Nghe
hơi nồi chõ khu Khâm Thiên, trong ngõ Văn Chương có quán nhậu
chữ nghĩa trên vỉa hè. Ở đấy có một vài sĩ phu Bắc Hà
nói chuyện văn chương thiên cổ sự vui nổ trời. Bèn lọ
mọ tới quán liêu xiêu hóng hớt chuyện kỳ cổ thì...
Thì vừa
ngửa cổ tợp một ngụm bia hơi, cấu vào mắt có một giả
nhân gật gừ đi tới. Giả nhân đây tuớng rất bạm, mặt
mày nham cổ, chít khăn đầu rìu, quần xắn móng lợn, bạ
xuống ngay trước mặt tôi. Tịch bất tọa rồi, giả nhân
há mồm gọi đĩa tiết canh chó. Làm như không có một tôi
ngồi đấy. Giả nhân lôi trong bị cói ra hai hòn đá kỳ và
cái điếu cầy, ve vé mắt nhìn cối bia của tôi mà rằng:
- Bỉ nho
là ông Cống Thanh Hóa, mỗ danh Cống Quỳnh.
Đang ớ ra
vì cái tên có tạng người muôn năm cũ. Dòm hòn đá kỳ để...kỳ
cọ, ngộ chữ tôi lây lất qua "da trắng vỗ bì bạch" với
người
xưa cảnh cũ nào đâu tá:
- Tôn ông
với bà...
- Tôn ông
với Tôn Ngộ Không khỉ gì. Cứ gọi ông là xong tất.
Và "ông"
văn dĩ tải đạo rằng thời buổi này nói năng đéo lắt,
bụi bụi một chút cho có nhang đèn hương khói. Xong, ông
quẹt quẹt hai viên đá tóe ra lửa và mồi thuốc.
Tôi ngớ
ra vì một là tha hương ngộ cố tri, gặp ông ở quán nhậu
văn chương đây. Hai là hồi nhỏ đọc Truyện Trạng Quỳnh.
Bởi nhẽ ấy, mượn miếng trầu là đầu câu chuyện, tôi
mang chuyện ông và bà Đoàn Thị Điểm tiếp sứ nhà Thanh
để làm quà...
Sứ nhà
Thanh sang nước ta, vua Lê chúa Trịnh tin vào tài ứng đối
của Quỳnh, và bà Điểm nên lo việc tiếp sứ tại ải
Nam Quan. Quỳnh nhận chèo đò chở
sứ bộ qua sông và dựng chiếc quán nhỏ trên bờ để bà
Điểm tiếp khách. Một tên trong sứ bộ nhác trông cô hàng
nước xinh tươi ít thấy, bèn bỡn cợt:
- Nam
bang nhất thốn thổ, bất tri kỷ nhân canh.
(một tấc
đất nước Nam không biết bao nhiêu người cày).
Bà Điểm
đang nhai trầu, nhổ toẹt một bãi nước cốt xuống đất,
nói trống không:
- Bắc
quốc chư đại phu, giai do thử đồ xuất.
(bọn
quan to ở nước phương Bắc đều từ chỗ ấy mà chui ra cả).
Tiếp đến
Quỳnh đang chèo, vạch quần đái...Nhưng gượm cái đã, vì....
Vì được
thể ngộ chữ tôi gối đầu trên giá sách...
Bà Đoàn
Thị Điểm sinh năm 1705, mất năm 1748, tổ quán ở Bắc Ninh.
Bà là con ông Đoàn Doãn Nghi, tổ
tiên vốn họ Lê (xem
tr 6), sau
đổi họ Đoàn. Khi hỏng thi Hội,
ông ở lại kinh đô dạy học rồi cưới thêm thứ thất ở
phường Hà Khẩu, và sinh được hai con là Đoàn Doãn Luân,
Đoàn Thị Điểm. Thân phụ mất, bà cùng anh tới Hưng Yên
nơi anh bà mở trường dạy học. Có lần ông Luân thấy bà
Điểm ngồi soi gương, ra vế đối: Đối kính họa mi, nhất
điểm phiên thành lưỡng điểm, nghĩa "soi gương vẽ mày,
một nét hóa thành hai nét". Chữ điểm
tên
bà Điểm, còn có nghĩa nữa "một bà Điểm hóa hai bà Điểm".
Lúc ấy, ông Luân đang ngồi trên cầu ao rửa tay, bà liền
đối lại: Lâm trì ngoạn nguyệt, chích luân chuyển tác
song luân, nghĩa "ra ao ngắm trăng, một vầng chuyển hai
vầng". Chữ luân
tên
của ông Luân, có nghĩa khác "một ông Luân hóa hai ông Luân".
Bởi lấy
ngắn nuôi dài, ngộ chữ tôi bòn gio đãi sạn tiểu sử ông
"bỉ nho" thế này:
Nguyễn Quỳnh
là một danh sĩ thời Lê-Trịnh. Quê làng Bột Thái, tỉnh Thanh
Hóa. Thi Hương đỗ đầu bảng, nhưng thi Hội nhiều lần bị
hỏng nên được gọi là ông Cống. Sách Đăng khoa lục
sưu giảng có ghi: "Cống Quỳnh là người từ chương nổi
tiếng ở đời, nói năng bàn luận
kinh người, sở trường về văn
thơ Nôm".
Nhưng bất
nghi bất ngộ tôi...ngộ ra ông "bỉ nho" đây chắc gì là Cống
Quỳnh!.
Bèn lưỡi
đá miệng:
- Nghe nói
ông là Nguyễn Quỳnh, sinh ngày 26.10.1677, mất ngày 26.2.1748.
Vì đỗ thi Hương nên gọi là ông Cống?
Múc mảng
tiết canh vào bát, ông vén mồm:
- Cậu nói
gì vấy.
Không dùng
đũa, nghiêng bát húp tiết canh cái rột, miệng lụng bụng:
- Tớ cũng
nghe nói thế.
Vừa ngồm
ngoàm, ông vừa ba điều bốn chuyện ăn uống phải trở về
với dân tộc tính, phải ngồi đầu gối quá mang tai, phải
xụp xọap như heo xục cám, nhai xương phải nhai rau ráu như
chó gặm. Uống bậm rồi, ông gọi cối bia hơi và gật đầu
tắp lự:
- Mà cậu
hỏi đếch gì mà hỏi khó vậy!
Trộm vía
ông "bỉ nho" chứ...chứ gì mà "tớ với cậu" chả nho phong
sĩ khí ra dáng ông Cống Tây Đô bình văn luận phú cho mấy.
Bởi bắt buồm coi gió, cầm lái dõi sông nên bất nghi bất
ngộ tôi trở lại với giai thoại sông nước...
Ở bến
đò đón sứ bộ nhà Thanh, Quỳnh giả làm lái đò. Đò ra
giữa dòng sông xuôi theo con nước cứ thế mà đi. Đi được
nửa đường một tên trong đoàn sứ bộ hổng ruột, lỡ xổng
ra một tiếng..."bủm". Hắn ta sượng mặt, đọc
một câu chữa thẹn:
- Lôi
động Nam bang.
(sấm
động nước Nam)
Quỳnh đang
chèo, liền đứng thẳng, vạch quần đái vổng cần câu xuống
nước, nói:
- Vũ
qua Bắc hải
(mưa
qua bể Bắc)
Kể lại
giai thoại trên, theo bất nghi bất ngộ tôi ông có đỗ thi
Hương cũng chỉ là quan huyện là hết đất. Thế nên ông
không thể nào được cử đi đón
sứ Tàu.
Nghe thủng
rồi, mặt ông như bát tiết canh sũng nước và đờ đẫn
cười:
- Cậu chỉ
nói nhăng cho lấy được chả biết đếch gì sất.
Tiếp, ông
lấy cái đũa quẹt ngang mồm chùi miệng và miệng khô
rong róc:
- Để tớ
nói cho cậu nghe nhá...
Tôi vạy
vọ nhá nhem cách mấy ông cũng chả biết quái gì, vì chuyện
ông đi đón sứ Tàu thì ở ải Nam Quan có con sông nào đâu
để ông chèo đò, lại còn...đái
vổng cần câu nữa. Vả lại chuyện
đón sứ nhiêu khê lắm chứ đâu có bỡn. Nhiễu sự đây,
ngộ chữ tôi ăn mày chữ nghĩa của cụ Ngộ Không nào đấy
trong Thứ nhất đi sứ, thứ nhì di quan.
Cả ngàn
năm nay, sứ bộ Tàu trước khi đến Thăng Long, ta tiếp họ
ở bên này ải Nam Quan, tức ở Lạng Sơn. Vì ở đây có Biện
sự sứ là nơi họ chờ người
của ta đưa đường. Ta tiếp sứ Tàu vất vả lắm, trên đường
phải cáng võng cho họ, lập nhà trạm nghỉ ngơi hay dịch
trạm để phục dịch cơm nước, tắm rửa và lo bến
(nhà xí). Đụng đến "tắm rửa",
tôi vun chuyện nhân bà Điểm đang tắm, ông đứng ngoài đòi
vào xem cho bằng được. Bà Điểm ra câu đối Da trắng
vỗ bì bạch nếu đối được mới cho vào. Nhưng may quá
là may ông bí lù để...lưu danh thiên cổ với giai thoại ấy
qua văn học sử.
Mặt ông
chưng bửng một hồi lâu như có gì suy nghĩ lung lắm. Rồi
kheo khảy :
- Cậu biết
quái gì. Chỉ nói bừa là giỏi.
Chưa kịp
cãi inh lên, mắt ông đảo tít như lạc rang...Và khụng miệng:
- Tất cả
vì văn học sử của cậu...bịa ra tất!
Mắt ông
đảo tít như lạc rang ới thêm hai cối bia nữa. Tai như tai
đất tôi nghe "bịa" như..."bia", bèn nhấp bia từng ngụm một
cho đã điếu để căng tai nghe ông bịa...
- Giả thử
tớ là Nguyễn Quỳnh sinh năm 1677.
Bà Điểm sinh năm 1705,
khi ấy tớ 28, bà ta chưa oe oe chào đời thì...thì bì bạch
ở khổ nào!
Vồ được
câu đối lưu danh thiên cổ vừa rồi, tôi đành tương đắc
tương bần với ông đó chỉ là giai thọai. Chả là các cụ
nhà nho ta xưa thẩn thơ nên chỉ có cái thú...thơ thẩn. Thời
ấy làm thơ xong các cụ chuyền tay nhau đọc. Câu đối cũng
vậy, đại thể cái thú "chơi chữ" như "con cá đối nằm
trên cối đá". Gặp câu đối thuộc thể loại phong tình cổ
lục "da trắng vỗ bì bạch" chẳng hạn, để tránh vạ miệng
các cụ gán ghép cho bà Đòan Thị Điểm để thành giai thoại
thế đấy.
Thế nhưng
tôi ngọng trông thấy, vì lóng ngóng với cái "cối đá" mất
bu nó...cối bia. Bất nghi bất ngộ tôi bèn ngộ chữ với
ông. Nếu như Nguyễn Dữ có Truyền kỳ mạn lục, Phạm
Đình Hổ có Tang thương ngẫu lục. Thì bà Đoàn Thị
Điểm có Truyền kỳ tân phả. Trong "Truyền kỳ tân
phả" kể nhờ bà Đoàn Thị Điểm sống với dưỡng phụ
ở phường Bích Câu
mới sáng tác được truyện truyền kỳ Bích
Câu kỳ ngộ. (1)
Truyện
"Bích Câu kỳ ngộ" xảy ra vào đời Lê. Chàng thư sinh nghèo,
tên Tú Uyên, nhân tiết xuân, đi chơi hội chùa Ngọc
Hồ, chợt thấy một thiếu nữ nhan sắc tuyệt trần đi qua,
vội rảo bước theo đến đình Quảng Văn không thấy đâu
nữa. Ngơ ngẩn mấy ngày, Tú Uyên tìm đến đền Bạch Mã
(phố
Hàng Đường) cầu mộng thì được
thần nhân thác mộng cho biết cứ ra
chợ
Cầu Đông(cũng ở phố Hàng Đường)
sẽ gặp được người mơ ước. Đến nơi, thấy một cụ
già bán tranh tố nữ, tranh vẽ cô gái giống hệt người hôm
nọ. Tú Uyên mua về treo ở phòng học, đến bữa cơm, người
trong tranh dọn chén đũa, mời mọc, chuyện trò với Tú Uyên
như người thật vậy.
Ngộ chữ
tôi câu bớt chữ thừa với ông Tú Uyên gặp cụ già bán
tranh vẽ Giáng Kiều ở chợ Cầu Đông tại phường
Bích Câu. Bởi Giáng Kiều ắt có
đi chợ nên mới có chuyện văn chương thiên cổ sự từ bức
tranh bước ra nấu nướng cho Tú Uyên sơi.
Nhờ đấy
thiên hạ sự mới hay chợ Cầu Đông xưa, nay là
...chợ Đồng Xuân ăn cắp như ranh.
Làm như không
nghe. Ông mặt nhăn quéo lại:
- Văn
học sử của cậu đổ vấy cho tớ là Cống
Quỳnh, tức Nguyễn Quỳnh chết năm 1748 qua
giai thoại Trạng chết chúa cũng băng hà. "Chúa bảo:
Có người tiến hải vị, ta cho đòi ngươi vào ăn yến, ngươi
không được từ. Vừa nếm một miếng nhà chúa hỏi: Bao giờ
Quỳnh chết?. Quỳnh thưa: Bao giờ chúa chết, Quỳnh chết.
Ăn xong, Quỳnh thấy trong người khang khác, cáo xin về. Vừa
về đến nhà liền tắt thở, được một chốc thì chúa cũng
chết". Vậy chứ trong văn học sử của cậu có chúa Trịnh
nào ngỏm củ tỉ cùng năm 1748 với tớ không? Cậu thử nói
cho tớ nghe...
Thế là tét
hết! Bởi ai đấy dựng lên nhân vật Cống Quỳnh, ai
đó vay mượn tiểu sử ông Nguyễn Quỳnh, vì không tính ngày
tháng nên mới rách chuyện.
Rách chuyện
thêm với giai thọai thì...
Thì các
nữ sĩ, chỉ vì sách biên sót mà không hay nên nhầm lẫn.
Tội vạ do Đông Châu Nguyễn Hữu Tiến, năm 1915, xuất bản
tập biên khảo về nữ sĩ Hồ Xuân Hương với tựa đề Giai
nhân di mặc mà không đưa ra xuất sứ hay tác giả nên
được coi như truyện ký hơn là một biên khảo có giá trị.
Dương Quảng Hàm cũng vậy với bà Huyện Thanh Quan. Riêng Phan
Kế Bính trong Nam hải dị nhân với Giai
thoại bà Đoàn Thị Điểm. Phan
Kế Bính là người có công trong việc sưu tầm thư tịch,
chuyển dịch sang chữ quốc ngữ các giai thoại về bà. Tuy
nhiên, còn một số chi tiết hoặc..."đối liên" ông bỏ qua
vì khó tin, vì câu chữ..."bất thông" do sao chép nhầm lẫn.
Phan Kế Bính đề tựa trong Nam hải dị nhân để giải
bày: "Nước ta vì sách biên sót mà không tường. Nhưng ngặt
vì sách thì ít, lưu truyền không rộng, giai thoại truyền
khẩu cho nhau, người nhớ khúc này, kẻ nhớ khúc kia, hóa
ra nhầm lẫn sai cả sự thực của người xưa".
Tôi vừa
ăn như cũ ngủ như xưa xong, ông gọi thêm đĩa chả chìa nữa,
thế là lại toi tiền. Thêm một lần lòng dạ như xát muối,
nhưng bất nghi bất ngộ tôi cũng đành trở lại chuyện các
nữ sĩ để hầu chuyện ông. Rằng ông đâu có hay hớm trong
mảng văn học miền Bắc qua Xuân Diệu thì: Nguyễn Trãi,
Nguyễn Du, Tú Xương, bà Hồ Xuân Hương và bàĐoàn
Thị Điểm là năm nhà thơ lớn
nhất trong văn học cổ điển nước ta. Ấy vậy màgần
đây, ông Hoàng Xuân Hãn dựa vào Nguyễn Hữu Tiến ở trên,
chuyện xảy ra vào năm 1926, ông Tiến nhận được thư của
Phan Huy Chiêm viết ông tổ năm đời của mình là Phan Huy Ích
dịch Chinh phụ ngâm. Năm 1952 qua cuốn Chinh Phụ
Ngâm bị khảo, ông Hoàng Xuân Hãn khẳng định: Ông Phan
Huy Chiêm có những chứng từ gia phả dòng họ Phan ở phủ
Quốc Oai, từ thời Tây Sơn với bản
chép tay.
Nhưng bà
Nguyễn Thị Chân Quỳnh đưa ra ý kiến phản bác.
"...Bác Hoàng
Xuân Hãn viết: Hiện nhà họ Phan
còn giữ được bản chính, vừa chữ Hán vừa chữ Nôm".
Nhưng từ đó, mặc dù nhiều nhà khảo cứu yêu cầu, ông
Chiêm chưa từng đưa ra văn bản
ấy. Nay tôi được ông Phan Huy
Chiêm gửi cho một bản qua một người bạn của tôi. Nhưng
tài liệu này lại không có văn bản gốc (nguyên
văn thủ bút hay bản khắc ván chữ Nôm đầu tiên của dịch
giả) mà đó chỉ là bản
dịch Chinh Phụ Ngâm chữ Latinh(chữ Quốc ngữ)
mà thôi.
Sau này ông
Nguyễn Văn Xuân tìm ra bản ở Huế tên là Chinh phụ ngâm
diễn âm tân khúc mà ông và bác Hoàng Xuân Hãn...đoán
là bản của Phan Huy Ích dịch. Tôi dùng chữ "đoán" vì trang
cuối bài "Tựa" chỗ đề tên tác giả (hay
dịch giả) "bị nhòe" nên chưa thể
kể là "bằng chứng" đích xác, mà chỉ là phỏng đoán...".
Cũng với
chuyện các nữ sĩ trên, nhưng tôi dấu biến không cho ônh
hay. Số là ông Hoàng Xuân Hãn bỉ thử thơ dân gian bà Hồ
Xuân Hương nào khác gì chuyện trạng Lợn, trạng Quỳnh. Với
bà Đòan Thị Điểm, cuối cùng ngộ chữ tôi đành dựa dẫm
vào Chữ nghĩa làng văn của cụ Ngộ Không mặc dù Hán
tự có đôi chút ngúc ngắc:
Giữa thế
kỉ XIX, trong tập bài giảng ở trường Thông ngôn, bản
Chinh
Phụ ngâm diễn âmcủa Trương Vĩnh
Ký ghi tác giả là Đoàn Thị Điểm.
Cũng trong chiều hướng trên, khoảng vài mươi năm trước
đó, đời vua Thành Thái, Vũ Hoạt đã đem mấy quyển thơ
nôm cho khắc in tập "Danh gia quốc âm", (A)
trong đó có Chinh Phụ ngâm
bị lục với
lời tựa: "Đặng tiên sinh sở tác, Đoàn phu nhân diễn
âm" (nghĩa : Đặng tiên
sinh làm sách ấy, Đoàn phu nhân dịch ra chữ Nôm).
|
Bản
chép tay cuốn Chinh Phụ ngâm bị
lục
(B)
lưu
trữ tại Thư viện Đại học Yale, Hoa Kỳ. ‘’Thành
Thái, Nhâm Dần cúc nhật. Long Hòa hiệu tàng bản. Thanh Trì
Nhân Mục, Đặng Trần tiên sinh Côn trước. Văn Giang Trung
phú, Đoàn phu nhân Điểm diễn âm.
Thần Khê Đồng Phong thừa thư". Nghĩa nôm: Ngày mùa
thu, năm Thành Thái Nhâm dần. Bản hiệu Long Hòa. Đặng
Trần Côn tiên sinh ở Thanh Trì, Nhân Mục
(1)soạn. Đoàn
Thị Điểm phu nhân ở Văn Giang (2)
, Trung Phú dịch nôm. Thần Khê
Đồng Phong chép lại.
(1) làng
Nhân Mục, Hà Đông nơi ông Đặng Trần Côn ngụ cư và mất
tai đây. (2) Văn
Giang, Bắc Ninh quê của bà Đòan Thị Điểm) |
Đây là bản
của Maurice Durand chép lại phần chữ Nôm Chinh Phụ ngâm rồi
chua
thêm quốc ngữ, bản do Vũ Hoạt
đặt Long Hòa hiệu in vào đời Thành Thái năm 1902
Nhâm tuất
niên tân san Chinh Phụ ngâm bị lục Phúc
Văn đường tân bảnbThanh Trì Nhân
Mục Đặng Trần tiên sinh Côn trước Văn
Giang Trung Phú Đoàn phu nhân Điểm diễn âm
Thần Khê Đồng Phong thừa thư.
Bản in của
Phúc Văn Đường năm 1922 sao lại bản của Vũ Hoạt đời
Thành Thái.(Thư
viện Quốc gia. Bản chụp của Nomfoundation)
(A)"Danh
gia quốc âm" gồm ba tác phẩm: Chinh Phụ ngâm
bị lục , Phan Trần và Cung Oán Ngâm.. Chinh Phụ
ngâm bị lục được in ở 34 tờ đầu, mỗi trang
được chia 3 phần:Trên là phần dẫn giải, chép lại một
số bài thơ chữ Hán xưa; giữa là phần Hán văn của Đặng
Trần Côn, dưới là phần dịch nôm. Trong lời tựa, Vũ Hoạt
có viết: "Đặng tiên sinh sở tác, Đoàn phu nhân diễn
âm".
(B)Các
bản Nôm xuất hiện đầu thế kỷ 20 về sau đều ghi tên
người dịch Nôm là Đòan Thị Điểm khác với các bản cổ.
Nghe thủng
tôi thông hanh, thông điếu xong. Ông xoẹt hai hòn đá kỳ nham
nhám mồi lửa, ông bắn thêm bi nữa, đùn khói mù mịt. Đợi
ông nhả khói đâu vào đấy rồi, ngộ chữ tôi mọt sách,
mọt chữ tiếp...
Lúc trẻ,
bà Đòan Thị Điểm có tiếng đẹp người, đẹp nết, có
tài văn sách. Năm 16 tuổi, bà được Thượng thư Lê Anh Tuấn
nhận làm con nuôi, khi ở nhà của dưỡng phụ ở phường
Bích Câu,kinh thành Thăng Long, bà
có dịp gặp Đặng Trần Côn. Họ Đặng quí mến tài văn
chương của bà, nên có gửi đến một bài thơ tỏ ý cầu
hôn.
Bà nói đùa
với các chị em bạn:
- Ông Cống
Đặng, miệng còn hôi sữa lại nói chuyện vợ chồng.
Đặng Trần
Côn nghe tức lắm, đem hết tài học bình sinh viết nên tác
phẩm Chinh Phụ Ngâm bằng Hán văn theo thể Cổ Nhạc
phủ. Viết xong, gửi cho bà Điểm xem, ngụ ý cho bà biết
trước đây đã xem thường ông. Lúc này bà đã lấy Nguyễn
Kiều, chồng bà đi sứ sang Tàu, bị kẹt lại bên đó vì
giặc giã. Với chuyện đi sứ, thêm lần nữa tôi hặm hụi
với bài văn khảo Thứ nhất đi sứ, thứ nhì di quan
của cụ Ngộ Không viết về khổ nạn đi sứ của các cụ
ta nhiều người bỏ xác lại ở
bên ấy (sứ
thần Giang Văn Minh). Chuyện đi sứ,
nào khác gì lính thú chinh chiến ngoài biên thùy, tâm sự của
nàng chinh phụ giống tâm sự của bà lúc đó. Với tâm hồn
của một nữ sĩ nhậy cảm, bà đem xúc cảm diễn Nôm Chinh
phụ ngâm sang Chinh phụ ngâm khúc với thể song thất
lục bát.
Ngòai ra bà
còn ghé đền Sòng thờ bà chúa Liễu Hạnh nên cảm hứng
viết chuyện lên đồng, cùng tục
hóa vàng hóa bạc. Đến trần ai
khoai củ này mụ chữ tôi ớ ra vì với giai thọai Trả
ơn chúa Liễu: "Trên đường Quỳnh ứng thi qua đền Sòng,
Quỳnh vào yết bà chúa Liễu, đỗ thì xin trả lễ...". Tôi
đóan chừng ông gặp bà ở đây. Từ đây ông và bà đi Đón
sứ Tàu, về lại Tây Hồ với giai thọai Đá bèo, v...v...
May quá là
may, từ đền, chùa, Tây Hồ, Thăng Long và giai thọai Tượng
bà Banh xúi bẩy mụ chữ tôi rị mọ được một, hai ngẫu
sự dưới đây. Chuyện là...
Là theo cố
sử gia Tạ Chí Đại Trường viết trong Thần, người và
đất Việt: Chùa Bà Ðanh ở Tây Hồ, Thăng Long là kiến
trúc tôn giáo Chàm do một số tù binh Chàm dựng lên. Chùa
Bà Ðanh không thờ Phật. "Ðanh" là nói về cây gậy bằng
đá. Chùa thờ một nữ thần Chàm ngồi trong tư thế đặc
biệt hớ hênh. "Thần ban phúc cho
người cầu cúng khi người này cầm gậy thọc vào hạ bộ
của thần.". Vì thế chùa còn
có tên dân giã là chùa Bà Banh. "Banh" đây là...banh ra
?! . Chùa Bà Banh hay chùa Bà Ðanh nay không còn nữa
Một là theo
tôi góp nhóp được chùa Bà Ðanh thuộc địa phận thôn
Đanh, xã Ngọc Sơn, huyện Kim Bảng,
tỉnh Hà Nam. Chùa có tên chữ là Bảo Sơn tự. Chùa được
gọi là chùa Bà Ðanh (thôn Đanh)
vì thờ Tứ Pháp
trong tín ngưỡng dân gian miền Bắc (bao
gồm mẹ Mây, mẹ Mưa, mẹ Sấm, mẹ Chớp).
Hai là qua
giai thọai Tượng bà Banh thì chùa Bà Banh ở Thanh Hóa:
"...Quỳnh
nghenơi dạy học không xacó
tượng đá lạ, bèn hỏi. Học trò thưa::
- Ðấy là
pho tượng một người đàn bà ở truồng, người ta gọi là
tượng "Bà Banh"
- Tượng
ấy hình thù như thế nào? Anh học trò có vẻ xấu hổ, nói:
- Tượng
hai tay chỉ vào "chỗ ấy" bên cạnh tượng có đặt một chiếc
chày đá.
- Sao không
đập vỡ quách đi cho rồi? Ðể cái của nợ ấy trêu ngươi
làm gì?
- Thưa, "Bà
Banh" dữ vía lắm ạ! Ai muốn yên lành phải cầm
chiếc chầy đá, đâm vào chỗ ấy một cái..
Ai không làm thì về đến nhà thế nào cũng bị méo miệng,
vẹo cổ.
Một hôm,
Quỳnh đến tận nơi có tượng Bà Banh để xem thực hư. Quỳnh
đến bên tượng, lấy chầy đá
quẳng đi, đoạn cầm bút đề
thơ lên bụng tượng:
Khéo đứng
ru mà đứng mãi đây
Khen ai đẽo
đá tạc nên mày
Cởi váy
phất cờ trêu ghẹo tiểu
Có thiêng
sao chẳng ngồi toà ngọc?
Khéo đứng
không mà đứng mãi đấy!
Thơ viết
xong, mồ hôi tượng vã ra như tắm. Từ đó, "Ba Banh" không
thiêng nữa...".
Nhờ ông,
mụ chữ tôi..."giải mã" được một vài nghi vấn trong văn
học sử. Thêm nữa nhà thơ Trần Đăng Khoa đã luận
giải: "Nhiều học giả cho rằng Nguyễn Quỳnh là nhân vật
lịch sử hiện thực. Cống Quỳnh là nhân vật dân gian hư
cấu. Nhưng phải nói rạch ròi điều này, người
đời vẫn thích Cống Quỳnh dân gian hư cấu hơn
mặc dù không hiện hữu". Nói cho cùng tôi cũng tâm đắc với
ông nhà thơ. Vì ngồi chén tạc chén thù ở quán liêu xiêu
thấy ông "Cống Quỳnh dân gian" ăn nói dân giã quá lắm. Bèn
nghĩ vụng ông "Cống Quỳnh dân gian" không hư cấu mà...có
thật thì sao đây!. Tạm cho tên thật ông là...Cống Quỳnh
ở Thanh Hóa. Bởi không ai biết tiểu sử ông nên những nhà
biên khảo gán ghép với ông Nguyễn Quỳnh...hiện thực, cũng
người Thanh Hóa.
Ông chép
miệng cái bép: "Có sao đâu". Đâu có được vì có hai ông
Cống Quỳnh. thì cũng có...hai bà
Điểm lận. Bởi gần đây Gs sử
học Phan Huy Lê, Chủ tịch Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam
về Hải Dương để hỏi cụ thể về việc dịch thuật của
bà Lê Thị Điểm. Vì bà Lê Thị
Điểm mới là tác giả của Tục
truyền kỳ và bản dịch Chinh phụ ngâm
được phổ biến rộng rãi hiện nay. Sau đợt nghiên cứu,
trên Tạp chí Văn học, số 6 năm 1977, Gs Bùi Văn
Nguyên viết bài "Bà Điểm
nào trong hai bà Điểm, tương truyền có tham gia dịch một
bản Chinh phụ ngâm của Đặng Trần Côn".
Gs Bùi Văn Nguyên cho rằng: "Sự
thật, có hai bà Điểm khác nhau, một
bà họ Lê, một bà họ Đoàn, hai bà
sống cùng thời, đều có người anh
trùng tên là Luân và
đều
giỏi văn thơ, pha nghề dạy học.
Tôi hỏi
ông
có hay tổ tiên bà Đòan Thị Điểm vốn họ
Lê sau đổi họ
Đoàn chăng. Ông ngửa cổ làm hết
cối bia rồi búi bấn: "Không". Nghe vậy tôi đơm chuyệnkhác
...
Chuyện là
bà lấy chồng ở trên, ông anh mất, bà vào ở trong cung cấm
dậy cung tần, vì bị ông cậu của chúa Trịnh tỏ tình nên
bà về quê mở trường dạy học. Sau vì tuổi trễ tràng,
37 tuổi bà lấy (kế thất)
ông Nguyễn Kiều, người làng Phú Xá, Tây Hồ. Năm 18 tuổi,
ông đi thi lần đầu đỗ ngay giải nguyên. Năm 21 tuổi đậu
tiến sĩ.
Đập vào
mắt tôi là hai hòn đá kỳ nằm trên bàn to như voi ấp trứng.
Tôi chững người vì ông Cống...biến mất hồi nào không
hay. Ừ thôi thì cũng sắp hết chuyện. Chỉ thêm chuyện trước
khi đi sứ, Nguyễn Kiều đến cầu hôn bà Đoàn Thị Điểm...
Ông Nguyễn
Kiều có số lấy nhiều vợ. Bà vợ đầu là con gái đại
thần Lê Anh Tuân. Bà này mất sớm, ông đi bước nữa, bà
sau cũng sớm qua đời. Ông nhờ người mối mai bà Điểm.
Bị từ chối, ông không nản, tiếp tục thư từ qua lại.
Cuối cùng trong thư chính thức cầu hôn, ông khẩn khoản trình
bày: "Tôi rất bận việc quan. Vó ngựa hoàng hoa (đi sứ) đã
gần ngày lên đường. Việc nhà không ai coi sóc, tôi nghĩ
phu nhân cùng nội trợ tôi xưa có tình chị em, có phận keo
sơn (người vợ trước là con gái
Lê Anh Tuấn, vị đại thần từng nhận Đoàn Thị Điểm là
con nuôi). Nếu phu nhân bằng lòng đùm
bọc cho nội trợ tôi thì thực là may cho cả nhà tôi đó".
Vì cảm động về quyết tâm của ông, và có lẽ "vì cây
dây quấn" nên bà chấp nhận.
Ông Nguyễn
Kiều được cử làm chánh sứ sang Tàu tuế cống ba năm. Trở
về được cử làm Tham thị ở Nghệ An. Bà theo chồng và
mất ở đây, lúc này bà mới 43 tuổi. Thi hài bà mang về
Văn
Giang, xứ Kinh Bắc. Nhưng đến
Thăng Long, vì chiến chinh nên không đưa về được quê bà,
phải an táng ở Tây Hồ, quê ông
Nguyễn Kiều. Thương cảm người
bạn đời vắn số, ông viết bài văn tế, hết lời ca tụng
văn tài và đức hạnh của bà:
Đào chưa
tươi đã khô
Quế đang
thơm đã rũ
Rừng sâu
bể rộng nàng hỡi đi đâu
Ngọc nát
châu chìm lòng tôi quặn nhớ...
Mộ bà Đoàn
Thị Điểm được an táng ở Tây Hồ. Mộ chí bà sau bị đất
lở, đất chùi nên nay không còn dấu tích. Năm 1982, khi quay
phần ngoại cảnh phim Hà Nội trong mắt ai phân đoạn
phim về bà huyện Thanh Quan ở làng Nghi Tàm. Vì có đống rác
nên phải rời đi, đạo diễn Trần Văn Thủy tình cờ tìm
được mộ bà Đoàn Thị Điểm. Nơi chôn cất bà sau này được
xây thành lăng, có tường bao, mái che.
Khi
ông Nguyễn Kiều mất, nhà hậu Lê đưa thi hài ông về quê
ông an táng. Mộ ông ở đất Phú Thượng của dòng họ, được
dân làng Phú Xá tôn là thần hoàng. Trải qua 260 năm, năm 2000,
các nhà khảo cổ đào lên để khảo sát. Vì cách đó không
xa là mộ phần bà Đòan Thị Điểm, bà Nguyễn Thị Sơn, hậu
duệ của ông, ngày 24-7-2011 đã rời mộ phần bà Đoàn Thị
Điểm để hai ông bà gần nhau.
***
Với sinh ký
tử quy đến đây là hết chuyện. Vừa lúc ông Cống Thanh
Hóa thăng, đến đầu ngõ Văn Chương ông quay trở lại thật.
Ông phân thân thành người khác có cái mặt rất chúng sinh.
Dòm mặt ngộ chữ tôi rất đời thường, ông hỏi sao cứ...kỳ
óc ra viết chữ. Tôi chỉ hai hòn đá trên bàn và cãi inh lên
là kỳ để...kỳ cọ, chứ chả phải kỳ óc ra để viết
truyện hư cấu về ông Cống Quỳnh.
Ông ve vé
mắt dòm cối bia mà rằng:
- Tôi là
Cống Quỳnh...có thật đây.
Đang không
biết hư thật ra sao? Ông nói một câu tròn vành rõ chữ, ở
Sài Gòn trên con đường qua nhà thờ Huyện Sỹ, rạp ciné
Khải Hòan, chợ Thái Bình, trường Hưng Đạo. Xế nhà xuất
bản Nguyễn Đình Vượng, tòa sọan tạp chí Văn (theo
Viên Linh) là con hẻm 189 có năm, sáu
tiệm thịt chó. Ha! Một là nhà tôi ở đường Bùi Viện gần
xịt đấy, trước 75 nào có quán cây còn nào đâu? Hai là
nghe..."Cống Quỳnh có thật", lọt vào tai chui ra miệng, tôi
vãi miệng: "Không".
Ông dòm ngộ
chữ tôi bằng nửa con mắt rùa, giọng khê thuốc lào:
- Không thì
sao Sài Gòn có...đường Cống Quỳnh.
Thạch
trúc gia trang
Giáp Ngọ
2014
Ngộ Không
Phí Ngọc Hùng
(chỉnh sửa
2017, 2020)
Nguồn: Nguyễn Quang Tuấn, Nguyễn
Duy Chính
Nguyễn Cẩm Xuyên, Trịnh Văn
Thành, Nguyễn Gia Lộc
(1) Cho
đến nay trong văn học sử chỉ biết dịch giả Bích Câu
kỳ ngộ là Vũ Quốc Trân?. Nếu đúng Vũ Quốc Trân đã
viết nên Bích Câu kỳ ngộ thì tại sao bao nhiêu bản
nôm, thu thập được qua nhiều nhà sách ở Hà Nội, Hải Phòng
chuyển qua quốc ngữ in bán khắp nơi lại không hề ghi tên
tác giả? Việc bản Nôm tìm được gần đây ghi tên Vũ Quốc
Trân có thể là mạo tác chăng? Theo Dương Quảng Hàm thì Bích
Câu kỳ ngộ là truyện thơ Nôm khuyết danh. Nhưng
nay qua Truyền kỳ tân phả mới hay là bà Đòan Thị
Điểm. |