Con ong nhỏ
ngủ nhờ bên hè phố.
Quên thiên đàng, quên cả
tuổi yêu thương
Ty
"Nếu
ong biến mất trên mặt đất, nhân loại chỉ còn tồn tại
được bốn năm".
Lời
tiên tri nầy thường được gán cho nhà bác học trứ danh
Einstein. Nhưng chẳng có một bằng chứng nào và cũng chẳng
mấy ai tin. Nhất là Einstein không phải một nhà sinh vật học!
Tuy nhiên, câu tiên đoán nầy cần được đào sâu hiểu rộng
vì tuy là một nhà vật lý học, Einstein còn là một nhà hiền
triết, một lương tâm đạo đức, thế nào cũng có một ý
nghĩa sâu xa. Thật không quá đáng nếu ong được nhận dạng
với nhân loại từ thuở xa xưa. Trong thần thoại đã có chuyện
Melissa lấy mật ong nuôi thần Zeus trốn trên đỉnh Ida bên
đảo Crete để tránh khỏi bị cha Cronos ăn thịt. Sau nầy
lớn lên, Zeus lại cho cha uống thuốc có bôi mật trên ly cho
hấp dẫn để cha ựa mửa những anh chị mình ra ngoài. Thần
thoại còn kể chuyện Aristée, thần bảo trợ loài ong, muốn
quyến rũ Eurydice, vợ yêu mới cưới của Orphée, buộc Eurydice
chạy trốn và bị rắn cắn chết. Ngay sau, các đàn ong đều
biến mất trên mặt đất. Muốn chúng trở lại các Chúa buộc
Aristée phải giết một con bê để thối nát và các đàn ong
từ đấy bay ra, gây ra cuộc phục sinh linh hồn từ một nơi
ủng mục, phát sinh phép đảo nghịch chết sống. Trong quá
trình cuộc tiến hóa, ngoài liên quan hai trạng thái sinh tử,
con ong thể hiện bước chuyển từ thiên nhiên qua chăn nuôi,
tiêu biểu thế thăng bằng giữa hoang sơ và thuần duỡng,
làm gương sáng cho con người đang tìm một cuộc sống hài
hòa.
|
|
|
Melittosphex
trong hổ phách
|
Vua
Louis XII
|
đàn
ong trong khung
|
Từ thuở tiền sử, khi con
người biết ghi lại đời sống lên các tường đá, đã thấy
có những liên hệ giữa người và ong. Ở Bicorp bên Tây Ban
Nha, trên vách tường Cueva de la Arana có hình vẽ, khoảng 4000-7000
năm tCN, giữa những con ong bay quanh, một người trèo lên giây
để lấy mật ở một tổ ong hoang dại, không khác gì ngày
nay người Hymalaya ở Nepal hay người Maroc trong dãy Atlas trên
các thành núi, các hóc đá. Hình khắc tổ ong xưa nhất, xung
quanh có ong canh giữ, đã được tìm ra dưới triều đại
V Ai Cập (2400 năm tCN) trong đền mặt trời Abou Ghorab, nghĩa
là 4000 năm sau những dấu tích canh nông và chăn nuôi trong
thung lũng sông Nil. Gần đây hơn, ong là biểu hiệu quốc vương
Ai Cập-Hạ thấy trong mộ Séthi-I, Louxor, khoảng 1279 tCN. Còn
tổ ong nhân tạo thì chỉ thấy vào thời đại đồ đồng
ở di chỉ Tel Rehov bên nước Israel : 25 tổ hình ống bằng
đất và rơm được bảo quản nhờ được nung nóng trong một
hỏa hoạn. Theo các nhà khảo cổ, những tổ nầy thuộc một
phức hợp nuôi ong lớn sản xuất hằng năm gần một tấn
mật và 150kg sáp, bị phá hủy khoảng 840 tCN.
Hát
giữa khóm hoa. Hai con ong mật.
Thanh Thanh
Ngọc
Kỹ thuật nuôi ong tuần tự phát
triển ở Hy Lạp và Ro Ma qua những sách của các nhà bác học.
Aristoteles (Aristote 384-322 tCN) miêu tả hoạt động những lỗ
tổ ong dưới quyền một "vương ong" nửa đực nửa cái. Caius
Plinicus Secunnedus (Pline l’Ancient 23-79) kể chuyện người nô
lệ apiarius vận dụng những mẩu tổ ong bằng liễu
giỏ hay bằng li e (liège). Còn bên Trung Quốc thì người Tàu
lúc ban đầu cắt những cành cây có tổ ong đem về đặt
ở mái hiên, đến khoảng 200-500 mới biết xây tổ bằng gỗ.
Vào thế kỷ III, bộ bách khoa toàn thư Guo Pu tả cuộc phân
chia công việc trong tổ và đi đến kết luận ong thuộc loại
sâu bọ sống thành đàn. Thật vậy, mọi con ong phải tuân
theo luật chặt chẽ trong không gian và thời gian. Mới nở
ra, con ong trẻ có nhiệm vụ chùi rửa trong 3 ngày một lỗ
tổ ong hoàn toàn sạch cho bà chúa vào đẻ. Xong, nó trở thành
vú em từ ngày thứ 4 đến ngày thứ 10 nuôi dưỡng ấu trùng
3 ngày với sữa chúa tiết từ tuyến hầu. Sau đó, ấu trùng
chúa tương lai tiếp tục uống sữa chúa còn những ấu trùng
khác được cho ăn mật, phấn hoa trộn trong nước. Từ ngày
11 đến ngày 15, nó có quyền ra khỏi tổ dọn dẹp bên ngoài,
sửa chữa chỗ hư, thông gió tổ, xây dựng lỗ tỗ, đón
nhận ong hút mật về, đỗ đầy lỗ tỗ. Giữa ngày 16 và
ngày 20, nó có nhiệm vụ canh gác tổ, chống quân địch và
chỉ bắt đầu từ ngày 21 mới được bay đi hút mật hoa.
Có ong lo việc mang nước, một công việc rất khó vì nguy
hiểm, về tổ pha loãng mật hoặc làm lạnh tổ .Nó đảm
đương phận sự nầy trong ba tuần và thường chết trong khi
làm nhiệm vụ. Rất ít ong (1%) đảm đang được phép đi tìm
thức ăn, nguồn hoa, tìm chỗ cho đàn mới và về báo tin.
|
|
|
ong
uống nước
|
ngòi
nọc ong
|
Apis
mellifera scutellata
|
Muốn làm những nhiệm vụ
nầy, chúng phải có nhiều phương tiện truyền thông. Như
mọi côn trùng khác, ong biết sử dụng những pheromon, những
phân tử hóa chất vận chuyển thông tin đặc thù cho mỗi
loại, để báo động cũng như để tìm đường về tổ. Ong
chúa có pheromon đặc biệt để quyến rũ ong đực hay để
tập hợp ong lúc chia đàn. Ong cũng có thể truyền tin với
đôi cánh xào xạt, đôi râu cọ xát để chỉ kể những gì
ta biết vì ngày nay ta chưa đâm thủng được màn bí mật
trong đời sống con ong. Điệu nhảy để chỉ đuờng đến
chỗ có thức ăn do nhà động vật học Karl von Frisch, người
tiên phong trong khoa học các loài ong, phát hiện từ đầu thế
kỷ XX và được tặng thưởng giải Nobel năm 1973, nay đang
được tiếp tục khảo sát. Qua lớp kính tổ ong thực nghiệm,
ông nhận xét khi tìm được thức ăn, con ong về tổ lặp
đi lặp lại một điệu nhảy gồm có một đường thẳng
và hai nửa vòng hai bên (gần như chữ số 8) : góc điệu nhảy
bên nầy hay bên kia nửa vòng chỉ định hướng; nhịp điệu,
tốc độ rung rinh và bề rộng của vòng chỉ định độ xa…,
những dữ kiện nầy thay đổi qua thời gian, qua vị trí của
mặt trời. Vì có người không chịu tin, Randolf Menzel dùng
ra đa theo dõi ong đến 3km và chứng minh năm 2005 chính điệu
nhảy đã chỉ định nguồn thức ăn chứ không phải mùi hoa.
Nhưng ông lại đặt thêm câu hỏi : trí nhớ của ong tồn
tại được bao lâu và ảnh hưởng lên điệu nhảy thế nào
? Ông cho thay đổi chỗ thức ăn, mỗi lần ong tìm ra và thay
đổi điệu nhảy. Ong đã lập một quan hệ hình học giữa
hai chỗ, như vậy là nó có một bản đồ nhận thức chuyển
giao thông tin qua điệu nhảy ! Từ đây, Randolf Menzel đi
xa hơn Karl von Frish đã dừng lại ở kích thích giác quan :
ông muốn vận dụng môn khoa học thần kinh và môn khoa học
bộ gien để khảo cứu xem bản đồ kia đã được mã hóa
ở phần nào trong não ?
|
|
|
ong
mật Á Đông Amis
|
ong
Chúa trong tổ
|
ong
nghề mộc Xylocopa
|
Phân chia nhiệm vụ, tác động
dễ dàng là những sự kiện cần thiết cho ong sống thành
đàn. Câu hỏi là từ đâu phát xuất tập tính ấy ? Ở học
viện sinh vật học đại học Illinois, để tìm biết cơ chế
nầy, Gene Robinson dựng phòng thí nghiệm dành riêng để khảo
cứu về ong cách đây hơn 20 năm. Ông và các nhà cộng sự
phát hiện ra được sự khác biệt số luợng protein các gien
trong óc các ong vú em và các ong hút mật. Sự khác biệt nầy
không phụ thuộc tuổi tác mà chuyển động thuận nghịch,
có thể đảo ngược tùy theo nhu cầu của tổ. Nói một cách
khác, một con ong hút mật có thể trẻ lại thành ong vú em
nếu cần ! Cuộc thay đổi nầy đi đôi với số lượng pheromon
do các ong già tiết ra, số lượng ầy càng nhiều, số lượng
ong vú em càng tăng. Cuộc thay đổi nầy rất cần thiết chẳng
hạn khi một bà chúa rời tổ đi lập một đàn khác, bà chúa
trẻ còn lại chỉ có ấu trùng và ong hút mật, buộc chúng
phải trẻ lại làm vú em. Ở viện đại học Arizona, Gro Adam
phát minh trong ong hóa chất apoliprotein, rất nhiều ở ong vú
em mà ít ở ong hút mật. Khi trẻ lại thành ong vú em, hóa
chất nầy tăng lên. Hơn nữa, chúng thu hồi lại được 50%
khả năng hoạt động trí óc đã mất đi khi thành ong hút
mật. Sự kiện nầy không có ở con người. Khi tin được
Gene Robinson cho đăng trong báo Science năm 2003, tiếng vang
dậy lên không ít vì là nền tảng cho cuộc khảo cứu về
già nua trong con người. Năm 2012, một bản báo cáo khác trình
bày kết quả thay đổi các gen giữa ong hút mật và ong tìm
hoa. Song song với những khảo cứu nầy, những gien cũng được
xem xét trong những ong gác cửa khi có báo động, pheromon do
chúng phát ra ,…dần dần cuộc khảo cứu bước qua địa
hạt sinh vật xã hội học vì từ cá nhân đã qua đám đông
!
|
|
|
ong
trong hoa
|
ong
Chúa
|
ong
mật Orsata
|
Nói chung, con ong nào cũng có
phận sự giữ tổ nhưng có một số ong đặc biệt hiếu chiến,
thành quả một cuộc ghép lai ong Au châu và ong Phi châu, thấy
rõ ở Bắc Mỹ. Những ong Au châu thường mang một pheromon
báo động, càng nhiều báo động thì pheromon càng nhạy. Những
pheromon ong "lai" không cần báo động vẫn luôn nhạy bén, xem
như tính chất nầy đã đuợc vĩnh viễn gắn vào bộ gen.
Những nhà khảo cứu đánh giá tập tính xã hội nầy là "bẩm
sinh" chứ không phải "thu được". Với ví dụ
nầy trong ngành khảo cứu sinh vật xã hội học, tuy dựa lên
căn bản chủ yếu sinh vật học, bộ gien không thể xem là
bất di bất dịch mà luôn nhạy cảm với môi trường. Ngành
khảo cứu xem xét sự thay đổi loại nầy trong bộ gien gọi
là biểu sinh học : ở đây không có thay đổi trong lòng mật
mã gien bốn gốc A,T,G,C mà là lồng ghép những nhóm hóa học
vào mật mã. Cuộc lồng ghép nầy có thể truyền chuyển qua
các thế hệ và nhất do các yếu tố môi trường gây ra và
có ảnh hưởng lên mức biểu lộ của gien. Không có một
chút khác biệt gì khi so sánh biểu lộ của gien liên quan đến
thái độ hung hăng loại ong Phi châu và của gien dưới ảnh
hưởng pheromon ở loại ong  châu. Trong trường hợp nầy,
thái độ xã hội có thể là "bẩm sinh" hay "thu được". Rất
có thể một mai gần đây, một trung tâm bao gồm những nhà
khảo cứu nhân chủng và xã hội sẽ làm việc chung với nhau
trên đề tài bộ gien để thử xem ảnh hưởng của gien lên
quan hệ xã hội và trái lại đồng thời dung hòa "ẩm sinh"
và "thu được". Được thế, đóng góp của loài ong rất là
đáng kể.
Chỉ
một lần yêu rồi ong chết
Chính
con ong ấy mới nhân tình
Trần Mạnh
Hảo
Trong các công việc làm của ong
để chứng minh cho câu tiên tri của Einstein, có lẽ việc trao
chuyển phấn hoa là một công việc quan trọng bậc nhất. Không
có khả năng tự mình thụ tinh vì bất động và đắng khác
hai phần đực, cái hầu hết nằm cách nhau trong mọi loài,
những cây có hoa phải sắp đặt đủ mưu mẹo tài tình để
cám dổ những sâu bọ biết di chuyển hòng chuyển đạt phấn
thay mình. Khi luồn mình vào một cái hoa để hút nhụy, ong
cọ mình vào nhị hoa, giải phóng phấn hoa ra khỏi bao phấn
dính vào cơ thể mình. Khi qua một cái hoa khác, ong đặt phấn
hoa lên đầu nhụy thông qua vòi nhụy nối liền với buồng
trứng, dọn đường cho hột cây vào noãn thụ tinh. 80% cây
cỏ cần những nhân viên chuyển đạt nầy, khi thì gió, nước,
khi thì động vật như chim, dơi, nhưng phần lớn là sâu bọ
: cánh màng, hai cánh, cánh phấn, cánh cứng,… Đặc biệt
hoa va ni lần đầu tiên ở đảo La Réunion được con người
nhân tạo thụ tinh giùm. Bên phần hoa cũng không thiếu phương
sách để hấp dẫn sâu. Có những chiến lược rất tài tình
: hoa cho phát tiết mùi sâu cái để kêu gọi hay tạo hình
dáng, màu sắc để khêu gợi sâu đực. Phía kia, sâu thì cần
nhụy hoa và phấn hoa để nuôi chính mình và ấu trùng. Nếu
có thụ tinh thì thành hình một mầm trở nên hột. Đây là
một cuộc trao đổi có lợi cho đôi bên. Riêng ong là một
nhân viên chuyển đạt thượng hạng : lông nhiều mang được
nhiều phấn, hút mật nhiều thì trang trải phấn nhiều nơi.
Người ta tin cuộc hợp tác nầy bắt đầu từ hơn 100 triệu
năm nay, hoa và ong có thời gian thích nghi với nhau và chính
Darwin đầu tiên đã bàn đến cuộc tiến hóa song song. Năm
1862 khi tìm ra trong hoa lan Agraecum sesquipedale một ống
mật dài đến 30cm, ông tiên đoán phải có một con sâu có
vòi dài chừng ấy như ta thường nói "trời sinh voi sinh cỏ".
Hồi ấy ai cũng nghi hoặc cho đến khi phát hiện ở Madagascar
con bướm Xanthopan morgani pra
Đôi
mắt dao cau em vừa liếc
Anh là
ong mật sắp hồi sinh?
Trần Mạnh
Hảo
Khi nói đến ong, phần lớn chúng
ta nghĩ đến ong thuần dưỡng, loại ong mật Apis mellifera.
Nhưng ong nầy chỉ là giọt nước trong biển cả 20.000-30.000
loại ong trên mặt đất. Chỉ riêng ở Pháp có đến 800-1000
loại ong hoang dã, sống đơn độc, không tổ, không chúa, tất
nhiên không tập đoàn lâu đời hằng vạn ong. Với một cuộc
sống tương đối ngắn (4-6 tuần), chúng có hậu duệ khoảng
vài chục ong. Trái lại với chúa ong thuần duỡng đi lập
một tập đoàn mới khi chia đàn, ong hoang dã tự kiếm chỗ
nương thân, mạnh ai nấy sống. Loại ong sống trong đất (80%
tổng số) đào hang trong đất hay trong cát, hằng trăm tổ
chung đụng trong vài ba met vuông. Loài ong "thợ nề" xây tổ
trên đá hay tường cũ, vận dụng cát, sạn, đất sét tẩm
mật hay nước miếng, có khi nhựa thông như Anthidellium strigatum.
Có những loại chọn gỗ chết như ong lớn Xylocopa violacea
hay thân tre như Ceratina. Con ong Osmia bicolor nhỏ,
đỏ và hung, vào ở ngay trong vỏ óc sên bỏ trống, còn ong
loại Nomada thì không chút đắn đo đẻ ngay 20-30 ấu
trùng của mình vào tổ của bạn đồng loại và mặc cho nó
giết ăn ấu trùng trong tổ. Thật ra cũng chẳng có gì lạ
: ong hoang dã nói chung không có truyền thống nuôi con, đẻ
xong là bỏ ít phấn hoa vào rồi đóng tổ bỏ đi !
Kết quả công tác đồ sộ
của 50 nhà khảo cứu khắp thế giới công bố tháng ba vừa
qua trong báo Sciences chứng minh năng suất sản xuất mật
tương đối thấp với ong thuần dưỡng, bằng nủa sản xuất
củai ong hoang dã. Trong trường hợp cà chua, ong gấu Bombus
tức bourdon, một loại hoang dại không đơn độc đứng bậc
nhất vì khi cho rung cánh nó làm rơi nhiều phấn hoa mà ong
mật Apis mellifera
không biết làm. Cũng vì cơ thể lớn,
ong mật không thể luồn dễ dàng vào trong hoa linh lăng luzerne.
Đằng khác, trong vườn cà phê hay hoa hướng dương, vì ham
hút mật, ong mật ít quan tâm nhuốm phấn hoa nên ít công hiệu
hơn ong gấu. Ong mật chỉ có một ưu điểm : số đông của
cả một tổ ! Đời sống của loại ong gấu nầy cũng đặc
biệt. Cuối hè, sau khi giao cấu, ong cái đóng cửa nằm yên
trong tổ cho đến suốt mùa lạnh. Qua xuân nó kiếm chỗ xây
tổ, tìm phấn hoa rồi đẻ khoảng 100 con. Từ nay, nó không
rời tổ nữa, chỉ nằm đẻ con và nuôi con. Ong gấu có thể
xem như là loại ong chuyển tiếp giữa ong hoang dại và ong
thuần dưỡng. Nhiều loại ong hoang dã đang trên đường tàn
lụi vì môi trường thiên nhiên đang thay đổi mà số lớn
ong hoang dã liên quan đến những cây cỏ đặc biệt. Càng
ít cây cỏ, càng it ong hoang dã. 50% ong hoang dã sống cuối
thế kỷ XIX đã mất và 40% đang bị đe dọa. Ngoài ra những
hoá chất trong phân bón, những ký sinh, những tác nhân gây
bệnh phá hoại phát sinh từ sự độc canh cũng không phải
là những chất bổ cho ong. Đấy là chưa nói đến vì nhiều
lý do tổ ong được chuyên chở qua một môi trường khác thì
thăng bằng giữa các loài ong và hoa bị đảo lộn và trong
dịp nầy ong hoang dã lúc nào cũng bị thua thiệt vi ong mật
quá đông ! Vấn đề sinh thái luôn cần được giải quyết
giữa người nuôi ong và những chuyên gia khảo cứu về ong.
Tôi
yêu con ong vì ong chăm chỉ
Tìm nhụy
hoa làm mật ngọt cho đờiT
Nhà
dưỡng lão La Faiencerie
thành
Xô 5.2021
Đọc thêm
Tờ nguyệt san Sciences et
Avenir có cho xuất bản tháng 7-8.2013 một tập Hors-Série
nhan đề La vie extraordinaire des abeilles, phụ đề Comment
les sauver ? dày hơn 80 trang, gồm có gần 20 bài phổ thông
với nhiều tranh ảnh minh họa, bàn đến hầu hết các vấn
liên quan đến ong. Vài sách đã dẫn :
Karl von Frish, Vie et mœurs
des abeilles, Albin Michel
Thomas Seeley, Honeybee Democracy,
Princeton University Press
Hans Bellmann, Guide des abeilles,
bourdons, guêpes et fourmis d’Europe, Delachaux et Niestlé, 1999
Jean Henri Fabre, Souvenirs entomologiques,
Tobert Laffont
Maurice Maeterlinck, La vie des
abeilles, Complexe
Minh-Ha Pham-Delègue, Connaître
et découvrir les abeilles, Minerva, 1999
Jacques Goût, Tout ce que vous
avez toujours voulu savoitr sur les abeilles, Hatier, 2012
Gilles Fert, L’Elevage,
Rustica, 2008
Vincent Tardieu, L’Etrange silence
des abeilles sur un déclin inquiétant, Belin, 2009
Gilles Tétard, Le sang des fleurs,
Odile Jacob, 2004
Pascal Vernus et Jean Voyotte, Bestiaire
des pharaons, Perrin 200
|