Bài Dịch :
Chúng
tôi vừa được đọc, với chú tâm đặc biệt, tập sách
mới được phổ biến của ông Aymonier về đề tài
tiếng Pháp và nền
Học chính tại
Đông Dương.
Chúng tôi càng vui mừng khi
nhận được tập sách do chính tác giả gửi tặng, một công
trình bậc thầy đã ra mắt sau những lời gièm pha ngu xuẩn
mà có người đã không ngần ngại chuyển đến
ông thứ trưởng thuộc địa, những điều mà lòng tự
trọng khiến giới giáo chức tại Nam Kỳ chỉ có thể trả
lời bằng thái độ khinh bỉ sâu đậm.
Những
thông tri của ông Hiệu trưởng trường Thuộc địa tại Paris
trong các hội nghị được tổ chức năm vừa qua , được
kết tập lại, đã đặt vấn đề một cách chính xác, định
rõ
mục tiêu cần phải có và đề nghị những phương thức mà
ông cho là tốt nhất để đạt tới.
Do
đó, chúng tôi xin lên tiếng đáp lại lời kêu gọi của ông
gửi đến những người có chú tâm tới Đông Dương và thiết
tha với tương lai của thuộc địa tuyệt vời này.
Mong rằng chút kinh nghiệm
mà chúng tôi đã kết thu , qua các chức vụ được
giao phó từ mười hai năm qua trong ngành Học chính tại
Nam Kỳ, cho phép chúng tôi góp phần cống hiến khiêm tốn
và tiếp tay tìm giải pháp cho vấn đề
đang lôi kéo chú tâm của mọi người .
Tất cả chúng tôi, viên chức
cai trị và giáo chức, chắc chắn đều hết lòng hoan nghênh
hai dự thảo nghị quyết được đưa
ra trong hội nghị của Hội Pháp văn liên hiệp , và
hội nghị thuộc địa vào năm 1889-1890, những hội nghị mà
chúng tôi rất tiếc không được tham dự. Nếu có mặt chắc
chắn chúng tôi sẽ nhiệt tình biểu quyết thuận. Quảng bá
tiếng Pháp và nhất là mở rộng ảnh hưởng của nước Pháp,
đó là điều ước mong sâu đậm nhất,
là kỳ vọng duy nhất của chúng tôi,
Nhưng dù sao ta cũng nên thận
trọng khi bước vào một con đường
nguy hiểm hay có thể trở thành nguy hiểm, và đề phòng
những công việc có thể tự động
(de plano) đưa đến một cuộc cách mạng trong tập tục thói
quen của các dân tộc thuộc địa hay bảo hộ.
Và chính tại điểm này mà
chúng tôi hơi khác ý kiến với ông Aymonier.
Trước hết, là vấn đề
chữ quốc ngữ , đã gây tranh cãi rất nhiều từ bao
lâu nay.
Có người cho nó một tầm
quan trọng quá mức, có kẻ lại quá xem thường.
Theo ý chúng tôi, trên thực
tế, nên giữ một thái độ trung dung,
đặt vai trò chữ quốc ngữ vào đúng tầm mức của
nó , và dùng nó như một phương tiện mà ai ai cũng đều công
nhận là tiện lợi, trong khi chờ đợi tìm ra cho người thợ
trẻ trên đường học nghề một dụng cụ nhạy bén và hoàn
hảo hơn.
Chúng tôi sẽ không bàn trở
lại về định nghĩa của ông hiệu trưởng Trường
Thuộc Địa tại Paris về thứ chữ này . Nó hoàn toàn
đúng và chúng tôi không có lý do gì không chấp nhận nó.
Phải
chăng đã là một ưu điểm lớn , khi nó giúp cho cả
một dân tộc , trong vài tuần, học được
cách để viết ra tiếng nói thông tục nhất. Đây chỉ
là tiếng nói thông tục , chúng tôi đồng
ý về điểm này, nhưng nó cũng là tiếng nói hàng ngày,
tiếng nói được dùng trong các cuộc trao đổi thông thường
của họ.
Người An Nam viết, và viết
rất nhiều. Số lượng thư từ qua lại nhiều không biết
bao nhiêu mà kể, và mức gia tăng đều
đặn của tiền thu bưu điện là một bằng chứng về nhu
cầu trao đồi giữa họ với nhau. Không chắc gì trước đây
họ đã dùng nhiều bút lông, mực Tàu, giấy Tàu để
thư từ cho nhau bằng ngày nay dùng giấy bút Âu châu với hai
mươi lăm chữ cái của chúng ta
Ngày trước, để thảo hay
lập một chứng thư không cần thị thực công chứng (Acte
sous seing privé) [2]
, thông thường họ phải nhờ một người trung gian . Ngày
nay, hầu như không làng xã nào là không có nhiều người đăng
ký làm chuyện này, hầu như mỗi gia
đình đều có một con em từ 14 đến 20 tuổi biết chữ quốc
ngữ, đủ dùng để thảo một lá thư đơn giản, và diễn
tả được ít nhiều những ý cần thiết trong đời sống
hàng ngày.
Chỉ cần thay thế một phần
chữ Tàu bằng chữ cái Tây phương mà ta đã gặt hái được
kết quả đó, dù không to lớn
lắm. Dĩ nhiên, không phải cứ cùng chữ viết, ngay cả cùng
tiếng nói, là sợi dây gắn bó hai quốc gia được bền chặt
mãi mãi. Nhưng phải chăng nhờ vậy mà sự giao tiếp giữa
đôi bên được dễ dàng hơn? Ai dám bảo là nền thống nhất
của nước Pháp sẽ được xây dựng
nhanh chóng như ta đã thấy, nếu trước kia , mỗi vùng
xứ ta đã dùng những chữ viết khác nhau để ghi chép thổ
ngữ riêng của mình ? Giao lưu thương mại của chúng ta với
các miền Âu châu có được phát triển như ngày nay , nếu
nước Pháp là nước duy nhất dùng chữ cái la-tinh?
Chắc gì học các tiếng nói
Âu châu được dễ dàng như bây giờ nếu tiếng Anh được
viết bằng chữ Tàu, tiếng Đức được
viết bằng chữ Căm Pu Chia, tiếng Ý và tiếng Tây Ba Nha được
ghi lại bằng chữ Ấn Độ hay Mã Lai ?
Cách phát âm khác nhau của
một vài chữ cái phải chăng là khó khăn
không thể khắc phục nổi ? Vấn đề này phải chăng không
có trong cách ghi chép các tiếng nói Âu châu, và tôi
xin thêm, vấn đề ghi chép ngay trong cùng mỗi tiếng nói?
Cái thiếu sót này là đặc
tính của mọi công trình của con người, và chúng ta phải
cố gắng khắc phục nó, nếu được,
cũng như đối với ngay cả những khúc mắc phiền toái mà
chúng ta không ngần ngại gọi là những khúc mắc cắc cớ
"đặc Tàu" (les
chinoiseries) của chính tiếng Pháp .
Những thiếu sót này phải
chăng là một trở ngại cho việc dùng chữ quốc ngữ,
ngay
cả trong chương trình giáo dục chính thức ?
Vậy
chúng ta thử xét qua xem chữ quốc ngữ có thể đem lại lợi
ích gì về mặt này.
Cứ
giả thử những điều Ông Aymonier nói hoàn toàn được
chứng minh, tất cả trẻ em đều biết
nói tiếng mẹ đẻ, điều này có nghĩa là tất cả
những trẻ em sinh ra tại Pháp đều biết nói tiếng Pháp,
tiếng nói của xứ mình. Vậy vấn đề
được đặt ra là tiếng mẹ đẻ có vô ích trong việc giảng
dạy tiếng nước ngoài hay không ?
Tại xứ Pháp của chúng ta,
với thổ ngữ của các vùng vốn là những tiếng nói có gốc
gác khác nhau, vấn đề trở nên rắc rối. Từ khi Giáo dục
trở nên bắt buộc, chúng tôi nhớ đã đọc trong các tạp
chí, báo chí chuyên ngành, và cả những báo cáo chính
thức , nhiều bài viết đề nghị cho mỗi vùng Corse, Catalan,
Basque và Breton [3],
nên lựa chọn các giáo viên là người quê quán tại vùng
đó. Những người này, vì biết thổ ngữ của vùng, có thể
gặt hái được kết quả mau chóng và vững chắc.
Dù sao cũng chẳng có ý kiến
nào đề nghị gửi giáo viên gốc miền Nam ra miền Bắc và
ngược lại, trong mục tiêu ngăn chặn không cho dùng tiếng
nói địa phương tại trường học.
Phải
chăng như vậy là người ta chấp nhận phần nào lợi
ích của thứ tiếng nói địa phương này?
Các trường học tại Pháp
với một hệ thống phương tiện tuyệt vời, tốn kém bạc
triệu, giúp cho trẻ em sờ tận tay thấy tận mắt qua hình
ảnh, hiện vật, mọi thứ phải học. Rồi sau đó
chỉ cần một từ vựng rất giới hạn để diễn nghĩa.
Tại xứ này, vận dụng tiếng
mẹ đẻ là điều tuyệt đối không
thể tránh được. Còn lâu ta mới có thể nghĩ tới
chuyện cung cấp cho mỗi trường làng, hay ngay cả trường
tổng, một hệ thống phương tiện hoàn thiện như vậy, và
phương cách hay nhất để giảng dạy tiếng Pháp thông dụng
cho một nhóm trẻ em vẫn là phiên dịch.
Như vậy, với những trẻ
em
thông thạo tiếng nói xứ sở chúng; chúng học đọc và
viết , nhiều lắm là trong vòng vài tháng , những chữ cái
Pháp có thêm bớt sửa đổi để ghi
lại chính xác âm điệu tiếng nói. Chúng có thể viết những
từ thông dụng của tiếng mẹ đẻ. Chính tại điểm này
mà việc vận dụng chữ quốc ngữ là cần thiết, nó giúp
ta viết bên cạnh mỗi từ tiếng An Nam diễn tả một vật
dụng hay một sự việc cụ thể, một từ tiếng Pháp tương
đương. Khi một từ, đơn độc hay
được ghép trong những câu ngắn, được viết đi viết lại
nhiều lần, được đọc thành tiếng nhiều lần thì
chúng tôi quả quyết rằng từ đó
sẽ được khắc ghi dễ dàng và nhanh chóng trong trí
nhớ trẻ em hơn là cứ lặp đi lặp lại
vài chục lần cũng từ đó nhưng không
được dịch
nghĩa. Nhiều khi trẻ em chẳng giữ lại được gì trong
tâm trí ngoài một vài âm điệu vô nghĩa, vì thực ra, hiếm
khi ta có thể cho chúng thấy cụ thể vật dụng hay sự việc
mà từ đó diễn tả.
Mỗi ngày những trẻ em này
sẽ ghi nhớ được một số từ, bốn
hay năm chẳng hạn, và cuối tháng chúng sẽ có một từ vựng
từ 120 đến 150 từ, cuối năm là 1200 tới 1500 từ. Kết quả
phải chăng là thiết thực ? Phương pháp truyền dạy trực
tiếp tiếng Pháp bởi người Pháp có thu được kết quả
tốt hơn không, ngay cả chỉ ở mức độ tiếng tóm-gọn (sabir) [4]
? Kết quả một lớp thí điểm cho thấy: vào năm 1880 và1881,
những trẻ em mới bắt đầu đi học , được đưa vào
lớp các cô giáo người Pháp, không thông ngôn trợ giúp, tiếp
thu kém hơn rất nhiều so với những trẻ em không theo phương
pháp giảng dạy trên.
Nhóm trẻ em sau [5]
, cuối năm học thứ hai, đã giải được bốn phép tính bằng
tiếng mẹ đẻ và bằng tiếng nói của ta, viết được vài
hàng chữ Pháp.
Cuối
năm thứ ba, chúng biết phép tính trọng lượng, đo lường,
tiền tệ của ta và của xứ sở chúng. Chúng cũng thu góp
được vài kiến thức tổng quát.
Một khi chữ quốc ngữ chỉ
có tác dụng giúp ta mau chóng phổ biến thứ giáo dục hoàn
toàn sơ đẳng này, chúng ta có nên từ chối không dùng nó
không?
Nhưng , không những thế, nó
còn giúp ta cho hội nhập vào từ ngữ hàng ngày rất nhiều
từ tiếng Pháp không có tương đương trong tiếng An Nam, những
từ này sẽ không nên ghi bằng chữ quốc ngữ. Chúng ta sẽ
viết lên bảng với chính tả hoàn toàn Pháp. Chúng ta sẽ
không viết mât-lo, không pha-lan, không Mất-chinh, v.v..., nhưng
viết đúng chữ matelot, franc, machine, và như vậy từ này sẽ
được ghi nhớ. Chỉ có lời giải nghĩa là được viết bằng
tiếng nói hàng ngày bản xứ và từ vựng tiếng Pháp đã
được học từ trước; nghĩa được
hiểu và từ được ghi nhớ.
Chính nhờ vậy mà giới trẻ
An Nam thường thay thế các từ còn thiếu trong tiếng nói của
họ bằng một từ tiếng Pháp , thay vì lấy từ, hay chữ,
của những kẻ xưa kia đô hộ họ. Qua nhận xét, chúng tôi
thấy là trong thư từ trao đổi của học trò thế hệ trẻ
sau này, khoảng một phần tư từ được dùng là tiếng Pháp,
và tiếng Pháp rất chuẩn. Đây chính là công dụng của chữ
quốc ngữ. Nó được vận dụng như
vậy trong mọi trường học Pháp, được tài trợ bởi ngân
quỹ địa phương. Dù ai có nói gì đi
nữa, từ năm 1880, tại mỗi tỉnh lỵ địa hạt, đã có một
trường Pháp cho người bản xứ. Tại Saigon, từ năm 1882 và
1883, mỗi trường trung học có một trường tiểu học phụ
thuộc. Sau một thời gian bị tách rời ra khỏi các trường
trung học vì lý do ngân sách, các trường tiểu học này, sau
một vài cải tiến, vừa mới được móc nối lại với trường
trung học.
Tôi còn chưa kể đến một
số , không nhiều, trường tổng trong
đó việc giảng dạy được giao cho các giáo viên bản
xứ mà trình độ tương đối cũng
xít xoát với trình độ cần có để dạy tiếng tóm-gọn
(sabir).
Dăm
ba kẻ bi quan kinh niên trách cơ quan Học chính truyền
bá tiếng Pháp quá rộng rãi, và chỉ đào tạo ra những kẻ
lỡ thời, khi mà , ngày hôm nay, các chức vụ hành chính đã
đủ người, các cơ quan không cần thêm nhân viên mới, mọi
chỗ làm đã được phân phối cho
đến cả những người học kém nhất. Nhưng phải chăng đó
là lỗi của cơ quan Học chính? hay do những điều kiện ngày
nay không còn nữa?
Bất kỳ một biện pháp nào,
khi đưa ra thi hành cũng cần một giai đoạn
chuyển tiếp. Như chúng ta đã thấy tại Pháp, khi luật cưỡng
bách giáo dục tiểu học được ban hành, người ta đã phải
mở ra, gần như ngay lập tức, các trường Trung học đặc
biệt (Enseignement secondaire spéciale) và trường Tiểu học cao
đẳng (Enseignement primaire supérieur)
cho các trẻ em đã theo học chương trình Tiểu học sơ
đẳng (Instruction primaire élémentaire)
cần được bổ túc thêm kiến thức để tránh trở thành
kẻ lỡ thời , không nghề nghiệp
(déclassé). Tiếp theo đó, các trường chuyên nghiệp,
nông nghiệp và kỹ thuật hướng dẫn chúng vào các ngành
nghề mới.
Hiện
nay, tại Đông Dương, chúng ta chỉ cần tạo thêm những loại
trường tương tự cho các trẻ em đã theo học trường
của chúng ta.
Xóa bỏ nền giáo dục chính
thức bằng chữ quốc ngữ và thay vào đó
một nền giáo dục bằng thứ chữ tóm-gọn (sabir) phải chăng
là phương thuốc cho căn bệnh mà người ta đổ lỗi là
do chúng tôi mà có? Giải pháp này có làm cho tình trạng hiện
tại nghiêm trọng hơn không ? và tạo thêm những kẻ lỡ thời,
mau hơn và nhiều hơn nữa không ?
Không hề có ai nói rằng tiếng
An Nam thông tục có thể diễn dịch các lập luận trừu tượng
hay khoa học. Nhưng ngoài những kiến thức sơ đẳng nhất,
một trình độ giáo dục ở mức độ
đó chỉ có thể và chỉ nên truyền dạy cho thành phần
ưu tú của dân chúng. Tiếp theo, sẽ truyền dạycho một số
rất ít những thí sinh trúng tuyển vào các kỳ thi có định
kỳ ở cấp độ cao bằng thứ tiếng Pháp thực thụ và đúng
đắn, tương đương với chữ nho của ngày xưa.
Có nhiều ý đơn giản , thực thụ Pháp, có thể được diễn
dịch bằng tiếng An Nam thông tục, được phổ biến dễ dàng
và nhanh chóng hơn là qua tiếng tóm-gọn (sabir).
Ngay tại Pháp, việc phổ biến
các ý nghĩ và tình cảm , từ lâu đã đi trước việc phổ
biến tiếng nói, và không chờ đợi
cho đến khi thổ ngữ địa phương bị xóa bỏ, hay biến mất.
Mà thực ra cho đến ngày hôm nay, các thổ ngữ này vẫn
còn tồn tại.
Dĩ nhiên, thật là đáng
mừng khi được thấy dân bản xứ biết cười với Paul de
Kock[6],
tìm đọc Alexandre Dumas [7],
và rơi nước mắt phập phồng theo những đột biến trong
tiểu thuyết của Eugèng Süe [8].
Nhưng làm sao họ đạt được mức
độ cảm thông đó với vốn liếng tiếng nói tóm-gọn (sabir),
họa chăng là phải chuyển tất cả những tác phẩm
của các tác giả trên thành tiếng tóm-gọn, và ngay cả làm
như vậy cũng chưa lấy gì làm chắc.
Cứ thử cho người nông dân
xứ ta [9]
lựa chọn giữa một tác giả thành danh và một tờ lá cải
viết bằng thứ tiếng Pháp thiếu chuẩn của quê họ, chắc
chắn là họ sẽ không do dự.
Họ sẽ vạn lần thích thú
với câu chuyện vui dí dỏm kể bằng thổ ngữ của họ hơn
là nghe Legouvé diễn thuyết [10]
.
Nào phải vì vậy mà họ không
tiếp thu được những thị hiếu mới, những nhu cầu mới,
không biết phát triển những phương pháp trồng trọt, buôn
bán, kỹ nghệ của họ ? Nào phải vì vậy mà họ không là
người Pháp thực thụ ?
Tại
Đông Dương cũng vậy; có lẽ lại còn quá nhanh nữa
!
Dùng chữ quốc ngữ theo đường
hướng chúng tôi đã đề xướng có lợi điểm tức khắc
là không cắt đứt với quá khứ và tạo ra những thói
quen tập tục, có thể nói là do áp
đặt cũng được, nhưng sẽ được tiếp thu hoàn toàn.
Thứ chữ này sẽ là một phương tiện dù chậm nhưng chắc
chắn và cần thiết, để tiêm vào một từ vựng không nghèo
nàn hơn, nhưng chắc chắn đúng chuẩn và chính xác hơn là
thứ tiếng tóm-gọn (sabir). Ngoài ra, nó
vừa đủ để truyền bá những ý niệm đầu tiên, khơi
mào cho mọi việc.
Chúng
tôi đã tóm thu vai trò chữ quốc ngữ vào đúng tầm
mức của nó, một phương tiện ích lợi và không thể bỏ
qua. Và đây là vai trò duy nhất nó có thể cáng đáng
được.
Bởi vì, ngay từ năm 1867,
khi những trường dạy viết bằng chữ cái la-tinh được mở
ra, các giáo viên được đào tạo tại đây đã phải
tập phiên dịch ra tiếng Pháp. Năm
1868, Đô đốc Ohier [11]
đã thành lập một ủy ban với trách nhiệm soạn thảo
một quyển sách văn phạm và một quyển tự điển
cho học sinh, giúp họ trong việc học tiếng Pháp. Ông Potteaux,
thông ngôn người Âu, được giao cho đặc trách phát hành
sách vở liên quan đến việc học này. Ngay sau đó,
trường sư phạm được mở. Tất cả những nghị quyết về
sau đều chỉ có mục đích là quảng bá việc học tiếng
Pháp, và nghị định ngày 17 tháng 3 năm
1879, quy định điều hành việc Học chính càng củng
cố đường hướng này. Ngay từ năm 1876, những thí sinh nhắm
các chức vụ trong cơ quan hành chính phải có bằng cao đẳng
bản xứ (brevet indigène) [12]
với chương trình , phần lớn nhắm vào việc học tiếng Pháp.
Những
điều kiện cấp thời và tối quan trọng đã không cho
phép thi hành triệt để các quy định
trên.
Nghị
định 1880, tạo ra trường tổng, quy định cấp 200 francs phụ
trội hàng năm cho những giáo viên An Nam dạy thêm vài
khái niệm tiếng Pháp.
Đáng
tiếc là phương tiện cung cấp không tương xứng với
mục tiêu. Các trường sơ đẳng (écoles élémentaires) không
tìm ra đủ nhân sự. Hơn nữa, trao
đổi bằng tiếng An Nam , và đương nhiên việc ghi chép
nó bằng chữ quốc ngữ, bị cấm
tại các trường địa hạt. Các lớp không được phép dùng
thông ngôn, và việc giảng dạy trực tiếp tiếng Pháp bởi
giáo sư Pháp trở nên bắt buộc.
Các giáo sư Âu châu, ngoài
vài trường hợp hiếm hoi, không biết nói tiếng bản xứ
(1880-1881). Họ hầu như không thể nào trao đổi với học
trò được.
Năm
1878 đô đốc Laffont [13],
và năm 1879, Ông Le Myre de Vilers, quy
định dùng chữ quốc ngữ trong giấy tờ hành chính
chính thức. Nếu việc này quả thực đúng là có lỗi, thì
cái lỗi cũng rất nhẹ và có thể bỏ qua được.
Thật vậy, vào thời đó
ít người Pháp biết chữ nho, do những khó khăn trong cuộc
chiến chinh phục và bận rộn công việc cai trị, họ
chỉ có thể học hỏi qua loa thứ chữ này.
Ghi lại tiếng nói thông tục
bằng chữ quốc ngữ giúp cho các viên chức cai trị và các
thư ký người Âu, nhanh chóng học
được tiếng nói , hiểu được các văn kiện, lới khai cung
, gần như bao giờ cũng được ghi lại không phải bằng chữ
Nho mà là bằng chữ Nôm, từ đó,
kiểm soát được việc làm của các thông ngôn hay các
nho sĩ, là những đẳng cấp chắc chắn cũng nguy hiểm không
kém những người babous [14]
xứ Ấn độ.
Nếu , qua thứ chữ này, chúng
ta từ từ tiêm nhiễm tiếng Pháp không ngừng nghỉ, chúng
ta sẽ không sợ mắc lỗi quá hấp tấp , và chúng ta cũng
sẽ không vấp phải cái khó khăn không
giải đáp là: dạy một ngoại ngữ không thông dịch
với thày dạy không hiểu tiếng nói của học trò.
Ngày hôm nay, cái điều bất
tiện này, cái chướng ngại này phải chăng
đã biến mất? Nhân sự cần thiết cho việc dạy tiếng
Pháp tóm-gọn (français sabir), còn lâu mới tìm ra. Và ngay cả
có tìm được, nhân sự này sẽ quá đắt.
Ngân quỹ địa phương, hay ngân quỹ toàn vùng không
thể nào chịu nổi chi phí cần thiết cho lương bổng của
ít nhất cũng 2500 giáo viên làng xã biết tiếng Pháp tóm-gọn.
Trả lương một giáo viên tiếng tóm-gọn bằng lương của
một thày chữ Nho xưa kia ở làng, nghĩa là thấp hơn lương
của một cu-li ngày hôm nay, là hạ thấp giá trị của người
công chức vốn dĩ đã khiêm tốn này và tiêu diệt công trình
ngay từ khi còn trứng nước, hay phó mặc nhân viên này cho
sự khai thác lợi dụng của làng xã , cho những tính toán
tham ô.
Phương
sách đề nghị có lẽ sẽ là dùng giáo sĩ, khiến cho
việc tuyển dụng được đễ dãi
và biến họ thành giáo viên dạy tiếng tóm-gọn, cho họ tiền
trợ cấp cao.
Chắc chắn, chúng tôi chẳng
trông mong gì hơn là được thấy một
cuộc đọ sức hoà bình trong thi đua [15].
Chúng tôi không biết một tổ chức giáo dục giáo đoàn phát
triển như thế sẽ đem lại lợi ích gì trong tương
lai. Nhưng nếu phải rút tỉa bài học từ quá khứ, thì đây
là lúc ta phải làm.
Đừng
quên rằng vào năm 1874, đô đốc
Dupré [16]
đã muốn thử quảng bá tiếng Pháp và phổ biến rộng
chữ quốc ngữ, chữ viết đã được chính các nhà truyền
giáo tạo ra và truyền dạy từ bấy lâu nay. Nhưng lúc bấy
giờ chính những vị này lại tỏ ra chống đối việc truyền
dạy thứ chữ này, rồi gây ra nhiều
xung đột , khiến chính quyền cấp cao của đô đốc-toàn
quyền phải can thiệp.
Cũng
đừng quên rằng chính tự ý họ lấy quyết định đóng cửa
các trường Ki-tô tại thủ phủ các địa hạt, và đã
khiến , hôm trước hôm sau, phải tổ chức lại và thay thế
nhân sự trường Bá-đa-lộc (collège
d'Adran), đột nhiên bị bỏ trống
sau một kỳ thanh
tra của viên chức thanh tra tiểu học.
Không thể nào trông cậy vào
sự trợ giúp hữu hiệu từ những người, có thể là tận
tụy, tin tưởng vào việc mình làm, chúng tôi sẵn sàng công
nhận điều này, nhưng vì tinh thần đoàn thể , đã chống
đối lại việc phổ biến thứ chữ mà họ đã tạo ra, khi
họ thấy rằng một khi vào tay kẻ khác thứ chữ này có thể
tạo ra những thế lực cạnh tranh làm giảm thiểu ảnh hưởng
của họ.
Một
thí
dụ điển hình về tính bành trướng và độc
lập đối với chính quyền của họ phải chăng đã
hiện rõ qua vụ án trung úy Garcin. Cũng may Garcin đã được
tha bổng.
Các
Hội truyền giáo, trước đây đã nhận được những trợ
cấp trực tiếp lên đến 160 000 francs. Ngày nay họ có nhận
được ít hơn không ? Chắc chắn là không, và cũng dễ
chứng minh thôi. Tổ chức giáo dục trực thuộc giáo đoàn
, một mình, chiếm hơn hai phần ba nguồn chi ngoài quy định
của ngân sách Học chính, mà nguồn ngoài quy định này lại
cao hơn nguồn chi được quy định
đến quá một phần tư.
Và kết quả gặt hái được
ra sao ? Năm 1889, theo thống kê do các giáo sĩ đưa ra nhân kỳ
Triển lãm, giỏi lắm là 500 hay 600 trẻ em được
học tiếng Pháp. Đấy là ta đã gồm trong con số này
hầu hết các học trò trường Thaberd, trường Dòng (école
des séminaires) và trường Sainte-Enfance.
Chuyện này chẳng có gì đáng
ngạc nhiên, vì chính những vị lãnh đạo tâm linh tối cao
của các nhà truyền giáo và các nữ tu đã tuyên bố rằng
giáo dục dân bản xứ không phải là mục tiêu của họ, và
việc dạy tiếng Pháp lại càng xa vời hơn nữa.
Vì vậy, họ chỉ còn truyền
dạy, ở bên ngoài địa phận Sài Gòn, chữ quốc ngữ cần
thiết đề học kinh cầu nguyện.
Sách họ xuất bản hầu hết
là sách truyền giáo nhằm chiêu nạp người vào đạo và giảng
dạy cho người mới học đạo. Ngay cả về mặt này, thành
quả gặt hái được phải chăng là
to lớn ? Từ hơn hai trăm năm qua, họ đã cải đạo cho 500
000 người bản xứ trên 30 triệu người, trong khắp Đông
Dương. Kết quả chỉ như vậy dù được sự hỗ trợ của
giới có quyền thế, dù cho dân An Nam rất dễ cải đạo,
có khi chỉ cần một túi gạo. Cải đạo quả thật
là rẻ mạt, nhưng ai dám bảo đảm
được thành tâm ? Một tâm hồn, dù là tâm hồn Viễn-Đông,
khó mà có thể mua chuộc được với
giá rẻ như vậy, họa chăng là người bán muốn bán đi bán
lại nhiều lần cùng một món hàng. Và có người nói
chuyện này là có thật.
Một
nhóm nhỏ theo đạo Ki-tô này, tự nó có đủ để cắt đứt
tính thống nhất của nòi giống? Chúng tôi xin miễn
bàn về những suy tư có tính chính trị này.
Về
nước Đức, một tác giả thành danh mới tuyên bố gần
đây rằng cùng tiếng nói, cùng đạo
giáo không đủ để kết chặt tính thống nhất của
một dân tộc, mà chỉ cần cùng quyền lợi, cùng khổ đau
hoạn nạn.
Nếu tư tưởng này đúng,
tập hợp Đông Dương này đã tan rã từ lâu qua bao lần
nội chiến chia cắt lâu dài miền Bắc và miền Trung của
đế quốc An Nam. Vậy mà chúng ta không
thấy đã có một mưu toan hàn gắn các mảnh vỡ trong
trận chiến vừa qua đó sao? (mưu toan
năm 1885 tại Nam Kỳ) .
Dĩ nhiên, vấn đề
đạo giáo không phải là món hàng xuất khẩu. Vậy tại
sao lại đem nó xuất khẩu, và lại tạo điều
kiện cho những kẻ trước đây đã đem nó xuất khẩu
có thể bành trướng thêm, bằng cách truyền sức để
cho họ tăng cường ảnh hưởng và đặc quyền, và để cho
chúng ta phải chuẩn bị đón nhận, chỉ không lâu nữa đâu,
những mưu toan đối kháng như vào năm 1874, những giai đoạn
đẫm máu như tại Khánh Hòa, hay những phong trào bất
tuân lệnh như tại Bắc Kỳ.
Không nên lấy chuyện các
nhà truyền giáo Anh ra làm gương để bàn cãi. Vấn đề
đạo giáo, đối với họ, chỉ là vấn đề phụ. Trước
hết họ là công dân nước Anh, và đạo
giáo của họ rất đậm tính dân tộc. Thánh kinh, dù
được soạn thành đơn giản, cũng chỉ là một món vật trao
tay, một món hàng, và dù các giáo đoàn của họ lắm tiền
nhiều của, có lẽ ta dễ dàng thấy là những kẻ cải đạo
theo Tin lành Anh không đếm bằng con số triệu.
Trước
khi chấm dứt, chúng tôi xin có đôi lời về nhân sự
phi tôn giáo của tổ chức Học chính Nam Kỳ, mà mọi người
từ ông Bouinais đến ông Duchemin thấy cần phải kết tội
dù không biết gì về họ.
Phải
chăng nhân sự này chiếm phần lớn ngân quỹ và chẳng
giúp ích được gì ? Gán tất cả tiền xuất chi của nha Học
chính vào mục phí tổn lương bổng giáo sư quả thật là
quá dễ. Cứ cho như họ mong muốn như vậy đi
? Thực tế, tiếc thay, lại ngược lại. Ta thử tách ra phần
chi thuộc những quy định của cái chương VII đặc biệt,
gồm học bổng và tiền trợ cấp cho tổ chức giáo
dục của giáo đoàn, học bổng tại Pháp cho đông đảo con
em công chức, thì còn lại chỉ một phần nhỏ cho nhân
sự địa phương, không đủ để tăng
lương cho nhiều nhân viên xứng đáng.
Còn về kết quả ? Bất chấp
mọi khó khăn, mọi trở ngại kể trên, ai đã đào tạo không
biết bao nhiêu là thông ngôn, thư ký, nhân viên điện báo
, nhân viên ngoại ngạch của các công sở được
mở ra từ 10 năm qua tại Nam Kỳ, Căm Pu Chia, An Nam và ngay
cả tại Bắc Kỳ, tại đây nhu cầu mỗi ngày mỗi gia tăng?
Những học sinh mà ta không
sao đào tạo đủ này, dù sao
họ cũng phải biết chút
ít tiếng Pháp, là một cánh cửa hé mở để
cho những hoa quả đang khô héo có ngày lại nởbung ra
trong một tương lai sáng
láng.
Chúng
tôi chỉ xin nhắc lại , để khỏi quên, những phần
thưởng dành cho các trường học tại
Hội Chợ Kỷ Niệm Trăm Năm (Exposition du Centenaire [17])
, tại đó Ông Aymonier đã có thể thấy tận mắt và
đánh giá những công trình của học trò các trường bản
xứ cấp 1 và cấp 2, tại các tỉnh miền trong cũng như tại
Sài Gòn.
Nếu các giáo sư người Âu
không được dân sở tại quý mến,
kính trọng thì tại sao mỗi khi một trường ngoại trú hay
nội trú được mở ra và giao phó cho một hiệu trưởng
người Pháp, người ta thấy trẻ em ồ ạt kéo tới và các
bậc cha mẹ xem như là một ân huệ nếu dành được một
chỗ cho con em mình, và chúng ta đã rất tiếc bị bắt buộc
phải từ chối ? Tại sao khoảng một trăm
gia đình, và con số này không ngớt gia tăng,
đã tự ý ghi tên con em vào nội trú có đóng
chi phí, tại các trường sơ đẳng tại Sài Gòn.
Việc cải tổ chính tả cho
hợp lý có lẽ sẽ làm nhẹ việc cho giáo sư và học trò;
nhưng chúng tôi không muốn bàn nhiều về vấn đề này mặc
dù nó xứng đáng được nghiên
cứu sâu hơn.
Chúng tôi xin kết luận:
Đúng
là từ Nam Kỳ, việc quảng bá tiếng nói và ảnh hưởng
của nước Pháp đã và đang tiếp tục tỏa rạng. Chúng
ta có một dụng cụ đã qua nhiều thử thách, những người
thợ có khả năng, được đào tạo cho dụng cụ đó. Không
nên đột nhiên thay dụng cụ, hay thay thợ.
Sài Gòn ngày 20
tháng Bảy 1890.
E. Roucoules
Huân chương Giáo dục
Hiệu trưởng trường trung
học Chasseloup-Laubat
Phó chủ tịch
của Hội nghiên cứu Đông Dương (Société des Etudes Indo-Chinoises)
và của Ủy ban địa phương Hội Pháp-văn
Liên-hiệp (Alliance Française).
Lại Như Bằng dịch : 01-02-2015
Đọc lại ngày 01-06-2015 (
sửa một hai chữ thiếu chính xác).
|