Theo
lịch vạn niên thì năm 2023 là năm con mèo. Thiên can Quý điạ
chi Mão, nên gọi là Quý Mão, bắt đầu từ ngày 22/1/2023 đến
9/2/2024 dương lịch. Mèo đứng thứ 4 trong 12 con giáp trong
bát quái của Kinh dịch, theo lịch Tàu họ chọn thỏ, nhưng
người Việt chọn mèo vì nó gần với đời sống Văn hóa
Việt Nam. Mèo dịu dàng dễ thương như chó, nhưng mèo được
thuần hóa sau cùng. Năm Quý mão chúng tôi tham khảo tài liệu
về các loài mèo trong Khoa học - Đời sống - Thần thọai-
Thi ca...
Những nhà khảo
cổ học nghiên cứu dòng họ nhà mèo có từ thời tiền sử
hàng triệu năm, đã hóa thạch từng tìm thấy ở các Châu
lục. Mèo rừng (Wildkatze/ Forest cat) ở Phi Châu tên khoa học
(Felis Silestris lybica), được thuần hóa trở nên mèo nhà (Hauskatze)
tên khoa học (Felis Silestris Catus). Thời cổ đại người Ai
Cập (Agypten) thuần hóa mèo khoảng 6000 năm trước Công nguyên
(viết tắt TCN), tuy nhiên người ta cũng tìm thấy răng xương
mèo khoảng 9000 năm TCN trong ngôi mộ cổ ở Jericho Isarel, ở
đảo Zypern 5000 năm TCN và thung lũng Indus Harppa 4000 năm TCN.
Thời cổ đại thuần hóa mèo vì chuột cắn phá mùa màn,
mèo bắt chuột bảo vệ thực phẩm và săn các loại rắn
độc nguy hiểm như Kobras và Vipern, từ đó mèo gắn liền
với đời sống con người.
Nguồn
gốc của mèo
Mèo thuộc bộ ăn
thịt (carnivore) cùng họ Felidea, các thành viên cùng họ với
mèo to lớn (Pantherinae) như: Leopard (Panthera pardus); Gepard (Acinonyx
jubatus); Löwe (Panthera leo) đều ở Phi Châu. Jaguar (Panthera onca)
ở Nam Mỹ; Nebelparder (Neofelis nebulosa) sống ở Nepal và Tiger
(Panthera Tigris) sống vùng nhiệt đới.
Các loại mèo nhỏ
(Felinae) ở Mỹ Châu (kleinkatzen Amerikas): Rotluchs/ Bobcat (Felis
lynx rufus) và Ozelot/Ocelot (Felis pardalis) thường ngủ ngày ở
Nam Mỹ; Kanadischer Luchs/Canadian lynx (Felis lynx candenis) và Puma
(Felis conolor) sống ở miền Nam Canada; Baumozelot (Felis wiedi)
loại đuôi dài ở Mexiko đến Argentinien; Bergkatze (Felis jacobita)
sống ở Nam Mỹ trên núi cao 5000m. Tiegerkatze (Felis tigrinus)
ở Costa Rica và Kleinfleckkatze (Felis geoffroyi) ở Brasilien, Bolivien;
Chilenische Waldkatze (Felis guigna)
Loại mèo ở Âu
Châu và Á Châu. Schottische Wildkatze (Felis silvesstris grampia) loại
đuôi ngắn ở Anh Quốc, Spanische Wildkatze (felis sivestris iberica)
và europäische Wildkatze (felis silvestris europaca); Ở Ấn Độ
Indische Steppenkatze (Felis silvestris ornate), Rostkatze (Felis prionailurus
rubiginosus), Iromote Katze (Felis prinailurus iromotensis) bắt chim
cua ở các đảo của Nhật, Fischkatze (Felis prinailurus vierrimus)
ở Silanka và Trung Hoa bắt cá và rắn, Luchs (Felis lynx) tai dài
ở Sibirien, Manul (Felis manul) tai nhỏ phủ đầy lông ở Iran...
Mèo
nhà và mèo rừng
Chúng ta có thể phân
biệt được mèo nhà và mèo rừng, mèo nhà bộ lông thay đổi
nhiều màu sắc, mèo rừng không giấu phân, nhưng mèo nhà thường
tìm chổ kín để phóng uế, nên tục ngữ có câu "giấu
như mèo giấu cứt". Các nhà khoa học khám phá ruột của
mèo nhà dài hơn mèo rừng, bộ óc nhỏ hơn 30% vì ảnh hưởng
đời sống và thực phẩmmèo nhà nhỏ con, xương mặt rộng
và mõm ngắn, cấu tạo răng cũng khác.
Các
loài mèo trên thế giới (mời đọc phần A cuối bài)
Đời
sống và tập tính của mèo
Mèo không có các xương
đòn cứng, xương sống của mèo có nhiều đốt di chuyển
dễ dàng, có thể chui qua những lỗ nhỏ leo trèo nhanh, mèo
đi trên các ngón chân có lớp đệm. Xương đuôi dài để
giữ thăng bằng, thân thể mèo cấu tạo 7 đốt sống cổ,
13 đốt sống ngực, 7 lưng và 3 hông, tùy theo đuôi dài hay
ngắn mèo có từ 14 đến 28 đốt sống đuôi. Thân mèo mền
mại nằm ngủ có thể cuộn tròn cơ thể, chân có vuốt nhọn,
các vuốt chân trước sắc hơn chân sau đều thu lại nằm
trong da và lông bao quanh đệm ngón chân, nên đi rất nhẹ.
Từ trên cao rơi xuống mèo có phản xạ tự xoay thân tới
vị trí thích hợp và rơi chân xuống trước.
Mèo cái trong mùa
động tình, Chúng kêu kéo dài và thảm thiết hơn, thường
tiết ra mùi và tiếng kêu đặc biệt hấp dẫn mèo đực tìm
đến đôi khi mèo cái không chịu giao phối. Chúng phản ứng
dữ dội khi gặp "đối tác", thậm chí là đánh đối phương
tan nát. Sau khi mèo đực giao hợp mèo cái kêu la rượt cắn,
mèo đực phải chạy trốn. Mèo mang thai từ 57 đến 70 ngày,
khi sanh mèo thường tìm chỗ kín, đẻ mèo con trong bọc, mèo
mẹ liếm sạch bao cho mèo con chào đời, đôi khi sinh một
đàn 2 đến 6 con nhỏ khoảng 100gr, bú sữa mẹ một tuần
sau mở mắt. Từ một tháng tuổi trở đi chạy nhảy leo trèo
và bắt mồi nhỏ, lúc nhỏ mèo mẹ ngậm cổ mèo con mang đi,
từ 4 tháng mèo trưởng thành có thể bắt mồi. Mèo sống
lâu trên 10 năm, không thích tắm nước nhưng có thói quen thè
lưỡi tiết nước bọt vào chân của nó bôi lên toàn thân
để làm sạch cơ thể, chải chuốt lông. Ban ngày mèo thích
ở chỗ kín yên tĩnh ngủ nhiều giờ, hoạt động vào buổi
sáng sớm hay về đêm, mắt mèo có tầm nhìn tốt nhất vì
bóng tối tạo ra một màng lưới thị giác sáng hơn. Sự biến
đổi màu sắc của mắt mèo giữa ánh sáng và màng trạch,
ban ngày nơi trời sáng tròng đen của mèo khép lại để khỏi
bị lóa mắt. Mèo nhìn rộng từ 200° bis 220°. Mắt mèo có
9 màu khác nhau: Braun/brown, Kupferfarbe /copper color,
Golden, Babyblau, Siamblau, Birmablau, Meergrün/
Sea Green, Reines
Grün/ Pure Green, Haselnussfarbe.
Mèo uống nước
rất nhanh lưỡi chạm nhẹ mặt nước kéo theo một lượng
lớn nước, một tốc độ quá nhanh khó có thể nhìn thấy
bằng mắt thường, mèo không nhận được vị ngọt của đường,
nhưng xúc giác của mèo rất nhạy bén và tai mèo rất thính.
Mèo ăn thịt cá nhưng đôi khi cũng nhai cỏ tươi để giúp
cho sự tiêu hóa.
Mèo
trong tín ngưỡng
Mèo gần đời sống
con người, nên có nhiều truyền thuyết, thần thoại, tranh,
tượng...được thần thánh hoá. Tuy nhiên, mèo thỉnh thoảng
bị coi là ma quỷ, ví dụ như nó không mang lại may mắn hay
thường đi liền với những mụ Phù thuỷ trong thời Trung
cổ. Ðặc điểm nền Văn hóa Ai Cập cổ
đại về nông nghiệp, họ theo tôn giáo đa thần thờ nhiều
thần linh. Biểu hiện nữ thần Bastet/ Pasht (Bastet được coi
là vợ của thần mặt trời Re, mẹ của sư tử thần Mahes.
Bastet mình sư tử đầu mèo là sức mạnh của mặt trời,
bảo trợ cho sự phì nhiêu và tình Mẫu tử. Nữ thần Bastet
được thờ ở thành phố Bubastis, cách Cairo khoảng 50 dặm,
thuộc phía đông vùng đồng bằng sông Nile. Di tích còn sót
lại của ngôi đền 2.200 năm tuổi tôn thờ một nữ thần
mèo Ai Cập, được tìm thấy gần ga tàu điện ở Alexandria.
Mèo sinh trưởng
nhanh biểu tượng cho hạnh phúc và tình yêu. Theo nhà sử học
người Hy Lạp Herodot (484-424 TCN) thời ấy nếu con mèo trong
nhà chết, cả chủ nhà lẫn tôi tớ phải cạo lông mày và
làm lễ tang long trọng. Nếu mèo nuôi trong các đền thờ thì
cả xóm làng, thành phố đó phải để tang. Sau khi chết, mèo
được ướp xác và chôn riêng ở một nghĩa trang, chọn nơi
rất cao quý. Địa vị cao quý của loài mèo có lẽ bắt nguồn
từ khả năng bắt chuột tài tình ở các vựa lúa của Ai
Cập. Sự sùng kính quá độ này đã gây không ít tai họa,
ai vô tình làm chết mèo bị kết tội tử hình.
Một số huyền
thoại về mèo: con mèo của tiên tri Hồi giáo Mohammed, xe của
nữ thần Freya luôn luôn vẽ hai con mèo, cầu Devil về mèo.
Các ngôi đền đứng ở Tokyo Go-To-Ku-Ji, vinh danh mèo "Neko Maneki".
Ở Trung Quốc và Thái Lan vẫn còn thờ mèo như vị thần,
ở Đông Timor ai giết một con mèo bị nguyền rủa cho tới
bảy đời...Ngày nay các nước Tây phương có Hội bảo vệ
súc vật, nếu ai đánh hay giết chó mèo cũng bị phạt.
Nhưng điều không
vui ở Đức (ở phần đất phiá Đông Đức cũ) có thiểu
số người Việt xuất thân từ XHCH làm khách thợ, có người
đã bắt trộm mèo của hàng xóm ăn thịt, họ bị bắt phạt
tù, báo chí lên án làm người Đức mất thiện cảm với
người Việt ở đó và họ cũng xem chợ Đồng Xuân là một
ổ tội phạm... đúng " một con sâu làm rầu nồi canh". Người
Việt thuyền nhân tỵ nạn CS ở phía (Tây Đức cũ) hội nhập
thành công tốt đẹp không bị ảnh hưởng cái xấu từ phiá
bên kia "bức tường Berlin".
Văn
chương, chuyện cổ tích, phim và tác phẩm nghệ thuật
Các chuyện cổ
tích của nhà văn Äsop thế kỷ thứ 6 trước CN, đến nhà
thơ La Fontain (1621-1695), Carlo Collodie (1826-1890), Rudyard Kipling
(1865-1936), beatrix Potter (1866-1943), Kathleen Hale (1898), Humorist
Edward Lear (1812-1888), Lewis Carroll (1832-1898), Theodor Suess Geisel(1904-1991)
và nhiều tác giả viết về mèo hấp dẫn làm độc giả say
mê. Truyện cổ Nước Nam sự tích con chuột và con mèo. Nhật
có sự tích mèo Kitty không miệng..
Phim với hình ảnh
mèo một thời nổi tiếng như: Batman (1966); Batman Returm (1992);
Frühstück bei Tiffany (1961) do nữ tài tử Audry Hepburn đóng được
giải thưởng PATSY (Picture Animal Top Star Awards of the Year).
Die unglaubliche reise
(1963); Harry und Tonto (1973); Die Schöne und das Tier (1945); Cat &
Dogs (2001); Rosenkrieg (1989) Die Nacht der tausend Katzen (1972); Katzenmenschen
(1942); Die Schwarze Katze (1985); Superman (1978); Die katze aus dem Weltraum/The
Cat from Outer Space (1978) ...
Phim hoạt hình hiện
đại, mèo là nhân vật chính: Họ mèo tội phạm (1993), phim
Walt Disney, mèo quý tộc (1970), Fritz the Cat (1972), Disney Chip
und Chap . Những cuộc phiêu lưu của Al Katzone, những kẻ thù
vĩnh cửu của chuột Mickey và Goofy, Pat Sullivan (1917), các nhân
vật hoạt hình Felix the Cat, trong đó một con mèo đen được
trình bày như là một diễn viên hài dễ thương. Các loạt
phim hoạt hình Tom & Jerry (1939) mèo nhà Tom chơi với những
con chuột Jerry thông minh, Alice in Wunderland, Petersburger Nacht..
Felidae (1994) Babe (1995), Stuart Little (2000)... Báo chí nhắc đến
nhiều thay đổi nhân sự tại Anh, riêng mèo Larry thì vẫn
yên vịbắt chuột trong dinh, đã chứng kiến ba thủ tướng:
David Cameron, Theresa May và Boris Johnson, dọn ra khỏi dinh thủ
tướng ở số 10 Downing, London.
Mèo trong nghệ thuật,
danh họa Pablo Picasso (1881-†1973) rất yêu thích vẽ tranh mèo,
tác phẩm nổi tiếng là "Cubist cat/Kubistische Katze"; Francesco
Bassno (1549-†1529) với tranh "Das letzte Abendmahl/ bửa ăn tối
cuối cùng) có mèo và chó nằm dưới bàn; Joseph Wright (1734-†1797)
tranh "Das Ankleinden der Katze"; Hsuan Tsung ở thế kỷ 18
"vườn xuân mèo trèo cây" trong bảo tàng viện New York.
Các danh họa Nhật của thế kỷ 18 &19 Utamaro (1753-†1806)
Kokusai những tác phẩm "beginnings of racial breeding/anfänge der
Rassezucht"; Mädchen, das eine diebische Katze bestraft/Girl who punished
their impish cat"
Hí
họa quảng cáo khắp mọi nơi đều gặp mèo, hoạ sĩ Nga Zar
Peter d.Gr "đám tang mèo "; Jean Cocteau (1889-†1963) tranh "Club
des amis des chats"; Louis Wain tác phẩn "dạo phố/ Stadtbummel";
Hiroshi Fujimoto (1934-†1996) tác phẩm "Doraemon" ... Nhiều huy
hiệu, tượng mèo bằng sứ, đồng, nhựa nổi tiếng qua nhiều
thời đại...
Ngành Y Khoa, mèo
được xem là mẫu thí nghiệm rất tốt. Schröginger đưa thí
nghiệm mèo về "Hiện tượng cơ học lượng tử". Việc phân
tích trình tự genome của mèo có thể giúp dẫn đến những
khám phá mới, tạp chí "Nghiên cứu bản đồ gen" các nhà
khoa học Mỹ đã giải mã bản đồ gen hoàn chỉnh đầu tiên
của mèo hy vọng tìm ra nguyên nhân và cách chữa trị nhiều
căn bệnh hiểm nghèo ở người. Tuy nhiên nuôi mèo phải cẩn
thận tránh bệnh truyền nhiễm do Toxocara
Cati (giun đũa mèo), người
bị bệnh có thể bị sốt, xanh xao, gầy ốm, ho khò khè kéo
dài. Phải tắm mèo để tránh mồ hôi mèo gây nên bệnh dị
ứng, nuôi mèo ở Tây phương tốn kém phải có bác sỹ Thú
y khám sức khỏe định kỳ, chải lông, xỉa răng cho mèo...
Theo dư luận Hà Nội
"đổi mới" có Chùa, nghiã trang cho mèo chó có tên "Tề
đồng vật ngã" nghĩa là vật và người cũng giống nhau,
nhưng cũng lắm hàng quán bán thịt mèo "tiểu hổ", mèo chó
không dám thả ra ngoài sợ bắt ăn thịt...Bệnh viện "Pet
Health" chửa bệnh cho mèo chó, trong khi trẻ em Việt Nam
còn thiếu ăn không đủ tiền đi học. Các "đại gia-cán bộ"
thích nuôi "mèo hai chân".
Thực vật có loại
cây Râu mèo/ Orthosiphon có dược tính dùng trị bệnh thận,
phù thủng, tiểu đường. Loại táo mèo gọi là Sơn tra trị
áp huyết, an thần...
Mèo
qua thi ca
Từ nông thôn đến
thành thị, người ta đều nuôi mèo để bắt chuột, trong
dân gian có nhiều tranh như: mèo tha con cá, tranh mèo chuột,
chuyện Trạng Qùynh ăn cắp mèo của vua. Bài quyền "Miêu
tẩy diện"(mèo rửa mặt) nổi tiếng khắp làng võ
Bình Định mô phỏng theo thế đánh nhu nhuyễn, linh hoạt của
mèo..
Qua tục ngữ, ca
dao truyền khẩu luôn rực rỡ tinh hoa của thi ca bình dân,
diễn tả đơn sơ trong sáng nhẹ nhàng. Mèo
già khóc chi chuột chết, ý nói người đạo đức
giả không thực lòng mấy khi mèo chê
thịt chuột, mèo nào chẳng ăn vụng,như mèo thấy mỡ,
chỉ sự thèm khát danh lợi chạy chọt mua bằng giả để
có điạ vị, uy thế trong xã hội dễ ăn hối lộ, tham nhũng
như cán bộ thấy nơi nào có đất bán được thì bán để
vinh thân phì gia, đúng là loại mèo mù
vớ cá rán. Rình như mèo rìnhchuột,Mèo đàng gặp chó
hoang là những kẻ vô loại kết bè tựu đảng với
nhau.
Con
mèo làm bể nồi rang, Con chó chạy lại phải mang lấy đòn
những việc oan ức, Mèo tha miếng thịt
thì đòi, Kễnh tha con lợn mắt coi chừng chừng Ám
chỉ đời sống xã hội bất công, kẻ có quyền hành ăn hối
lộ, cướp đất của dân làm việc sai trái thì được bao
che, ngược lại khi kẻ dưới sai sót nhỏ bị trừng phạt
nặng.
Đánh
giặc mà đánh bằng tay, Thà về xó bếp giương cung bắn mèo.
Trường
hợp nầy rất giống hiện tình Việt Nam bị bọn Tàu xâm
chiếm biển đảo, bắt ngư dân đánh cá trên biển Việt Nam
để tống tiền, đánh đập nhưng nhà cầm quyền Việt Nam
chỉ phản đối bằng miệng không dám cho tàu Hải quân hoạt
động vùng biển tranh chấp, bảo vệ chủ quyền và ngư dân
trên biển đảo mà cha ông chúng ta bỏ xương máu giữ vững
hàng ngàn năm qua.
Lèo
nhèo như mèo vật đống rơm là nói
dai, nói đi nói lại để nài xin điều gì đó.Mèo
uống nước bể chẳng bao giờ cạn: Khuyên người
ta nếu biết tiết kiệm biết chi tiêu đúng mức thì không
sợ túng.Ăn nhạt mới biết thương mèo:
Mình có lâm vào cảnh khó khăn thì mới biết thương những
người không may mắn như mình. Mèo mả
gà đồng: Ám chỉ những kẻ vô loại, hay lăng nhăng,
ăn chơi đàng điếm, không có nhân cách loại mèo hai chân
để chỉ những mối quan hệ trai gái không đàng hoàng.
Mèo yếu đuối
hơn chó, thường bị chó rượt cắn uy hiếp, nhưng đôi lúc
mèo cũng tự hào ta ở trên cao để chọc tức con chó đang
hầm hừ dưới gốc cây
Con
mèo trèo lên cây vông
Con
chó đứng dưới, ngó mông con mèo
Mèo
rằng sao chó chẳng theo
Lên
đây, mèo sẽ dạy leo cho mà.
Những câu ca dao
ngụ ngôn là những bức tranh nhỏ có tính cách tâm lý, mèo
chuột là hai địch thủ, không thể sống với nhau.
Con
mèo trèo lên cây cau
Hỏi
thăm chú chuột đi đâu vắng nhà
Chú
chuột đi chợ đường xa
Mua
mắn mua muối giỗ cha chú mèo
Qua bốn câu ca dao
hài hước trên, nói mèo đạo đức giả, vờ vĩnh của phường
nham hiểm, con chuột cũng không vừa, thông minh biết mắng
xéo chú mèo. Ca dao tuy mang hình thức trào lộng về mèo, nhưng
có nhiều tục ngữ ngụ ý khuyên răn ở đời dù ai có địa
vị, có tài, nhiều tiền cũng phải khiêm tốn, đừng tự
cao, huênh hoang như
mèo khen mèo dài đuôi. Kính chúc quý
gia đình độc giả và thân hữu năm mới Quý Mão an bình,
khoẻ mạnh, may mắn và vui xuân thật trọn vẹn.
Nguyễn
Quý Đại
Hoamunich
A/
Các loài mèo trên thế giới
Mèo nhà có thể
phân biệt hai nhóm: mèo lông ngắn và lông dài có lẽ nguồn
gốc từ mèo rừng Châu Phi người Ai Cập đã thuần hóa đầu
tiên. Từ đó du nhập đến các quốc gia đầu tiên Hy Lạp,
La Mã, các thủy thủ mang về Ấn Độ khoảng 500 TCN; Trung
Hoa 400 sau CN, Nhật 999 năm SCN, Norwegen; Byzanz (Istanbul) 400 năm
SCN; Pháp và Quebec thế kỷ thứ 16, Mỹ 1620... Vùng Đông Nam
Á có mèo Xiêm (Thái Lan), thông minh, dễ dạy, bắt chuột giỏi.
Có giả thuyết cho rằng mèo Xiêm cũng bắt nguồn từ mèo
Siam.
Những thế kỷ
qua mèo được lai giống đẹp, được nhiều gia đình yêu
thích nuôi dưỡng khắp nơi trên thế giới như: mèo Iran (Ba
Tư) lông dài mặt tịt (Persian); mèo Maine Coon, mèo Exotic
(gần giống mèo Iran khuôn mặt tròn tịt dễ thương nên
tạm gọi là Iran lông ngắn) Abyssinian; mèo Siamese; mèo Ragdoll;
mèo Sphynx không lông; mèo Miến Điện (Birman); mèo Mỹ
lông ngắn (American Shorthair); mèo Oriental; mèo Tonkinese; mèo
Norwegian Forest Cat; mèo Cornish Rex lông xoăn thanh mảnh, ngộ
nghĩnh; mèo British Shorthair; mèo Devon Rex lông xoắn; mèo
Burmese; mèo tai cụp (Scottish Fold); mèo Ocicat; mèo xanh Russian
Blue; Gấu mèo Mau Ai Cập (Egyptian Mau); mèo Somali cute; mèo
thỏ Manx không đuôi; mèo Siberian cute; mèo Nhật đuôi cụt
(Japanese Bobtail); mèo lông xoăn Selkirk Rex; mèo Pháp Charteux;
mèo Thổ Nhĩ Kỳ Turkish Angora; mèo Mỹ tai vểnh (American
Curl); mèo Colorpoin Short Hair; mèo European Burmese; mèo mun Ấn
Độ (Bombay); mèo Mã Lai Singapura; mèo Mỹ đuôi cụt (American
Bobtail); mèo Korat; mèo Bali (Balinese); mèo Havana Brown; mèo
"hổ ưa nước" Tukish Van; mèo Javanese; Mèo Ragamuffin; mèo
Mỹ lông dày (American Wirehair); mèo lông xoăn dài LaPerm....
Mèo lông dài (Langhaarkatzen/longhair)
có bộ lông xù tuyệt đẹp được lai giống thuần dưỡng
các loại mèo: Balinse, Perserkatze từ 1620 ở Perien nhập cảng
sang Ý rồi đến Anh Quốc từ thế kỷ 19, nặng từ 3,5- 7
kilo. Mũi ngắn, rộng, tai nhỏ nhọn lông phủ kín, mắt to
tròn, chân ngắn mập.
Norwergische Waldkatze
khoảng 1000 năm sau Công nguyên (SCN) từ Byzanz nhập cảng sang
Norwegen, nặng từ 3-9 kilo, đầu như hình tam giác, tai rộng
cao, mắt lớn
Mèo Cymric còn có
tên "Cymru" (Walissch für Wales) ở Mỹ, Canada nguồn gốc từ
Bắc Mỹ nặng 3,5- 5,5 kilo. Đầu tròn cổ ngắn, chân trước
ngắn hơn chân sau, đặc biệt loại nầy không có đuôi (schwanzlos)
Mèo tai nhỏ Scottish
Fold nặng 2,4- 6 kilo chân dài thon nhỏ, mắt to đầu tròn, tai
nhỏ, vành tai cụp vào đầu như mèo bị cắt tai, thích sống
yên tĩnh.
Mèo Türkisch Van:
có trước thế kỷ 18, nặng từ 3-8,5 kilo, tai lớn cao, mắt
to hình oval, chân dài trung bình, đuôi dài nhiều lông
Mèo Türkisch Angora
từ thế kỷ thứ 15, nặng từ 2-5 kilo thông minh nhanh nhẹn
đầu nhỏ cổ thon, tai lớn dài, mắt hình oval, đuôi dài nhiều
lông như một cái chổi, đẹp nhất loại lông màu tam thể.
Từ thế kỷ thứ 17 nhập sang Anh-Pháp tới thế kỷ thứ 20
nhập cảng sang các quốc gia khác.
Mèo Nga (Russian cat)
có lông xù dài, màu trắng, mắt xanh lơ chân to,
giống như mèo Iran,
nhưng mèo Iran có bộ lông 2 lớp với lớp lông dài phía ngoài
và lớp lông ngắn khá dày ở bên trong. Đuôi của chúng luôn
xù rất nhiều màu lông khác nhau, giống mèo này mũi nhỏ và
mắt to
Mèo Mỹ lông ngắn
được xem là mèo đến đất Mỹ đầu tiên năm 1620 trong con
tàu Mayflower/ Hoa Tháng Năm. Thủy thủ của đoàn Pilgerväter/Pilgrims
nuôi mèo bắt chuột phá phách hàng trên tàu đến vùng Plymouth/
Massachusetts (nguồn gốc Thanksgiving). Thời gian trôi qua, giống
mèo sinh sản tại Bắc Mỹ được lai giống với các loại
mèo lông dài, lông ngắn, để tạo ra một loạt các mèo con
xinh xắn đủ chủng loại, thân dài hay mập, những bộ lông
màu sắc đẹp, tính tình dịu dàng nhu mì và thân thiện. Năm
1906, hiệp hội CFA đã chính thức công nhận các giống mèo
đáng yêu này.
Mèo Anh, loại lông
ngắn phổ biến và được yêu thích. Hội đồng quản lý
mèo Anh (UK's Governing Concil of the cat fancy) công nhận từ năm
1944, khi nó vượt qua giống mèo Thái.
Mèo không lông theo
tên của Ai cập cổ "Sphinx" (hay là loài mèo Canada) "haarlos/
Hairless". Nặng 3,5-7 kilo, tai lớn đầu dài và rộng là giống
mèo hiếm thấy trong họ hàng nhà mèo. Được tìm thấy từ
năm 1966 khi tại Toronto, Canada có một chú mèo con không lông
có tên Prune từ lúc sinh ra đến khi trưởng thành chỉ có
những sợi lông tơ! toàn thân là những nếp da nhăn nheo, nên
thân nhiệt cao hơn mèo có lông. Mèo Sphynx rất thân thiện
và quý hiếm. Con mèo này sau đó còn giao phối với mẹ của
nó và sinh ra thêm nhiều chú mèo không lông khác. Và đây được
coi là tổ tiên của loài mèo không lông ngày nay.
Tài liệu tham
khảo
Katzen Die neue Enzyklopädie tác
giả Dr. Bruce Fogle NXB Dorling Kindersley 2002
Hình trên Internet,
Tục ngữ ca dao của truy tập
trên ca dao. http://www.saimonthidan.com/
|