đã dựa nhiều lên tập Chemicals Abstracts
qua các bản báo cáo hóa học, sinh vật học, các văn bằng
sáng chế để kiếm những tài liệu ấy. Thắc mắc của tôi
là nếu đi thẳng vào khoa học, kê khai thành phần cấu tạo
cây lá rồi bước qua tính chất dược liệu, ứng dụng thuốc
men sợ được xem như là một danh mục, một loại catalogue,
thì ai mà chịu mó tới. Tìm kiếm mãi đoạn vào đầu, tôi
đạt đến những chuyện cổ tích, lịch sử mà tôi tin là
hấp dẫn, sử dụng như ly nước giúp nuốt viên thuốc cứng,
đồng thời góp phần vào ngành dân tộc thảo mộc học. Nếu
có những bạn đọc không quen khoa học, chỉ muốn có một
ý niệm sơ sài về cây thuốc và vị thuốc, tôi mời đọc
đoạn đầu, đoạn cuối và lướt qua đoạn giữa mới xem
thấy như khô khan. Nhưng tưởng các bạn cũng nên cần thêm
vào một chút cố gắng như khi bạn có trước mắt một bài
viết về triết lý, thiên văn hay ngôn ngữ, kinh tế với những
danh từ ít thấy trong đời sống hằng ngày, có vẻ rắc rối,
hoang dã không kém gì những tên hóa chất.
Lúc
ban đầu tôi hy vọng viết và cho đăng được mươi bài, dần
dần con số vượt quá sức mong đợi : 20, rồi 30, nay lên
quá 40 ! Có những bạn, nhất là ở nước ngoài, than phiền
tờ Thông tin Khoa học và Công nghệ, nay đổi thành Tạp
chí Nghiên cứu và Phát triển, không phổ biến rộng
rãi nên ngoài những bản sao tôi gởi tặng, họ không biết
tìm đọc ở đâu. Vì vậy ý nghĩ gom góp các bài cho in thành
sách gieo mầm trong trí óc tôi và nay có cuốn Cây nhà lá
vườn nầy. Hè vừa qua, nhân gặp ban Biên tập Tạp chí
Nghiên
cứu và Phát triển, tôi được biết phần tài liệu được
cho là dài. Vì vậy trong cuốn sách nầy, tôi đã rút ngắn
số tài liệu lại, thường chỉ giới hạn trong phần ứng
dụng, đồng thời bổ túc thêm tài liệu mới. Những sách
tham khảo quen thuộc, tôi cũng rút ra khỏi phần tài liệu
mỗi bài mà xếp lại trong một mục. Tuy nước ta sử dụng
tiếng Việt khoa học từ lâu, thấy như danh từ và danh pháp
chưa được hoàn toàn thống nhất, nhất là với những bài
viết gởi từ nước ngoài về. Thêm nữa, một số danh từ
đã được thông dụng nhưng tưởng như cần phải được
xét lại. Trong lúc chờ đợi kết quả của một Viện Hàn
Lâm gồm có các nhà văn học, ngôn ngữ học cũng như khoa
học đủ các ngành, tôi tạm dựa lên danh từ và danh pháp
quốc tế. Tên cây thuốc lắm lúc cũng cần được xác định.
Tôi tin tưởng ở công tác của viện Khoa học nước ta.
Trong
cuốn tái bản nầy, mục lục được sắp đặt lại thành
5 tập vị thuốc đại khái tùy theo xuất phát từ cây hoa,
cây trái, cây lá, cây gỗ hay trong bài có dính dáng đến động
vật.
Hắc
Ký Ni Sơn 1995
Xô
thành 2014
Vài sách tham
khảo đại cương
- ACCT : Agence
de Coopération Culturelle et Technique, Les plantes médicinales au Vietnam,
Paris 1991-1993
- BKT : Bùi
Kim Tùng, Món ăn bài thuốc, Sở Khoa học và Môi trường tỉnh
Bà Rịa - Vũng Tàu 1995-1997
- ĐTL : Đỗ
Tất Lợi, Nh"ng cây thuốc và vị thuốc Việt Nam, nxb Khoa học
và Kỹ thuật, Hà Nội 1986
- HTKC : Hoàng
Thị Kim Cúc, Nghệ thuật nấu ăn món ăn Huế, nxb Đà Nẵng
tái bản 1996
- LTĐ : Lê
Trần Đức, Cây thuốc Việt Nam, nxb Nông Nghiệp, Hà Nội 1997
- LQL, TNĐ
: Lê Quý Lưu, Trần Như Đức, Thuốc trị bệnh từ cây cỏ
hoang dại, nxb Thuận Hóa 1995
- PHH : Phạm
Hoàng Hộ, Cây cỏ Việt Nam, Mekong Printing, Santa Ana, 1991
- TH : Trần
Hợp, Cây cảnh, hoa Việt Nam, nxb Nông Nghiệp, Hà Nội, TpHồChíMinh
1993
- VDL, Viện
dược liệu : Cây thuốc Việt Nam, nxb Khoa học và Kỹ thuật,
Hà Nội 1990
- VVC : Võ
Văn Chi, Những cây thuốc thông thường, nxb Đồng Tháp 1998 |