Lời người dịch:
Tháng 9 năm 2019, tác gia, nhà
hoạt động xã hội và môi trường Naomi Klein đã xuất
bản cuốn "On Fire: The (Burning) Case for Green New Deal
– Bùng cháy: Lý do nồng nhiệt ủng hộ Thỏa Thuận Mới
Màu Xanh" tập hợp các bài tiểu luận tập trung vào hiểm
họa biến đổi khí hậu và những hành động cấp bách cần
thiết để cứu trái đất. Naomi Klein ủng hộ Nghị quyết
Green
New Deal trong suốt cuốn sách, và chương kết luận
của cuốn sách này tóm lược thêm 9 lý do để ủng hộ Green
New Deal, là một tham luận rất thuyết phục (xin xem bản
dịch dưới đây).
Naomi Klein là nhà báo
đã đoạt được nhiều giải thưởng quốc tế, cộng tác
với những tờ báo có uy tín toàn cầu như The New York Times,
The Nation, The Guardian,... Thông tín viên cấp cao của báo
mạng The Intercept. Tác giả của nhiều tác phẩm về
xã hội, kinh tế và môi trường được hâm mộ nhất thế
giới như The Shock Doctrine, No Logo, This Changes Everything, No
Is Not Enough,... Khoa trưởng đầu tiên của phân khoa Media,
Culture and Feminist Studies ở Ðại học Rutgers. Là nhà
hoạt động nổi tiếng cho nữ quyền, công bằng xã hội và
môi trường, bà đồng sáng lập The Leap, tổ chức
tranh đấu cho Công lý về Khí hậu.
Greta Thunberg viết: "Tác
phẩm của Naomi Klein luôn luôn làm tôi cảm động và chỉ
hướng cho tôi. Bà là người ghi sử vĩ đại về khủng hoảng
khí hậu của thời đại, và là niềm hứng khởi của nhiều
thế hệ hiện tại".
*
Những
người chỉ trích Green New Deal có nhiều lập luận nghiêm
trang để bảo rằng toàn bộ kế hoạch này chỉ có thể thất
bại mà thôi. Tình trạng tê liệt ở thủ đô chính trị Washington
là có thật. Ngay cả trong một thế giới mà cho dù các đảng
viên Cộng hòa vốn chối bỏ nguy cơ biến đổi khí hậu có
bị quét sạch khỏi quyền lực đi nữa, vẫn sẽ còn nhiều
đảng viên Dân chủ có khuynh hướng trung dung còn quả
quyết rằng các cử tri của họ không muốn có những thay
đổi triệt để đến như thế. Các kế hoạch Green New Deal
sẽ rất tốn kém và việc vận động cho ngân sách được
phê chuẩn sẽ là loại nỗ lực gian khổ cỡ các công trình
khổng lồ của Hercules.
Người ta bảo rằng hướng
hành động tốt nhất là thúc đẩy các chính sách về khí
hậu nào thu hút được nhiều người thuộc phái bảo thủ,
chẳng hạn: chuyển từ điện than đá sang điện hạch nhân,
hoặc là đánh một khoản thuế carbon nho nhỏ để lấy lại
doanh thu như một loại "cổ tức" chia lời cho mọi người
dân.
Khuyết điểm chính của các
lối tiếp cận theo kiểu tiến-từ-từ chắp vá vụn
vặt này, đơn giản là chúng sẽ không làm được việc. Để
giành cho được sự ủng hộ từ những đảng viên Cộng hòa
đang ngập mặt trong tiền bạc thu nhận được từ nhiên liệu
hóa thạch, thì khoản thuế carbon nói trên sẽ quá thấp để
có thể có tác dụng bù lổ cho họ. Điện hạch nhân thì
đắt và chậm xây dựng lẫn triển khai so với loại năng
lượng tái tạo, đó là chưa kể đến những rủi ro trong
việc khai thác uranium và lưu trữ xử trí chất thải.
Sự thật là, chúng ta không
thể nào giảm lượng khí thải khổng lồ một cách nhanh chóng
như yêu cầu, để thoát ra khỏi quỹ đạo nguy hiểm đã dự
kiến, mà không cần đến một cuộc đại-tu sâu rộng các
cơ sở hạ tầng lẫn công nghiệp đang có. May mắn là Green
New Deal không phải gần như viễn vông hoặc phi-thực-tế như
nhiều nhà phê bình đã cáo buộc. Tôi đã chứng minh tại
sao như thế suốt trong các chương trước của cuốn sách này,
tuy nhiên cũng sẽ nêu ra sau đây thêm chín lý do khiến
Green New Deal có cơ hội thành công, cơ hội này sẽ tăng thêm
nữa mỗi lần chúng ta dấn bước lên và cổ động cho giải
pháp này.
1. Green New Deal sẽ tạo ra
công việc trên quy mô khổng lồ
Ðến nay, tất cả những nơi
trên thế giới đã đầu tư nhiều vào năng lượng tái tạo
và hiệu năng cao đều chứng tỏ được rằng các lĩnh vực
này chính là những ngành mạnh mẽ tạo ra việc làm hơn nhiều
so với ngành nhiên liệu hóa thạch. Khi tiểu bang New York cam
kết sẽ thay một nửa tổng số năng lượng bằng năng lượng
tái tạo vào năm 2030 (tuy vẫn chưa đủ nhanh), ngay lập tức
họ đã chứng kiến sự gia tăng đột biến trong số
việc-làm-mới được tạo ra.
Các bước tiến càng lúc càng
tăng tốc của kế hoạch Green New Deal sẽ biến nó thành một
cỗ máy tạo việc làm. Ngay cả khi không có sự hỗ trợ của
chính phủ liên bang — thực sự, dù đã phải chịu sự phá
hoại cố tình từ Nhà Trắng (dưới thời Tổng thống Trump)
— nền kinh tế xanh đã tạo ra được nhiều việc làm hơn
ngành dầu mỏ và khí đốt. Theo Báo cáo Việc làm và Năng
lượng Hoa Kỳ (United States Energy and Employment Report - USEER)
năm 2018, số công việc trong lĩnh vực hoạt dụng năng lượng
gió, năng lượng mặt trời và các loại năng lượng sạch
khác đã nhiều hơn gấp ba lần các công việc về nhiên liệu
hóa thạch. Điều đó đang xảy ra do sự kết hợp những ưu
đãi của các tiểu bang và thành phố, cùng với việc chi phí
về năng lượng tái tạo đang giảm mạnh. Green New Deal sẽ
đưa ngành công nghiệp năng lượng tái tạo bùng phát thành
siêu sao mới, đồng thời đảm bảo những công việc mới
có mức lương và phúc lợi tương đương với các công việc
được cung cấp trong lĩnh vực dầu khí hóa thạch.
Không hề thiếu các kết quả
điều nghiên hỗ trợ kết luận này. Chẳng hạn, một nghiên
cứu năm 2019 về tác động đến việc làm của một chương
trình kiểu Green New Deal ở tiểu bang Colorado đã cho thấy sẽ
tạo ra nhiều việc làm hơn là mất đi. Nghiên cứu này, được
Khoa Kinh tế và Viện Nghiên cứu Kinh tế Chính trị tại
Ðại học Massachusetts – Amherst công bố, đã xem xét những
gì tiểu bang phải làm để đạt được mức giảm 50% lượng
khí thải vào năm 2030. Kết quả cho thấy rằng khoảng 585
công việc ngoài cấp quản lý sẽ mất đi nhưng bù lại, với
khoản đầu tư 14,5 tỷ USD mỗi năm vào năng lượng sạch,
"Colorado sẽ tạo ra khoảng 100.000 việc làm mỗi năm trong
tiểu bang."
Còn có rất nhiều nghiên cứu
khác nữa với những phát hiện nổi bật tương tự. Một
kế hoạch được
U.S. BlueGreen Alliance - Liên minh BlueGreen
Hoa Kỳ, một cơ quan tập hợp các công đoàn và các nhà bảo
vệ môi trường, đã ước tính rằng khoản đầu tư hàng
năm 40 tỷ USD vào phương tiện giao thông công cộng và đường
sắt cao tốc trong vòng sáu năm, sẽ tạo ra hơn 3,7 triệu việc
làm trong thời gian đó. Và theo một báo cáo của European
Transport Workers Federation - Liên đoàn Công nhân Vận tải
Âu châu, các chính sách toàn diện nhằm giảm 80% lượng khí
thải trong lĩnh vực giao thông sẽ tạo ra 7 triệu việc làm
mới trên khắp lục địa Âu châu, trong khi 5 triệu việc làm
năng lượng sạch khác ở Châu Âu có thể làm giảm 90% lượng
khí thải từ ngành điện lực.
2. Kinh phí cho Green New Deal
sẽ tạo ra nền kinh tế công bình hơn
Như báo cáo của IPCC năm 2018
về việc giữ nhiệt độ toàn cầu không tăng quá 1,5 °C đã
nêu rõ, nếu chúng ta không thực thi những hành động cấp
thiết để giảm lượng khí thải, thì thiệt hại sẽ lên
đến mức số thiên văn. Ủy ban IPCC ước tính thiệt hại
kinh tế của việc để nhiệt độ tăng thêm 2 °C (thay vì
1,5 °C) sẽ lên tới 69 nghìn tỷ USD trên toàn cầu.
Tất nhiên, việc triển khai
Green New Deal cũng sẽ có chi phí lớn, và những người ủng
hộ đã chỉ ra nhiều cách khác nhau để tài trợ cho kế hoạch
này. Alexandria Ocasio-Cortez đã nói rằng phiên bản Green
New Deal của Hoa Kỳ nên được tài trợ theo phương cách vẫn
dùng cho tất cả các khoản chi tiêu khẩn cấp đã từng xảy
ra trước đây: là Quốc hội Mỹ chỉ cần chấp thuận các
khoản ngân sách, và được Treasury - Bộ Tài chính Mỹ bảo
đảm hỗ trợ như biện pháp cuối cùng. Theo New Consensus,
tổ chức tư vấn liên kết chặt chẽ với các đề xuất
chính sách của Alexandria Ocasio-Cortez: "Green New Deal sẽ sản
xuất hàng hóa và dịch vụ mới để bắt kịp và bù đắp
các khoản chi tiêu mới, do đó không có lý do gì khác nữa
để phải lo sợ khó khăn trong việc tài trợ có thể làm
ngừng tiến độ của kế hoạch này, hơn là phải lo sợ khó
khăn trong việc tài trợ sẽ làm ngừng tiến độ của chiến
tranh hoặc giảm thuế."
Trong khi đó, phong trào "European
Spring - Mùa Xuân Châu Âu" đề xuất một Green New Deal cho
Châu Âu kêu gọi thực thi mức thuế doanh nghiệp tối thiểu
toàn cầu để thu lại doanh thu thuế mà các đại công ty cỡ
Apple hay Google trên thế giới hiện đang né tránh bằng các
mánh khóe dàn xếp xuyên-quốc-gia. Đồng thời còn kêu gọi
đảo ngược quan niệm chính thống về chính sách tiền tệ
(monetary orthodoxy), cho phép đầu tư công cộng phát hành "trái
phiếu xanh" được hỗ trợ bởi các ngân hàng trung ương.
"Ðể giải quyết mối đe dọa hiện hữu thực sự mà chúng
ta đang phải đối mặt ngày nay, chúng ta cần phải đảo ngược
các chính sách kinh tế đã đưa chúng ta đến bờ vực thẳm
này. Kiệm ước, thắt lưng buộc bụng có nghĩa là tuyệt
chủng". Một số nhà phân tích, như Christian Parenti, đã
nhấn mạnh rằng các chính phủ liên bang có thể thúc đẩy
quá trình chuyển đổi bằng các chính sách thu mua hàng hóa.
Nói tóm lại, có đủ các phương
cách để huy động tài chính, bao gồm cả những cách tấn
công vào mức độ tập trung của cải không thể tiếp tục
mãi được vào tay một số ít người, và chuyển gánh nặng
lên vai những kẻ phải chịu trách nhiệm lớn nhất trong việc
làm ô nhiễm khí hậu. Và không khó để tìm ra họ là ai.
Chúng ta biết, nhờ vào nghiên cứu của Climate Accountability
Institute - Viện Giải trình Khí hậu, rằng con số kinh khủng
71% tổng lượng khí thải gây hiệu ứng nhà kính kể từ
năm 1988 có thể truy ra nguồn gốc từ chỉ một trăm công
ty và nhà nước khổng lồ về nhiên liệu hóa thạch, được
mệnh danh là "Carbon Majors - Các tay tổ thải khí carbon".
Dựa trên sự thật này, có
nhiều biện pháp "người gây ô nhiễm phải trả tiền"
có thể được thực thi để đảm bảo rằng những kẻ chịu
trách nhiệm nặng nhất về cuộc khủng hoảng này sẽ phải
nỗ lực hết sức để yểm trợ thực hiện quá trình chuyển
đổi — thông qua việc đóng tiền phạt thiệt hại pháp lý,
thông qua tiền bản quyền cao hơn, và cắt giảm trợ cấp
cho họ. Trợ cấp trực tiếp cho nhiên liệu hóa thạch
trị giá lên đến 775 tỷ USD mỗi năm trên toàn cầu, gồm
hơn 20 tỷ USD chỉ riêng ở Hoa Kỳ. Điều đầu tiên cần
làm là các khoản trợ cấp này phải được chuyển sang đầu
tư vào năng lượng tái tạo và hiệu năng cao.
Mà không chỉ các công ty nhiên
liệu hóa thạch mới đặt lợi nhuận siêu hạng của mình
lên trên sự an toàn của loài người trong hàng thập kỷ qua;
các thiết chế
tài chính, ngân hàng đã bảo lãnh các
khoản đầu tư của các công ty đó cũng thế thôi, mặc dù
vẫn thấu hiểu tường tận về các rủi ro khi làm như thế.
Đó là lý do tại sao, ngoài việc loại bỏ trợ cấp nhiên
liệu hóa thạch, các chính phủ còn phải đòi chia sẻ công
bằng hơn nhiều nữa từ thu nhập khổng lồ của khu vực
tài chính, ngân hàng bằng cách áp đặt thuế giao dịch,
có thể thu được đến 650 tỷ USD trên toàn cầu, theo ước
tính của Nghị viện châu Âu.
Và tiếp theo đó là quân đội.
Nếu ngân sách quân sự của mười quốc gia hàng đầu
về chi tiêu quân sự trên toàn cầu bị cắt giảm 25%, thì
sẽ giải tỏa được hàng năm 325 tỷ USD, theo số liệu báo
cáo của Stockholm International Peace Research Institute - Viện
Nghiên cứu Hòa bình Quốc tế Stockholm, số tiền này có thể
được chi cho việc chuyển đổi năng lượng và chuẩn bị
cho cộng đồng thế giới ứng phó với thời tiết khắc nghiệt
phía trước.
Trong khi đó, chỉ cần tăng
thuế 1% lên các tỷ phú là sẽ có thể thu về 45 tỷ USD
mỗi năm trên toàn cầu, theo Liên Hiệp Quốc, đấy là chưa
kể số tiền sẽ còn thu lại được từ những nỗ lực quốc
tế nhằm đóng cửa các thiên đường thuế cho các đại
gia. Theo James S. Henry, cố vấn cấp cao của Tax Justice Network
- Mạng lưới Tư pháp Thuế có trụ sở tại Anh, vào năm 2015,
tài sản tài chính tư nhân của các cá nhân không được báo
cáo tại các thiên đường thuế trên toàn cầu ước tính
vào khoảng từ 24 nghìn tỷ đến 36 nghìn tỷ USD. Đóng cửa
một số thiên đường đó sẽ giúp rất nhiều vào việc thực
hiện quá trình chuyển đổi công nghiệp vô cùng cần thiết
ngày nay.
3. Hoạt dụng sức mạnh
của tình trạng khẩn cấp
Green New Deal không coi khủng
hoảng khí hậu chỉ là một vấn đề trong bản liệt kê các
ưu tiên xứng đáng để thực hiện. Mà đã hưởng ứng lời
kêu gọi của Greta Thunberg là "hãy hành động như
chính ngôi nhà của bạn đang bốc cháy. Bởi đang bốc cháy
thật sự đấy." Quả thật là thời hạn mà khoa học
đã chỉ ra cho việc thưc hiện chuyển đổi sâu rộng này
quá ngắn, đến mức nếu các bước chuyển đổi căn bản
không thực hiện được mỗi năm trong ba mươi năm tới, thì
chúng ta sẽ đánh mất cơ hội nhỏ bé mà chúng ta còn có
để ngăn chặn sự nung nóng toàn cầu thực sự thảm khốc.
Đối ứng với một trường hợp khẩn cấp đúng mức với
trường hợp khẩn cấp, có nghĩa là tất cả năng lượng
mà chúng ta đang có, phải được vận dụng toàn lực vào
hành động, thay vì chỉ để la hét về sự cần thiết phải
hành động, là điều đang xảy ra ngay bây giờ.
Có khẩn cấp như vậy mới
có thể giải phóng tất cả chúng ta khỏi tình trạng suy nhược
vì phân vân lưỡng lự, vẫn thường có khi sống trong một
văn-hóa-phủ-nhận- thực-tế của một cuộc khủng hoảng
sâu sắc ở mức độ khủng khiếp. Green New Deal đặt tất
cả chúng ta vào tình trạng khẩn cấp, điều đó tuy đáng
kinh hãi cho một số người, nhưng lại khiến nhiều người
khác nhẹ nhõm và quyết tâm, đặc biệt là đối với những
người trẻ tuổi, sẽ là một nguồn năng lực mạnh mẽ.
4. Green New Deal không thể
trì hoãn được
Một số người đã chỉ trích
nghị quyết Green New Deal vì bảo rằng nước Mỹ phải loại
bỏ nhiên liệu hóa thạch ngay chỉ trong một thập kỷ. Trong
khi các nhà khoa học đã nói rằng thế giới cần phải đạt
được mức phát thải thực chất 0 vào năm 2050, vậy tại
sao lại phải vội vàng đến thế? Câu trả lời đầu tiên
là "vì công lý": các quốc gia giàu có đã trở nên giàu
như vậy bằng cách gây ô nhiễm không ai hạn chế được,
vì vậy cần phải khử cacbon nhanh nhất, để các quốc gia
nghèo hơn, đa số các nước này vẫn còn thiếu thốn ngay
cả những điều kiện cơ bản về nước sạch và điện lực,
có thể có được một quá trình chuyển đổi dần dần.
Và câu trả lời thứ hai là
"vì chiến lược": thời hạn mười năm có nghĩa là
không thể trì hoãn được nữa. Cho đến trước khi có kế
hoạch Green New Deal, mọi phản ứng chính trị đối với cuộc
khủng hoảng khí hậu đều cố đặt các mục tiêu tham vọng
nhất ra thật xa cả nhiều thập kỷ trong tương lai, rất lâu
sau khi các chính trị gia đưa ra những cam kết này rời khỏi
nhiệm sở. Đã vậy, các nhiệm vụ mà các chính trị gia này
giao cho chính họ lại tương đối dễ làm, chẳng hạn như
đưa ra các kế hoạch hạn chế và thương lượng bù trừ
thải khí CO2, hoặc ngừng hoạt động các nhà máy chạy than
cũ và thay thế chúng bằng khí đốt thiên nhiên. Còn công
việc khó khăn là đối mặt với toàn bộ mô hình kinh doanh
của ngành công nghiệp nhiên liệu hóa thạch thì họ để
dành lại thật lâu về sau cho những người kế nhiệm!
Thỏa thuận thời gian chuyển
tiếp mười năm không có nghĩa là mọi việc nhất định phải
hoàn thành trong một thập kỷ. Nghị quyết đặt ra một thời
hạn khá tham vọng nhưng vẫn nhắc nhở "trong phạm vi khả
thi về mặt công nghệ, kỹ thuật."
Cơ bản là chúng ta không còn
chơi trò đùn đẩy trách nhiệm nữa. Nhóm chính trị gia hiện
tại đã đề xuất và ủng hộ Green New Deal cuối cùng muốn
nói rằng: "Chúng ta là những người sẽ hoàn thành công
việc. Chứ không phải ai khác".
Xét trên những thiệt hại
mà cám dỗ trì hoãn đã gây ra cho hành tinh của chúng ta bao
lâu nay, đó là một quyết tâm rất lớn.
5. Không sợ suy thoái kinh
tế
Trong ba thập kỷ qua, một trong
những trở ngại lớn nhất ngăn cản tiến bộ vững chãi
trong hành động cho khí hậu là sự bất-an-định của thị
trường. Trong những thời kỳ kinh tế tăng tiến, người ta
thường sẵn lòng thực hiện vài chính sách môi trường, nghĩa
là chịu trả nhiều hơn một chút cho khí đốt, điện và
các sản phẩm "xanh". Thế nhưng cứ mỗi lần kinh tế rơi
vào tình trạng suy thoái vất vả thì sự sẵn lòng này lại
bốc hơi tiêu tan ngay một cách dễ hiểu.
Và đó có thể là lợi ích
lớn nhất của việc mô-hình-hóa phương pháp tiếp cận khí
hậu của chúng ta hiện nay theo mẫu New Deal của Franklin
D. Roosevelt, phương sách kích thích kinh tế nổi tiếng nhất
mọi thời đại, được thực hiện ngay bờ vực khủng hoảng
kinh tế tồi tệ nhất trong lịch sử hiện đại. Khi nền
kinh tế toàn cầu bước vào một cuộc suy thoái hoặc khủng
hoảng khác, là điều chắc chắn sẽ phải xảy ra, thì sự
hỗ trợ cho Green New Deal lần này vẫn sẽ không chìm xuồng
như trường hợp của mọi sáng kiến xanh lớn khác trong
các cuộc suy thoái trước đây. Thay vào đó, sự hỗ trợ
có thể được dự kiến sẽ tăng lên, bởi vì một gói
kích thích quy mô lớn có sức mạnh tạo ra được hàng triệu
việc làm như thế sẽ trở thành hy vọng lớn nhất có thể
giải quyết được nỗi khổ-nhọc kinh tế của mọi người.
6. Tránh được phản ứng
phẫn nộ của dân chúng
Lệ thường khi các chính trị
gia đưa ra những chính sách về khí hậu xa lánh hẳn dự tính
chung của quần chúng về công bằng kinh tế, thì công chúng
sẽ có phản ứng phẫn nộ trước sự bất công đó. Ví dụ,
hãy nhìn xem nước Pháp dưới thời Emmanuel Macron, người bị
các đối thủ chế nhạo là "tổng thống cho nhà giàu".
Macron đã theo đuổi một chương trình hành động kiểu "thị
trường tự do" cổ điển cho nước Pháp, giảm thuế
cho các cá nhân và tập đoàn giàu có, rút bỏ các biện pháp
bảo vệ người lao động đã khó khăn lắm mới giành được,
khiến học sinh khó có được giáo dục đại học hơn - tất
cả xảy ra ngay sau nhiều năm người dân đã phải thắt lưng
buộc bụng dưới các chính quyền trước đó.
Chính trong bối cảnh đó, vào
năm 2018, Macron đã đưa ra thuế nhiên liệu nhằm khiến việc
dùng xe hơi đắt đỏ hơn lên, từ đó giảm mức tiêu thụ
và nhân thể gây quỹ cho các chương trình khí hậu.
Thế nhưng thực tế đã không
đạt được hiệu quả như vậy. Số đông những người lao
động ở Pháp, vốn đang khổ sở vì áp lực kinh tế nặng
nề từ các chính sách khác của Macron, đã coi phương cách
đối đầu với khủng hoảng khí hậu dựa trên thị trường
như thế này là đòn tấn công trực tiếp vào họ: Tại sao
họ lại phải trả nhiều hơn nữa để lái xe đi làm, trong
khi giới siêu giàu được tự do đổ nhiên liệu vào máy bay
phản lực tư nhân để bay sang chơi ở các thiên đường thuế
của chúng? Hàng vạn người đã xuống đường trong căm phẫn,
lắm người mặc áo bảo hộ màu vàng (gọi là đám gilets
jaunes) biến nhiều cuộc biểu tình thành bạo loạn
toàn diện.
Nhiều gilets jaunes
đã hô vang: "Chính phủ lo ngày tận thế. Chúng tôi lo
mỗi cuối tháng." Trong tuyệt vọng cố gắng giành lại
quyền kiểm soát đất nước, Macron đã phải rút bỏ thuế
nhiên liệu và tăng mức lương tối thiểu, cùng với những
nhượng bộ khác, đồng thời đàn áp tàn bạo phong trào phản
kháng.
Một trong những điểm mạnh
của cách tiếp cận Green New Deal là sẽ không tạo ra loại
phản ứng phẫn nộ này. Không có chút gì trong khung-sườn
hành động của Green New Deal buộc mọi người phải lựa chọn
giữa việc lo đến ngày tận thế và lo đến ngày cuối tháng
cả. Toàn bộ mục đích vẫn là thiết kế các chính sách
cho phép tất cả chúng ta lo liệu cho cả hai; các chính sách
giảm lượng khí thải đồng thời giảm áp lực kinh tế lên
người lao động, bằng cách đảm bảo rằng mọi người đều
có thể kiếm được việc làm tốt trong nền kinh tế mới;
rằng họ có được các biện pháp an sinh xã hội cơ bản
như chăm sóc sức khỏe, giáo dục, nhà trẻ; và những công
việc "xanh" đều tốt, nằm trong nghiệp đoàn,
hỗ trợ gia đình với đầy đủ phúc lợi và thời gian nghỉ
dưỡng. Chắc chắn sẽ phải chi trả cho việc giảm khí carbon,
nhưng người lao động có cơ hội sống sót cao hơn nhiều,
nếu họ không phải bám víu vào cuộc sống chỉ có thể bằng
mấy đầu móng tay của họ.
7. Green New Deal tạo được
một đội quân ủng hộ nhiệt thành
Từ khi được đề xuất đến
nay, những lời chỉ trích thường xuyên nhất đối với Green
New Deal là tập trung quá nhiều vào công bằng kinh tế và xã
hội, khiến cho khó kêu gọi ủng hộ hành động về khí hậu
hơn là cho loại kế hoạch hạn hẹp hơn chỉ nhắm vào
việc giảm khí thải carbon mà thôi. Như Thomas Friedman đã viết
trên báo New York Times rằng: "Tim tôi hướng về cây xanh.
Nhưng đầu tôi bảo rằng không thể chuyển đổi cả hệ
thống năng lượng và hệ thống kinh tế / xã hội của chúng
ta trên quy mô lớn như thế cùng một lúc được. Chúng ta
phải chọn ưu tiên năng lượng hay khí hậu. Bởi vì đối
với môi trường, thì chậm trễ có nghĩa là quá muộn. Chậm
trễ là chính thức kết thúc."
Lời nói đó giả định rằng
thành phần kinh tế / xã hội trong Green New Deal là gánh nặng
trì kéo toàn bộ kế hoạch này xuống. Trên thực tế, chính
thành phần kinh tế / xã hội đó mới nâng lên hiệu quả
của toàn bộ kế hoạch.
Không giống như những phương
sách đùn đẩy chi phí chuyển đổi lên vai người lao động,
Green New Deal chuyên chú đưa việc giảm ô nhiễm môi trường
thành ưu tiên hàng đầu cho những giới lao động dễ bị
thiệt hại nhất và những cộng đồng dễ bị gạt ra ngoài
nhất. Cuộc diện sẽ thay đổi khi chúng ta có được các
đại biểu trong Quốc hội đã từng trải qua các cuộc đấu
tranh cho tầng lớp lao động để có công ăn việc làm đủ
sống, cùng không khí và nước không độc hại, những đại
biểu phụ nữ như Rashida Tlaib, người đã giúp tranh
đấu thành công chống lại núi than cốc dầu hỏa độc hại
của công ty Koch Industries ở Detroit.
Nếu là người thuộc tầng
lớp thủ lợi trong nền kinh tế hiện tại và được tài
trợ bởi tầng lớp còn thủ lợi nhiều hơn nữa, như rất
nhiều chính trị gia ngày nay, thì họ chỉ cố gắng xây dựng
luật khí hậu sao cho thay đổi chỉ ở mức tối thiểu, và
càng ít ảnh hưởng đến hiện trạng càng tốt. Bởi lẽ
hiện trạng này đang mang lại lợi nhuận tối đa cho họ và
các nhà tài trợ của họ. Đó là loại kế sách đã thất
bại, như kế hoạch hạn chế và thương lượng bù trừ thải
khí CO2 đã thất bại ở Thượng viện dưới thời Tổng thống
Obama, và đó cũng là loại kế sách đã đập ngược vào mặt
Tổng thống Macron ở Pháp.
Ngược lại, các nhà lãnh đạo
có gốc rễ từ các cộng đồng bị ngược đãi trầm trọng
bởi hệ thống kinh tế xã hội hiện tại, thì được giải
tỏa để thực hiện một phương sách khác hẳn. Các chính
sách khí hậu của họ nhiệt thành bao gồm những chuyển đổi
sâu sắc trong toàn hệ thống, bởi vì chuyển đổi sâu sắc
chính là điều mà các cộng đồng cơ sở của họ cần có
để phát triển.
Trong nhiều thập kỷ qua, rào
cản lớn nhất để giành chiến thắng trong luật khí hậu
là sự chênh lệch to lớn về quyền lực. Lực phản đối
từ các công ty nhiên liệu hóa thạch đã rất là hung hãn,
sáng tạo và kiên cường. Nhưng đến khi các loại chính sách
khí hậu dựa trên thị trường vốn yếu kém và rất thường
là bất công, được đưa vào chương trình nghị sự chính
trị, thì sự ủng hộ có cố gắng lắm cũng chẳng còn được
bao nhiêu.
Trái lại, Green New Deal đã
cho thấy sức mạnh có thể huy động được một phong trào
quần chúng thực sự kết hợp được nhiều thành phần xã
hội, không bị người ta lánh xa vì tính cách bao trùm sâu
rộng đến như tham vọng của giải pháp, mà chính thật có
hiệu quả lại là nhờ vào tính cách bao trùm sâu rộng ấy.
Đúng như các tổ chức công bằng khí hậu đã lập luận
trong nhiều năm nay, một khi các cộng đồng sẽ thu hoạch
được nhiều lợi ích nhất từ việc chuyển đổi, mà
dẫn đầu phong trào, thì họ sẽ chiến đấu tận lực để
giành chiến thắng.
8. Green New Deal sẽ tập hợp
được nhiều đồng minh và cắt cụt phái bảo thủ khuynh
hữu
Một trong những điểm bị
đả kích kịch liệt của Green New Deal là: do việc liên kết
hành động khí hậu với nhiều mục tiêu của các chính sách
cấp tiến khác, phái bảo thủ sẽ tin tưởng hơn rằng: sự
kiện nung nóng toàn cầu là một âm mưu lén đẩy vào chủ
nghĩa xã hội, và vì vậy phân cực chính trị sẽ càng ngày
càng sâu sắc.
Không còn gì để nghi ngờ
chuyện các đảng viên Cộng hòa ở Washington sẽ tiếp tục
tuyên truyền rằng Green New Deal chỉ là một cách thức để
biến Hoa Kỳ thành Venezuela xã hội chủ nghĩa!
Tất cả chúng ta đều có thể chắc chắn là họ sẽ tuyên
truyền như thế. Nhưng đừng quá lo lắng mà bỏ qua một trong
những lợi ích lớn nhất của việc đối phó với tình trạng
khẩn cấp về khí hậu như một dự án tái tạo đất và
cơ sở hạ tầng rộng lớn; bởi không có gì hàn gắn được
những chia rẽ về ý-thức-hệ nhanh chóng cho bằng một dự
án cụ thể mang lại việc làm và tài nguyên cho các cộng
đồng đang bị thiệt hại.
Một người hiểu rõ điều
này là Tổng thống
Franklin D. Roosevelt. Chẳng hạn, khi
ông triển khai mạng lưới các trại công tác của Civilian
Conservation Corps - Quân đoàn Bảo tồn Dân sự, ông đã
cố ý tập hợp nhiều người trong số họ trong các vùng nông
thôn đã bỏ phiếu chống ông trong kỳ bầu cử tổng thống.
Bốn năm sau, khi các cộng đồng đó đã trải nghiệm những
lợi ích của
New Deal - Thỏa thuận Mới cho chính bản
thân, thì họ ít bị cám dỗ hơn trước, khi đảng Cộng hòa
đe dọa họ về nguy cơ một đảng xã hội chủ nghĩa chiếm
chính quyền, và do vậy nhiều người đã bỏ phiếu cho đảng
Dân chủ.
Chúng ta có thể mong đợi một
đợt triển khai trên quy mô lớn các công trình cơ sở hạ
tầng xanh và cải tạo đất, tạo ra việc làm,
sẽ có được tác dụng tương tự như thế ngày nay. Một
số người vẫn sẽ tin rằng chuyện biến đổi khí hậu chỉ
là một trò lừa bịp, nhưng nếu đó là một trò lừa bịp
mà lại tạo ra được công ăn việc làm tốt và khử độc
cho môi trường, đặc biệt là ở những vùng mà đề án thay
thế để phát triển kinh tế duy nhất chỉ là một nhà tù
siêu hạng, thì có sao đâu nào?
9. Chúng ta sinh ra cho thời
điểm này đây
Cho đến nay, trở ngại lớn
nhất mà chúng ta phải đối đầu là sự vô vọng, cảm giác
rằng tất cả đã quá muộn, chúng ta đã trì hoãn quá lâu,
và chúng ta sẽ không bao giờ hoàn thành được trong một thời
gian ngắn như vậy.
Và sẽ đúng như thế thật,
nếu quá trình chuyển đổi phải bắt đầu từ số không.
Nhưng sự thật thì đã có hàng vạn người và rất nhiều
tổ chức, đã không ngừng chuẩn bị cho một bước đột
phá theo phương thức Green New Deal này rồi trong nhiều thập
kỷ qua (hoặc hàng thế kỷ qua, trong trường hợp của các
cộng đồng người bản địa đã và đang bảo vệ lối sống
truyền thống của họ). Các lực lượng này đã và đang âm
thầm xây dựng các mô hình địa phương, và thử nghiệm thực
tế các chính sách khả thi, đặt công lý làm trọng tâm trong
kế hoạch đối ứng với khí hậu của chúng ta, trong cách
bảo vệ rừng, tạo ra năng lượng có thể tái tạo, thiết
kế phương tiện giao thông công cộng và nhiều thứ khác nữa.
"Xã hội là ai chứ?"
Thủ tướng Anh lúc bấy giờ là Margaret Thatcher vào năm
1987 đã hỏi như thế, để biện minh cho những cuộc tấn
công không ngừng của bà vào các dịch vụ an sinh xã hội.
"Không có thứ gì như thế cả! Chỉ có những cá nhân phái
nam, phái nữ và gia đình mà thôi!"
Quan điểm ảm đạm đó về
nhân loại, rằng chúng ta không hơn gì một tập hợp của
những cá nhân nguyên tử và gia đình hạch nhân, không thể
cùng nhau làm được bất cứ điều gì có giá trị, ngoại
trừ việc gây ra chiến tranh; quan điểm đó đã bóp nghẹt
trí tưởng tượng của công chúng trong một thời gian rất
dài. Vì vậy mà không có gì đáng ngạc nhiên khi rất nhiều
người trong chúng ta tin rằng chúng ta không bao giờ có thể
vượt qua được thách thức khí hậu.
Nhưng hơn ba mươi năm sau lời
Margaret Thatcher, cũng rõ ràng chắc chắn như chuyện các sông
băng đang tan chảy và các tảng băng đang vỡ lìa ra, hệ tư
tưởng "thị trường tự do" đó cũng phân giải
tiêu tán dần đi. Thay vào đó, một tầm nhìn mới về những
gì nhân loại có thể trở thành đang xuất hiện. Từ đường
phố, từ trường học, từ chỗ làm việc, và thậm chí từ
bên trong các tòa nhà của chính phủ. Tầm nhìn đó nói lên
rằng tất cả chúng ta, kết hợp lại, tạo nên cấu trúc
của xã hội loài người.
Và khi tương lai sinh tồn của
cả nhân loại bị đe dọa, thì không có gì chúng ta không
thể đạt thành được.
Phạm Vũ Thịnh
dịch
02 Feb 2021
|