Di ảnh
Hàn Mạc Tử / Nguyễn Trọng Trí (1912-1940)
Lâu
nay, phần lớn sách báo – trong đó có giáo khoa trung học
và giáo trình đại học – đều ghi bút danh chính của Nguyễn
Trọng Trí là Hàn Mặc Tử. Cạnh đó, một số thư tịch
lại đề Hàn Mạc Tử.
Vậy nên thống nhất cách viết,
cách đọc bút danh / bút hiệu / bút tự của nhà thơ sao cho
chuẩn xác?
Về vấn đề này, thiết tưởng
cần tuyệt đối tôn trọng ý muốn của chính bản thân tác
giả. Sinh thời, Nguyễn Trọng Trí tự chọn bút danh thế nào
thì chúng ta hãy giữ nguyên thế ấy.
Tuy nhiên, suốt cuộc đời
cầm bút, Nguyễn Trọng Trí ký nhiều bút danh. Thuở mới bước
vào làng thơ, chàng ký Minh Duệ Thị. Sau đổi ra Phong
Trần. Rồi đổi thành Lệ Thanh. Kế tiếp là Hàn
Mạc Tử. Đó là bút danh chính. Ngoài ra, Nguyễn Trọng
Trí còn ký nhiều bút danh phụ như Lệ Giang, Sông
Lệ, Foong Tchan (phiên âm chữ Phong Trần), P.T.
(viết tắt chữ Phong Trần), Anh Hoa, Trọng Minh,
Tịnh
Nhơn, Trường Giang, v.v..
Thế vì sao Mạc bỗng
hoá nên Mặc?
TRÍCH DẪN
HỒI KÝ CỦA QUÁCH TẤN
Soạn hồi ký Đôi nét về
Hàn Mạc Tử [1],
Quách Tấn đề cập một số bút danh của Hàn:
"Hiệu Minh Duệ Thị ít ai biết.
Tử nổi tiếng với hiệu Phong
Trần.
Nhưng sau khi Tử đã quen thân
cùng tôi, một hôm nhân vui miệng, tôi chê:
- Tướng anh mảnh khảnh thế
này, chịu sao nổi cảnh phong trần mà ước?
Một bà cụ thâm nho ở Bình
Định cũng bảo rằng hiệu Phong Trần quá trệ và không hợp
với tánh tình của Tử. Bà khuyên Tử nên đổi lại hiệu
khác.
Tử bèn lấy chữ đầu của
sinh quán (Lệ Mỹ) và chữ đầu của chánh quán (Thanh Tân),
ghép lại thành hiệu Lệ Thanh.
Tử rất lấy làm vừa ý. Nhưng
được ít lâu gặp Tử, tôi lại trêu:
- Bộ anh ngó "dễ thương" mà
cái hiệu Lệ Thanh nghe cũng "yểu điệu thục nữ" quá! Âu
tôi gọi là "cô Lệ Thanh" cho thêm duyên".
Tử làm thinh. Nhưng ít lúc
sau lại lấy hiệu Hàn Mạc Tử.
Hàn Mạc là rèm lạnh.
Tử cho là độc đáo, tìm đến
khoe cùng tôi. Tôi cười:
- Kể cũng ngộ thật! Tránh
kiếp phong trần lại đi làm khách hồng nhan. Sợ kiếp hồng
nhan đa truân lại đi làm kiếp rèm lạnh. Tránh lờ chun vào
lưới. Sao mà lẩn quẩn quá thế?
Tử đâm khùng:
- Anh này thật đa sự! Không
biết đặt "cái đếch" gì cho vừa lòng anh?
Tôi đáp:
- Đã có rèm thì thêm bóng
trăng vào. Hỏi còn cảnh nào nên thơ bằng?
Tử hội ý, cầm bút vạch
"vành trăng non" lên đầu chữ a của chữ Mạc thành ra Hàn
Mặc Tử.
Chỉ thêm dấu á (ă) mà đổi
hẳn ý nghĩa của cả nhóm chữ. Chữ Hàn thì trước kia nghĩa
là Lạnh. Nhưng đi kèm với chữ Mặc là Mực trở thành chữ
Hàn là Bút.
Hàn Mặc Tử là anh chàng "Bút
Mực".
Tử sửa xong, thích chí nói:
- Đã có bóng trăng rọi vào,
thì từ nay danh tôi cũng như thơ tôi sẽ mỗi ngày mỗi thêm
rạng ngời như bóng trăng.
Thật quả như vậy. Từ ngày
sửa đổi bút hiệu lại, văn chương của Tử mỗi ngày một
tiến bộ. Và với bút hiệu Hàn Mặc Tử, danh Tử cùng với
trăng và thiên thu." (Hết trích)
NHỮNG
BẰNG CHỨNG THỰC TẾ
Mẩu hồi ký vừa dẫn của
Quách Tấn đậm tính giai thoại, hoàn toàn chẳng có bút tích
minh định. Cần lưu ý rằng Hàn chẳng ngại loạt bút danh
"yểu điệu thục nữ" là Lệ Thanh, Bích Ngọc,
thậm chí đích thân chàng còn cố tình "mềm dịu hoá" hơn
thành Lệ Thanh nữ sĩ, Huyền Không nữ sĩ, Mlle [2]
Bích
Ngọc, Mlle Phương Liên, Mlle Mộng Cầm, Cô Đài Trang, Cô Bạch
Bình Giang.Nhiều
đàn ông ký bút danh rất phụ nữ và ngược lại là chuyện
quá phổ biến trên văn đàn lẫn báo giới. Nên nhớ rằng
tuần báo Ngày Nay số 24 phát hành ngày chủ nhật 6/9/1936
từng đăng bài thơ
Bẽn lẽn… của Nguyễn Trọng Trí
ký bút danh Hàn-Mặc-Nữ. Vâng, Nữ chứ chẳng Tử.
Thuở
Hàn sinh thời, các tờ báo và tạp chí như Công Luận, Tân
Tiến, Tràng An, Đông Á Tân Văn, v.v., đã in bút danh chàng:
Hàn
Mặc Tử, Hàn Mặc Tữ, Hoàng Mặc Tữ, Hàn Mặc Tư, Hàn Mạc
Tử. Sự biến đổi đó không chỉ đơn giản là lỗi ấn
công.
Soạn sách Hành trang cho thơ
và sự trở lại của chính mình của Hàn Mạc Tử (NXB
Đà Nẵng, 1996), Vũ Hải – tức nữ giáo viên Võ Thị Hải
– đã "mạnh dạn đưa vấn đề này (vấn đề "Hàn Mạc
Tử" hay "Hàn Mặc Tử") thành một chương chính gần như là
cốt lõi trong quá trình nghiên cứu tìm hiểu về Hàn Mạc
Tử " (trang 29). Vũ Hải tỏ ra hợp lý khi lập luận rằng
"không thể chỉ dựa vào giai thoại để thẩm định bút danh
cuối cùng của nhà thơ được" (trang 31).
Thực tế thì năm 1936, nhà
in Tân Dân ở Hà Nội in tập thơ Gái quê có lời tựa
của Phạm Văn Ký [3],
Nguyễn Trọng Trí ký bút danh
Hàn Mặc Tử. Tuy nhiên
sau đấy, ít nhất từ ngày 21/9/1937, trên tờ Sài Gòn Tiểu
Thuyết[4],
nhà thơ lấy bút hiệu ngày trước là Hàn Mạc Tử.
Nhiều văn bản còn lưu cho thấy vậy.
Chẳng hạn bản in lần đầu
tiên năm 1939, đề tựa cho tập thơ
Tinh huyết của Bích
Khê (NXB Đông Phương), Nguyễn Trọng Trí đã ghi rõ ở trang
19: Hàn Mạc Tử. Trong bản thảo thi tập Tinh
hoa kế tiếp (dự định xuất bản năm 1944 nhưng không
thành), Bích Khê dành hẳn cho bạn mình một bài thơ với tựa
đề mang bút danh y hệt: Hàn Mạc Tử. Bài thơ
Hàn
Mạc Tử của Bích Khê từng đăng báo Người Mới
số 5 phát hành ngày 23/11/1940.
Đáng
lưu ý rằng ngay trong tập thơ Một tấm lòng của Quách
Tấn xuất bản lần đầu năm 1939, nhiều lần in rõ rành rành
bút danh Hàn-Mạc-Tử. Đó là ở bìa ruột cùng
các trang 27, 31, 32, 33, 40, 52. Cả 7 lần đều in Hàn-Mạc-Tử,
ắt chẳng phải mắc lỗi ấn công.
Cũng năm 1939, trong bức thư
kèm theo bài thơ Ở đây thôn Vỹ Giạ viết vào tháng
11, nghĩa là tròn một năm trước khi thi sĩ qua đời, Nguyễn
Trọng Trí ký cuối thư và cuối bài thơ: Hàn Mạc Tử.
Người nhận thư và thơ này là Hoàng Thị Kim Cúc (1913-1989)
đã giữ gìn thủ bút bao năm ròng tại nhà riêng ở Huế.
MẠC VẪN
HOÀN MẠC
Lý giải chuyện Mạc
vẫn hoàn Mạc thế nào đây?
Giả thiết rằng giai thoại
mà Quách Tấn tường thuật là sự thật, thì vì tình bạn,
Nguyễn Trọng Trí chỉ sử dụng bút danh Hàn Mặc Tử một
thời gian ngắn rồi quay trở lại với hiệu Hàn Mạc Tử
bởi thấy phù hợp với mình hơn. Đặt nhà thơ vào hoàn cảnh
cụ thể lúc bấy giờ đang đau khổ vì bệnh tật, nghèo túng
và cô quạnh, Nguyễn Đình Niên [5]
đã phân tích trong công trình nghiên cứu Kinh nghiệm về
thân phận làm người trong thơ Hàn Mạc Tử (Tiểu luận
cao học văn chương, Đại học Văn khoa Sài Gòn, 1973; NXB Southeast
Asian Culture and Education, California, 2009): "Nếu xét theo tiếng
đồng âm (synonym) thì lại còn có nghĩa anh chàng nghèo mạt
(nghèo mạt rệp) hoặc chết (tử) trong sự nghèo nàn (mạc)
và lạnh lẽo, cô quạnh (hàn) nữa."
Trong tiểu luận ấy, Nguyễn
Đình Niên ghi nhận rằng một bạn thân khác của Nguyễn Trọng
Trí là Trần Tái Phùng [6]
ở Huế khẳng quyết:
- Hàn Mạc Tử, đúng. Hàn Mặc
Tử là sai. Một thư Hàn Mạc Tử viết gởi cho tôi có nói
rằng: "Người ta thường gọi lầm tôi là Hàn Mặc Tử; phải
gọi tôi là Hàn Mạc Tử, mới đúng."
Dòng thư nọ đã được Vũ
Hải sao lục trong sách Hành trang cho thơ và sự trở lại
của chính mình của Hàn Mạc Tử (sđd, trang 37).
Một bạn thân khác nữa của
Nguyễn Trọng Trí là Bùi Tuân [7]
tường thuật: "Mọi người đều biết: Hàn Mặc Tử = bút
mực, chỉ về văn chương. Hàn Mạc Tử = con người đeo đuổi
nghề văn chương. Nhưng có một lần Trí nói rõ với tôi rằng
bút tự của anh là Hàn Mạc Tử chứ không phải Hàn Mặc
Tử. Anh nhấn mạnh điều ấy và nói với tôi rằng Hàn Mạc
Tử là khách bút nghiên. Về sau, tôi xem trong Dictionnaire Gébriel
thì thấy Mặc là mực cũng có thể đọc Mạc. [8]
(…) Tôi nhớ mày mạy trong một cuộc nói chuyện với Trần
Tái Phùng, một người thường viết thư cho Hàn Mạc Tử khi
thi sĩ còn sống, ông ấy cũng nhận rằng trong các thư từ
mà ông nhận được thì thấy viết Hàn Mạc Tử chứ không
phải Mặc." [9]
SÁCH BÁO
GIAI ĐOẠN 1940-1954 IN RÕ: HÀN MẠC TỬ
Qua những cứ liệu vừa nêu,
chúng ta có thể xác định rằng Hàn Mạc Tử là bút danh mà
Nguyễn Trọng Trí tự cảm thấy phù hợp nhất, tâm đắc
nhất. Đây là bút danh mà nhà thơ dùng để ký hầu hết tác
phẩm cũng như thư từ trong giai đoạn gần mãn đời. Sở
dĩ gọi gần mãn đời, vì từ sáng 20/9/1940, khi Nguyễn Trọng
Trí vào bệnh viện Quy Hòa rồi mất tại đấy chưa đầy
hai tháng sau, thì chàng giấu nhẹm mọi chuyện riêng tây, chỉ
ký tên thật kèm với thánh danh là François Trí – kể cả
bản thảo cuối cùng bằng tiếng Pháp La Pureté de l'Âme[10]
viết
đêm 24/10/1940 và cất trong túi áo cho đến lúc nhà thơ tắt
thở vào ngày 11/11/1940.
Sau khi nhà thơ tài năng lìa
trần, các văn bản được công bố ghi Hàn Mạc Tử hay Hàn
Mặc Tử? Đây cũng là những tư liệu có ý nghĩa văn học
sử, rất cần tham khảo.
Báo Người Mới liên
tiếp mấy số ra ngày 23/11, 30/11 và 7/12/1940 tập trung đăng
bài thương tiếc Nguyễn Trọng Trí của bằng hữu khắp nơi,
ắt là loạt ấn phẩm xuất hiện sớm nhất ngay sau lúc nhà
thơ mất. Lục lại chồng báo ấy, giáo sư Phan Cự Đệ xác
nhận: "Báo Người Mới số 23/11/1940 ghi bút danh Hàn
Mạc Tử trong tất cả các bài, kể cả bài của Quách
Tấn." (Thơ văn Hàn Mạc Tử - Phê bình và tưởng niệm,
NXB Giáo Dục, Hà Nội 1993, trang 329; Hàn Mạc Tử tác phẩm,
phê bình và tưởng niệm, NXB Văn Học, Hà Nội, 2002, trang
337).
Bộ
sách Thi nhân Việt Nam do Hoài Thanh và Hoài Chân biên
soạn năm 1941, từ bản in lần thứ nhất và lần thứ hai
(Bắc Việt năm 1942) cho đến bao bản in đi in lại về sau,
luôn ghi rõ Hàn Mạc Tử kèm dòng cước chú: "Hai
chữ "hàn mạc" trong tự điển không có, chỉ có "hàn mặc"
nghĩa là văn chương."
Cùng ấn hành sớm như bộ
sách trên là chuyên khảo của Trần Thanh Mại, in lần đầu
năm 1942 tại nhà in Rạng Đông (Hà Nội), với bìa và ruột
đề rõ: Hàn Mạc Tử, xuất bản bởi Võ Doãn
Mại, 63 Pellerin, Sài Gòn. Sách này in lần thứ nhì, đề NXB
Huế, cùng năm 1942, bìa với ruột cũng in rõ: Hàn Mạc
Tử. Tôi cũng có tác phẩm này, bản in lần thứ tư
và năm, do NXB Tân Việt (Sài Gòn) tái bản năm 1964 và 1970
với nhan đề: Hàn Mạc Tử thân thế và thi văn.
Chẳng rõ vì sao gần đây, một số tài liệu sao lục sách
của Trần Thanh Mại lại tự tiện chữa "Mạc" thành "Mặc"
cả?
Tương tự như vậy, báo cáo
Hàn
Mạc Tử, thi sĩ của đạo quân thánh giá do Võ Long
Tê biên soạn, đăng nguyệt san Vinh Sơn (Huế, 12/1953)
và nguyệt san Xã Hội (Sài Gòn, Tết Giáp Ngọ 1954),
về sau được in lại hoặc trích dẫn cũng bị xếp chữ "Mạc"
thành chữ "Mặc"!
NÊN THỐNG
NHẤT BÚT DANH CHÍNH CỦA NGUYỄN TRỌNG TRÍ
Trong xu thế giao lưu và hội
nhập văn hóa đất nước với toàn cầu, việc thống nhất
bút danh chính của một nhà thơ Việt Nam nổi tiếng càng cần
thiết. Dẫu vậy, xét thực tiễn hiện nay, việc điều chỉnh
bút danh của "một đỉnh cao lòa chói trong văn học của thế
kỷ, thậm chí qua các thế kỷ" (chữ dùng của Chế Lan Viên)
còn vướng vô vàn khó khăn! Quá nhiều sách báo hiện nay,
kể cả giáo khoa trung học và giáo trình đại học, cùng bảng
tên đường tại một số đô thị, cứ ghi Hàn Mặc Tử!
Đặc biệt, tại thành phố
Quy Nhơn, tỉnh Bình Định, những di tích cùng hiện vật đang
bảo tồn trong bệnh viện Quy Hòa – nơi nhà thơ đến chữa
trị và trút hơi thở cuối – với khu vực mộ phần nơi
Gành Ráng [11],
thì qua mấy đợt tôn tạo gần đây đều đã được sửa
đổi tất cả biển bảng cho hợp "chính danh" Hàn Mạc Tử.
Tại thành phố Đồng Hới, tỉnh Quảng Bình, trục lộ dẫn
tới giáo đường Tam Toà ven sông Nhật Lệ được gắn biển
bảng "đường Hàn Mạc Tử". Các đô thị Thanh Hóa (tỉnh
cùng tên), Vinh (tỉnh Nghệ An), Pleiku (tỉnh Đăk Lăk), TP.HCM
hiện cũng gắn biển bảng "đường Hàn Mạc Tử". Đó là
những việc làm rất đáng hoan nghênh.
Với chiều hướng ấy, trong
sách này, kể cả những đoạn trích dẫn, trừ trường hợp
thật sự cần thiết, Phanxipăng luôn ghi bút danh chính thức
của Nguyễn Trọng Trí là Hàn Mạc Tử. ♥
_________________
[1]
- Hồi ký này xuất hiện trên tạp chí Lành Mạnh (Huế, 1/11/1959)
và nguyệt san Văn Hóa số 46 (Sài Gòn, 11/1959), bán nguyệt
san Phổ Thông số 25 (Sài Gòn, 12/1959), sau đó lần lượt đăng
lại trên tập san Văn số 73-74 (Sài Gòn, 7/1/1967), Niềm Thương
số 5 (Nha Trang, 6/1969) và số 6 (Nha Trang, 7/1969), v.v., đoạn
in vào các sách như Thơ Hàn Mạc Tử (Sở Văn hóa Thông
tin Nghĩa Bình, 1987), Hàn Mạc Tử thơ và đời (NXB Văn
Học, Hà Nội, 1995), Hàn Mạc Tử hôm qua và hôm nay (NXB
Hội Nhà Văn, Hà Nội, 1996), v.v.. Thuở Quách Tấn sinh thời,
nội dung văn bản hồi ký này có những thay đổi qua thời
gian công bố. Phanxipăng được nhà thơ Quách Giao biếu bản
thảo Đôi nét Hàn Mạc Tử của phụ thân là nhà thơ
Quách Tấn đánh máy tại Nha Trang năm 1964 rồi thêm bớt bằng
bút và đánh máy dán vào. Tuy nhiên, để bạn đọc tiện kiểm
chứng, Bí mật Hàn Mạc Tử trích dẫn hồi ký này từ
sách Bóng ngày qua (Bàn Thành Tứ Hữu) của Quách Tấn
do Quách Giao sưu soạn (NXB Văn Nghệ TP HCM, 2001).
[2]
- Mlle do viết tắt mademoiselle, mang nghĩa cô; số nhiều thì
ghi mlles do viết tắt mesdemoiselles. Mme do viết tắt madame, mang
nghĩa bà; số nhiều thì ghi mmes do viết tắt mesdames. Đó là
những danh từ tiếng Pháp.
[3]
- Phạm Văn Ký (1910-1992) gốc gác thị xã An Nhơn, tỉnh Bình
Định; anh ruột nhà thơ Phạm Hổ (1926-2007) và nhạc sĩ Phạm
Thế Mỹ (1930-2009). Chủ bút báo Impartial ở Sài Gòn,
Gazette
de Hué ở Huế. Năm 1938, Phạm Văn Ký được học bổng
du học bậc cử nhân và cao học văn khoa tại Đại học Sorbonne,
rồi làm việc cho Đài Phát thanh và Truyền hình Pháp. Năm
1970, Phạm Văn Ký cùng phái đoàn Việt kiều Pháp về nước,
thăm Hà Nội. Tác phẩm của Phạm Văn Ký: các tiểu thuyết
Celui
qui règnela (Người sẽ ngự trị), Les Yeux courroucés (Những
con mắt giận dữ), Frères de sang (Anh em ruột thịt), Perdre
la demeure (Đánh mất cội nguồn - đạt Giải thưởng Lớn
năm 1961 của Viện Hàn lâm Pháp), Mémoires d’un Eunuque (Ký
ức của một hoạn quan), Les uns font les étoiles (Những người
làm nên các vì sao); các tập thơ Hué éternelle (Huế
vĩnh cửu), Une voix sur la voie (Tiếng nói trên đường),
Poèmes sur soie (Thơ trên lụa); kịch La citadelle d’Escargot (Thành
Ốc). Tất cả đều bằng tiếng Pháp, ngoại trừ tập thơ
tiếng Việt Đường về nước (NXB Hội Nhà Văn, Hà Nội,
1993).
[4]
- Theo
Thư tịch báo chí Việt Nam (NXB Chính Trị Quốc
Gia, Hà Nội, 1998), Sài Gòn Tiểu Thuyết do Phạm Ngọc
Thọ giám đốc, xuất bản hằng tuần, số 1 ra ngày 14/11/1936,
cuối cùng là số 7 ra tháng 10/1937.
[5]
- Nguyễn Đình Niên chào đời năm 1936 tại làng Phước Yên,
huyện Quảng Điền, tỉnh Thừa Thiên – Huế. Tốt nghiệp
ban Việt – Hán, Đại học Sư phạm Huế, năm 1966. Bảo vệ
thành công luận văn cao học Kinh nghiệm về thân phận làm
người trong thơ Hàn Mạc Tử tại Đại học Văn khoa Sài
Gòn tháng 7-1973. Từng dạy Việt văn tại các trường Trung
học bán công Quảng Phước (Thừa Thiên), Võ Tánh (Nha Trang),
Đồng Khánh – Hai Bà Trưng (Huế). Nguyễn Đình Niên đã in
các tập thơ với bút danh Tường Phong: Trăng phương Đông
(1958),
Thơ của người cô độc (NXB Thuận Hóa, Huế,
2007).
[6]
- Trần Tái Phùng (1914-2004) là anh ruột của Trần Thị Thương
Thương.
[7]
- Bùi Tuân chào đời năm 1913 tại huyện Quỳnh Lưu, tỉnh
Nghệ An. Vào Huế nhập học trường Pellerin năm 1929. Kết
thân với Hàn năm 1932 tại Quy Nhơn. Năm 1933, Bùi Tuân bắt
đầu làm báo. Năm 1936, kết hôn với Nguyễn Thị Thương tại
Huế, Bùi Tuân trở thành dượng của Nguyễn Văn Xê – một
trong ít bệnh nhân kề cận Hàn thời gian cuối đời. Bùi
Tuân đã thăm Hàn ở xóm Động năm 1939 & ở xóm Tấn năm
1940, viếng mộ Hàn tại Quy Hoà năm 1941, viếng mộ Hàn tại
Gành Ráng năm 1960. Giai đoạn 1955-1963, đệ tam phó tổng thư
ký Quốc hội tại Sài Gòn. Bùi Tuân từ trần tại Huế ngày
25/12/1966. Sách của Bùi Tuân đã xuất bản: Thế lực đối
ngoại của Toà Thánh (NXB An Phong, Huế, 1954), Xây dựng
trên nhân vị (NXB Nhận Thức, Huế, 1956), Con heo vàng
(Nhà sách Khai Trí, Sài Gòn, 1962).
[8]
- G.F.M. Génibrel. Dictionnaire Annamite-Français / 大越國音漢字法釋集成
/
Đại Việt quốc âm Hán tự Pháp thích tập thành (Nhà
in Tân Định, Sài Gòn, ấn bản lần thứ nhì, 1898) ghi ở
trang 434 "墨Mạc. (Mực), Encre" &
trang 442 "墨Mặc. (Mực), Encre".
[9]
- Trích bản thảo Bùi Tuân – Hàn Mạc Tử: một tình bạn
thanh cao (Tủ sách Bùi gia, Bình Dương, 2010, trang 63- 64).
[10]
- Trần Thanh Mại dịch: Tấm linh hồn thanh khiết. Hoàng
Trọng Miên dịch: Linh hồn thanh khiết. Phạm Đình Khiêm
dịch:
Hồn thanh khiết. Vũ Đình Phòng dịch: Hồn
trinh bạch.
[11]
- Lịch sử ngữ âm tiếng Việt đã phản ánh biến chuyển
trước sau theo thời gian: anh > inh > ênh. Trong tiếng Việt
văn học và tiếng Việt toàn dân, từ đang xét chuyển biến
lần lượt: gành > ghình > ghềnh. Vậy âm gốc là Gành
Ráng (Bình Định), đèo Gành, chợ Gành, Gành Đá Đĩa (Phú
Yên), Gành Son (Ninh Thuận), cầu Gành (Đồng Nai), Gành Hào
(Bạc Liêu), v.v.. An Chi viết trên báo Năng Lượng Mới
508 (28/3/2016): "Ta nên nhớ rằng, ở đây, Gành không còn là
danh từ chung nữa, mà là danh từ riêng, là địa danh. Đối
với địa danh, nhân danh, ta không thể tự tiện
hoặc sỗ sàng thay thế nó bằng
biến thể ngữ âm (của nó)" . Phanxipăng thêm rằng
gành / Gành chẳng những là âm gốc, mà lâu nay vẫn được
cư dân quen gọi. Gành Ráng được ghi nhận trong hồi ký Đôi
nét về Hàn Mạc Tử của Quách Tấn, sách Hàn
Mạc Tử của Hoàng Diệp, các sách Hàn Mạc Tử anh tôi
và Hàn Mạc Tử trong riêng tư cùng tranh sơn dầu của
Nguyễn Bá Tín. Địa danh Việt Nam trong tục ngữ - ca dao
của Vũ Quang Dũng (NXB Từ Điển Bách Khoa, Hà Nội, 2007) in
rõ:
Gió
cầu Tấn đêm ngày thổi mát
Đường
Quy Nhơn mịn cát dễ đi
Phương
Mai, Gành Ráng tương tri
Ngân câu
thủy tú sơn kì thảnh thơi.
Tại TP Quy Nhơn,
tỉnh lị Bình Định, phường Ghềnh Ráng được thành lập
trên cơ sở tách một phần diện tích tự nhiên và dân số
của phường Quang Trung, theo quyết định số 118/197/NĐ-CP ngày
26-12-1997 của Chính phủ. Tuy nhiên, vì những lý do đã nêu,
sách Bí mật Hàn Mạc Tử vẫn ghi Gành Ráng.
Chú
thích ảnh:
Di ảnh
Hàn Mạc Tử / Nguyễn Trọng Trí (1912-1940)
Trong tập
thơ Một tấm lòng của Quách Tấn xuất bản lần đầu
năm 1939, cả 7 lần in rõ bút danh / bút hiệu "Hàn-Mạc-Tử".
Mạc chứ không phải Mặc.
Ảnh: Vũ
Hà Tuệ
Báo Tràng
An số 610 (Huế, 26/11/1940) đăng bài tưởng niệm Hàn do Hoàng
Diệp viết, cùng bài thơ di cảo của Hàn Mạc Tử. Mạc chứ
không phải Mặc.
Ảnh: Vũ
Hà Tuệ
Soạn
sách Thi nhân Việt Nam, Hoài Thanh và Hoài Chân ghi Hàn
Mạc Tử chứ không ghi Hàn Mặc Tử.
Ảnh: Phanxipăng
TP Quy Nhơn,
tỉnh lị Bình Định, các di tích cùng hiện vật liên quan
Nguyễn Trọng Trí đều ghi rõ Hàn Mạc Tử; tên đường phố
cũng vậy. Mạc chứ không phải Mặc. Ảnh: Trần Hoa Khá
Phanxipăng
nơi đường Hàn Mạc Tử ở phường Tân Thành, quận Tân Phú,
TP HCM. Mạc chứ không phải Mặc. Ảnh: Trần Ngọc Đại Dương
|