Lời mở đầu của người
viết: Sự hiểu biết của tôi trong bài viết này
chỉ là những hiểu biết cóp nhặt, theo chân những bậc thức
giả chuyên ngành để tìm tòi học hỏi.
Dân
ca nước ta, trong đó có môn hát chèo, được coi là
rất hay và thâm thúy lắm. Để hiểu biết và thưởng thức
được những nghệ thuật trình diễn và các làn điệu dân
ca, chúng ta cũng phải mất nhiều công sức để tìm tòi, học
hỏi.
Vai trò quan trọng trong nghệ
thuật ca vũ dân gian thường là những những diễn viên.
Họ được trui luyện bởi những kinh nghiệm trong thực tế.
Những kinh nghiệm ấy được gạn lọc, bồi đắp từ thế
hệ này truyền qua thế hệ khác để họ có thể đem những
điệu múa, điệu hát dân ca đi khắp các nơi và trường tồn
trong lòng người dân khắp miền đất nước, đặc biệt là
trong lòng những người dân quê được thể hiện qua những
ngày lễ hội, đình đám trong thôn làng. Tuy vậy mỗi địa
phương, mỗi làng, các làn điệu ca lại có sự phát triển
riêng của nó để mang những nét đặc thù, như làng Khuốc
ở Thái Bình hay ở cố đô Hoa Lư thì chú trọng nhiều về
hátchèo,
làng Lim ở Bắc Ninh thì phát triển về hát
quan họ
chẳng hạn.
Nay chúng ta thử tìm hiểu vài
nét cơ bản được giới hạn trong hát chèo.
- Về mặt lịch sử,
bà Trần Thị Trân, sinh năm 926, quê ở Hồng Châu (Hưng
Yên), có tài ca, múa và làm trò nổi tiếng. Khi vua Đinh Tiên
Hoàng vừa thống nhất đất nước, xây dựng đội quân Thập
đạo lớn mạnh lên tới chục vạn người. Vua mời bà
Trân về kinh đô để chuyên dậy biểu diễn nghệ thuật cho
quân sĩ vui chơi, giải trí.
Bà Trần Thị Trân đã cùng
nhiều nghệ sĩ dân gian khác dạy cho quân sĩ hát, múa, gẩy
đàn, đánh trống ... Lại tổng hợp các bộ môn đó để
tạo thành những vở tuồng tích đơn giản diễn tả cuộc
sống hàng ngày. Bà được vua Đinh phong cho chức Ưu Bà.
Nghệ thuật chèo phát sinh từ đó. Bà mất vào năm 976, và
được suy tôn là bà Tổ của nghề chèo.
Chèo là một trong những nghệ
thuật sân khấu cổ truyền của Việt Nam. Nó được hết
sức phổ biến trong nông thôn thuộc đồng bằng sông Hồng
và trung du miền Bắc. Vùng đất Hoa Lư là cái nôi của chèo,
và từ cái nôi ấy, dù có biết bao thăng trầm lịch sử của
đất nước, chèo vẫn không ngừng phát triển. Do đó chứng
tỏ, nó có một một chỗ đứng quan trọng trong nền văn hoá
dân gian nước ta.
Chèo là hình thức sinh hoạt
văn hóa nghệ thuật quen thuộc và phong phú từ bao đời nay
nhờ cái tính chất trữ tình, diễn tả nội tâm sâu
sắc với sự kết hợp của hàng loạt yếu tố khác như
hát,
múa, nhạc, kịch vô cùng độc đáo. Niềm đam mê chèo
của người Việt được thể hiện qua những câu thơ:
Ăn no rồi lại nằm khoèo Nghe giục trống chèo vỗ
bụng đi xem Chẳng thèm ăn chả ăn nem Thèm no cơm tẻ, thèm xem
hát chèo.
Nhắc đến chèo ở Thái Bình,
ta nhớ tới hai câu ca dao "chèo làng Khuốc", một dòng chèo
nổi tiếng và đặc biệt của làng này.
Hỡi cô thắt dải lưng xanh Có xem chèo Khuốc với anh
thì về
Nhắc đến chèo ở Nam Định,
ta nhớ tới câu thơ của thi sĩ Nguyễn Bính nói về dòng chèo
ở làng Đặng:
Bữa ấy mưa xuân phơi phới
bay Hoa xoan lớp lớp rụng vơi
đầy Hội chèo làng Đặng đi
ngang ngõ Mẹ bảo: "Thôn Đoài hát
tối nay".
Đứng về mặt nghệ thuật
sân khấu dân gian cổ mang mầu sắc văn hoá dân tộc, ngoài
chèo ra ta cũng có hát tuồng (miền Bắc và Trung) hay hát bội
(miền Nam) cũng có những câu ca dao:
Tháng năm ngày tám nằm suông, Nghe dục trống tuồng, bế
bụng đi xem.
Và:
Má ơi đừng đánh con đau, Để con hát bội làm đào
má coi.
Vào các dịp hội hè đình
đám ở nông thôn miền Bắc ít khi nào không nghe thấy tiếng
trống chèo. Chèo được trình diễn bởi những "phường chèo",
do sự kết hợp của những nghệ sĩ không chuyên nghiệp, thường
là những người ngày thường thì đi làm ruộng, lúc có "đám"
mới tụ tập nhau lại để đi hát, có khi kéo dài hàng tháng
tới khi lúa chín mới về. Những phường chèo như thế có
chừng khoảng ít ra là mươi, mười lăm người. Ông trùm
phụ trách chung, ông thơ tìm tích, đặt câu, phân vai...,
bẩy tám người làm đào, kép, lão, mụ, hề, một dàn
nhạc với vài nhạc công. Những vở tuồng chèo cổ
thường được trình diễn và mang sắc thái biểu tượng mà
người nào cũng ưa thích xem như Trương Viên, Lưu Bình, Quan
Âm, Tống Trân Cúc Hoa, Lý Công, Từ Thức, Phạm Công, Kim Nham.
. .
- Về mặt chuyên môn
Để có một vài ý niệm cơ
bản về chèo, chúng ta lưu tâm vài điểm sơ đẳng như
sau:
*/Sân
khấu chèo: Ngày xưa, các phường chèo phần lớn
đi lưu diễn tại các thôn làng chung quanh, có khi cũng xa xôi.
Phương tiện trình diễn thì rất eo hẹp, thường diễn ở
sân đình, sân chùa hay thửa đất trống trong làng, trong xóm.
Hay trên cái sân gạch của những nhà phú hộ khi có đình
đám trong nhà, họ thuê phường chèo về diễn để mua vui.
Sân khấu chỉ là ba bốn chiếc chiếu ghép liền lại với
nhau. Có một chiếc màn vải che để phân biệt sân khấu với
hậu trường. Nhạc công ngồi ngay bên cạnh. Người xem ngồi
chung quanh, rất gần với các diễn viên đang trình diễn.
*/Y phục:
Trang phục của các diễn viên trên sân khấu chèo cổ thường
giống những bộ quần áo mặc hàng ngày của những người
dân quê hay những bộ quần áo mặc trong hội hè, lễ tết.
Tuy nhiên mầu sắc có rực rỡ hơn tuỳ vai trò để phù hợp
với sân khấu. Trang phục của vai nữ có khác nhau tùy vai
đóng, được xem như một khía cạnh thể hiện từng hoàn
cảnh hay nội tâm của mỗi nhân vật. Người ta chia diễn
viên nữ thành hai nhóm: chín và lệch.
Nhóm chín hay còn gọi
là nhóm nữ thuận, những người phụ nữ tiêu biểu
cho lễ giáo phong kiến như tam tòng, tứ đức, nết na, chung
thuỷ, đảm đang ... Trang phục của nhóm này phải kín đáo
phù hợp với đức tính đoan trang, thùy mị. Thường là mặc
áo dài cặp sa, mớ ba, mớ bẩy. Những vai này như nàng Châu
Long trong tích Lưu Bình (đã đi nuôi bạn thay chồng mà vẫn
giữ được đạo vợ chồng thủy chung), như Thị Kính trong
tích Quan Âm (chịu oan khuất giết chồng), Trinh Nguyên trong
tích Tôn Mạnh-Tôn Trọng (đã tình nguyện chọn đứa con trai
ruột của mình để chết thay cho con chồng), Thị Phương trong
tích Trương Viên (18 năm vất vả, vẫn một lòng thủy chung
với chồng nơi xa, vẫn thành tâm nuôi mẹ chồng hết mực).
Nhóm lệch hay còn gọi
là nhóm nữ nghịch, những người phụ nữ có tư duy
hay hành động trái với lễ giáo, lại lẳng lơ, không theo
phép tắc Khổng Mạnh.Trang phục của nhóm này thường
là tấm áo dài tứ thân mầu sặc sỡ. Những vai này như Xuý
Vân trong tích Kim Nham (đã gỉa điên để ruồng rẫy chồng
và đi theo trai), Thị Mầu trong tích Quan Âm (đã lên chùa ghẹo
tiểu Kính, về nhà ngủ với Nô để có con, không sợ phạt
vạ của xã), Thiệt Thê trong tích Chu Mãi Thần (bỏ chồng
để làm thiếp cho người khác).
Ngoài ra trong các vai mụ, trang
phục cũng có khác như mụ giầu và mụ nghèo.
*/Nhạc
cụ: nhạc cụ gồm bộ gõ như trống đế,
trống cơm, trống ban, trống bộc, trống cái, thanh la, chuông,
cảnh, tiu, chũm chọe ... mà trống là phổ biến nhất; kèm
theo đấy cũng còn có bộ dây như nhị, hồ, nguyệt,
bầu, tam thập lục; bộ trúc hay bộ hơi như sáo, tiêu,
kèn ... Tùy theo câu truyện tuồng tích mà người ta sử dụng
nhạc cụ khác nhau cho phù hợp. Trong ba bộ kể trên, bộ gõ
là loại phổ biến nhất, đa dạng và có nguồn gốc lâu đời
nhất vì chúng là sản phẩm của nghề nông nghiệp lúa nước
mà ra. Trống tạo nên tiếng sấm, cầu đảo mưa, xin cho mưa
thuận gió hòa. Đan cử, ta hãy nghe bà Hồ Xuân Hương vịnh
cảnh chùa gồm vài nhạc cụ thuộc bộ gõ:
Khi cảnh, khi tiu,
khi chũm chọe,
Giọng hì, giọng hỉ, giọng
hi ha.
*/Âm
nhạcgắn bó với tuồng tích chèo như hình với
bóng. Nhạc không chỉ làm nền, nó còn hoà quyện với lời
ca, tiếng kể của diễn viên, hoạt cảnh. Nó thẩm thấu vào
lời thơ, khi ẩn khi hiện, khi mạnh khi yếu, khi hỉ nộ, khi
bi ai, biến hóa vô cùng để vở diễn trở nên linh động
và lột được hết cái tinh túy của tuồng tích trong suốt
buổi trình diễn.
*/Trình
diễn:
Muá chèo gồm 5 động tác chính.
Nhóm
chạy đàn, có những bước đi lúc chậm lúc nhanh, lúc
thanh thoát, lúc uyển chuyển, vui buồn, sâu lắng, mênh mông.
Nhóm
dâng hoa, tả những cảnh bồng bềnh sông nước, tâm trạng
rạng rỡ, gắn bó, duyên tình. Nhóm dâng rượu, với
những động tác nghiêm trang, kính cẩn. Nhóm cướp bông,
động tác đầy ngẫu hứng. Nhóm tấu nhạc, gồm những
tiết tấu lập đi lập lại, nhấn mạnh ... Từ năm nhóm này
làm cơ sở, múa được phối hợp với nhiều động tác hoa
mỹ mà biến hóa ra muôn hình, muôn vẻ để diễn tả được
đầy đủ những trạng thái của hoàn cảnh và tâm hồn mà
vai trò đòi hỏi.
Chèo cho ta thấy có tính
linh hoạt. Những diễn viên không nhất thiết phải tuân
thủ bài bản và diễn xuất một cách chặt chẽ. Tùy theo
hoàn cảnh nơi địa phương hay người xem thích cái gì mà
biến đổi theo cho phù hợp, như khi người nghe thích nghe hát
thì tăng phần hát, khi người xem thích hài thì phải phải
tăng phần hài lên ... Do đó mà tuồng tích đôi khi không giống
nhau và có nhiều dị bản. Người xem và người trình diễn
lại ở vị trí rất gần nhau nên những lời phê bình, khen
thưởng hay bầy tỏ ý kiến thường được diễn viên "bắt"
được rất nhanh để thay đổi cho phù hợp với sở thích
của người xem. Sự thay đổi bất ngờ này đòi hỏi những
diễn viên phải thật nhanh trí và ứng khẩu nói, hay hát một
cách linh động. Và diễn viên cũng có thể xuất thần biến
đổi cách trình diễn, cách hát để "lột" được cái tinh
túy của vở tuồng tích hay khả năng diễn xuất của mình.
Quan hệ giữa người xem và diễn viên rất khắng khít bởi
cái không gian sân khấu không lớn lắm.
Ngay cả trong phần âm nhạc
cũng vậy, các nhạc công cũng có thể uyển chuyển cho phù
hợp với nhu cầu miễn sao đoạn khởi đầu và kết cuộc
phải đúng theo quy luật mà thôi. Đoạn giữa, nhạc công
được phóng túng, tùy nghi để bộc lộ hết cái tài năng
của mình.
Chèo kết hợp hát, múa, nhạc
và kịch. Có câu "nhất cử nhất động giai điểm vũ",
tức mỗi động tác của chèo đêu mang tính múa. Múa ở đây
không mang tính chất trừu tượng, tượng trưng hay ước lệ
mà là những hình ảnh sinh hoạt, lao động của nông thôn
diễn ra hàng ngày. Ở chèo nhiều động tác tưởng chừng
như không phải là múa như đi, đứng, đổi vị trí, giao tiếp
.v.v... mà lại là múa.
Múatrong
tuồng chèo xây dựng trên cơ sở tương quan cặp đôi
giữa các bộ phận của cơ thể và động tác. Nó phải dựa
trên nguyên lý đối xứng, hài hòa vàtuân thủ
luật
âm dương một cách chặt chẽ. Đội hình múa phổ biến
là hình tròn và vuông. Khi chân này làm trụ thì
chân kia duỗi ra. Nếu phải di chuyển thì tiến về phía trước
bao nhiêu thì sẽ lùi lại phía sau bấy nhiêu. Tay phải nâng
lên cao thì tay trái phải hạ xuống thấp. Tay phải chỉ về
phía trước thì tay trái bỏ xuôi ra phía sau. Muốn chỉ tay
sang phải thì chân phải bước sang trái rồi mới day sang phải.
Ngoài ra sự hài hòa còn được tạo nên bởi sự tương phản,
chế ngự lẫn nhau. Phải có sự tương quan giữa nội tâm
và ngoại cảnh, giữa múa với hát, nghĩa là múa phải đi
sát với lời văn (chữ đâu bộ đó).
Dựa vào những nghệ thuật
lẫn kỹ thuật cơ bản, múa của chèo phải thể hiện được
cái uyển chuyển nhịp nhàng của con người. Múa chèo
hay dùng đôi tay, cánh tay, cổ tay, kể cả ngón tay để hòa
nhập với sự diễn xuất của cả toàn thân mà đặc biệt
là với đôi mắt. Có người nói không ngoa là "bàn tay chèo"
là bàn tay "biết nói", là nhụy hoa của tâm hồn, là những
gì tinh túy được bộc lộ qua nhân vật chèo. Với đôi bàn
tay khéo léo trong từng cử chỉ, trong từng động tác để
tạo nên cái "thần" của nhân vật, tạo được sự thành
công của người diễn. Diễn viên cũng hay dùng quạt, biến
hóa, sinh động khi xoay khi mở, khi xòe khi khép, khi là trang
sách, khi là đề thơ.
Mỗi vai đều có cái khó riêng
của nó. Ví dụ như vai thư sinh thì đòi hỏi diễn viên
có hình thể tương đối đẹp, khoan thai, nhẹ nhàng, dung dị.
Còn vai phản diện thì phải có nét mặt hoặc cách diễn
mang tính chất hơi đểu. Kể cả tiếng nói, ngôn ngữ và
động tác.
Tuy múa chèo có bài bản, luật
lệ nghiêm khắc nhưng sự thành công của vở chèo cũng còn
phải phụ thuộc vào nghệ thuật biểu diễn, tài năng, khả
năng linh động và ngẫu hứng của diễn viên làm múa chèo
có vẻ đẹp đa dạng, phong phú, xem không biết chán.
*/Hài
trong chèo cổ: Trong chèo thì không thể thiếu
hài. Hài được những anh hề đảm trách. Hề có hề mồi,
hề gậy ... Có những nhân vật không phải là hề nhưng với
diễn xuất của họ cũng vẫn làm người xem phải cười như
những vai thầy bói, thầy cúng. Như bên cạnh cái bi ai của
Thị Kính thì lại có Thị Mầu, Xã trưởng, mẹ Đốp làm
người xem khóc đấy rồi lại cười đấy.
[Hề
chèo thì bắt buộc phải vừa hát, vừa diễn, lại phải nhân
cách hóa, cách điệu. Hơn nữa phải biết kết hợp giữa
hát, múa, diễn cho hài hòa, mới tạo ra tính cách của một
vai hề. Xưa nay, người ta vẫn cho rằng hề chẳng qua chỉ
là vai phụ trong một vở diễn. Đó là một quan niệm sai lầm.
Hề có số phận hẳn hoi, đóng góp không nhỏ vào sự thành
công của vở diễn. Một vở diễn không có tiếng cười thì
là vở diễn kém sự thành công.
Hát hề chèo
rất khó vì phải đưa được cái hồn của hề vào. Nó có
chất vừa dí dỏm, vừa phóng khoáng, vừa mang tính chất châm
chọc, châm biếm, đả kích, dí dỏm bằng ngôn từ, hành động,
động tác, cử chỉ, điệu hát… phối kết lại. Hề chèo
chửi hay, chửi duyên dáng, chửi lịch thiệp. Đó là nhân
vật hề chèo.
"Phi hề bất
thành chèo". Để diễn được một vai cho ra chất hề là không
hề đơn giản. Người diễn viên thủ vai hề không thể thiếu
được sự sáng tạo trong từng vai diễn để đem lại cho
khán giả những tiếng cười sảng khoái trên sân khấu và
cả những nụ cười ý nhị, sâu sắc như mục đích cha ông
ta sáng tạo ra vai hề trong nghệ thuật chèo.
Vai chính
diện hoặc phản diện thì thông thường tìm dễ hơn. Nhưng
hề chèo cần có cái khiếu đặc biệt. Đào tạo ra nghệ
sỹ hề chèo thì vẫn có nhưng để theo kịp, làm được những
thứ như các cụ ngày xưa thì rất khó. Vì hề chèo đòi hỏi
nhiều yếu tố rất khắt khe.]
([ ]
Trích theo N/S Quốc Trượng)
Dường như trong chèo cổ, cái
cười ngày càng chiếm thời gian dài, càng chú ý phản ánh
những thói hư tật xấu của người đời. Ðiều đó, làm
cho tính xã hội của chèo ngày mỗi nổi đậm về sau.
Một nhân vật thật đáng yêu
về cái hồn hậu chất phát, như lão say qua cặp thơ "lục
bát". Kết hợp với hình ảnh một diễn viên râu tóc bạc
phơ, khăn quấn, áo cánh lụa điều, quần lụa mỡ gà, ống
hơi xếch, mắt hóm hỉnh, tay chống gậy trúc dài, bước bập
bỗng xiêu vẹo, chân nam đá chân chiêu, rõ ra ông già say rượu
phóng khoáng, mát tính, lấy câu "tửu lạc vong bần" (rượu
vui quên nghèo) tiêu khiển... khiến ai xem cũng cười xoà thoải
mái.
Ai ơi chơi lấy kẻo già Măng mọc quá lứa duyên
ta nhỡ thì.
Hai câu thơ được hát theo
chèo:
Chơi chơi lấy a/a/a/a/ kẻo
ối a/ối/i i già i/i i i /i i i. Này ối ai ơi chơi lấy
kẻo/ i/ già, măng mọc quá lứa duyên đôi ta nhỡ i/ới/i i/i
i i i/thì //a// nhỡ thì đôi
ta. . .
Lão say Phù thủy Hề gậy
Thông thường hề chèo được
chia ra làm hai loại:
Hề áo ngắn.
Hề mặc áo ngắn, mầu sắc,
sạch sẽ thường đi theo một thư sinh hay một ông quan gọi
là hề theo. Hề này luôn tỏ ra khôn ngoan, trí tuệ trong
những lời đối thoại. Có loại chuyên cầm gậy gọi là
hề
gậy. Có loại ra diễn xuất trước vai quan gọi là hề
cung đình. Có loại thường diễn đôi, cầm mồi lửa trong
tay để múa thay vì quạt hay gậy gọi là hề mồi.
Hề áo chùng (hay áo dài)
Loại hề này thường mặc áo
dài, hóa trang xấu xí, nhọ nhem như phù thủy, thầy bói, thầy
đồ dốt. Họ tự chế diễu mình, tự châm biếm bằng những
cử chỉ và lời nói diễu cợt để chọc cười như trong
những vở tuồng tích Phù thủy sợ ma, Thầy bói nói mò, Thầy
đồ dốt chữ.
*/Tiếng
đế: Là lời nói của người xem chen vào do ngẫu
hứng. Những lời đế thêm vào đó thấy hay quá, đúng chỗ
quá, có duyên quá nên lần diễn sau người xem lại chêm vào
câu đế đó, gọi chung là "tiếng đế". Lần lần, những
tiếng đế ấy lại trở thành một "thành phần" của vở
tuồng, không thể thiếu được. Tới đoạn diễn đó, nếu
người xem không đưa tiếng đế vào thì một người trong
phường chèo ở hậu trường cất lên thế cho người xem.
Tiếng đế trở thành vừa là lời nói của người xem mà
nó cũng vừa trở nên một phần của vở diễn.
Thí dụ như trong vở Quan Âm,
Thị Mầu đang chạy vòng vòng ve vãn chú tiểu Kính Tâm là
gái gỉa trai. Thị Mầu đã dần lượn tới gần chú tiểu
và sắp dở trò xàm xỡ thì một khán giả tinh nghịch lên
tiếng lớn: "Mầu ơi, ở nhà mày người ta bắt hết bò
rồi!". Diễn viên đóng vai Thị Mầu đã nhanh trí, đứng
lại, hai tay chống nạnh, miệng cong cớn mà rằng: "Nhà
tao còn khối trâu!". Thế là Thị Mầu tỏ được cái giầu
có của nhà phú hộ mà lại hư thân tỏ ra bất cần để
tiếp tục ve vãn chú tiểu. Tiếng đế ấy hay quá và có duyên
qúa nên cứ mỗi lần trình diễn tới đoạn ấy thì lại
chêm tiếng đế ấy vào vở tuồng.
Câu đế làm cho không khí trình
diễn trở nên uyển chuyển và linh động, có khi đang bi lại
trở thành hài, hay đang trang nghiêm lại trở thành đùa cợt.
Tiếng đế là tiếng nói của người xem, có khi chúng là những
câu hỏi khi thắc mắc, là những câu khen, câu chê, câu bỡn
đùa nghịch ngẫu hứng. Tiếng đế phát xuất từ người
xem nên đôi khi diễn viên bị thụ động, bị lâm vào thế
bị động. Diễn viên phải thật nhanh trí để hóa giải.
[Trong
vở Tôn Mạnh-Tôn Trọng có đoạn như thế này:
Thầy
bói: Ông tam đại nhà mày chết ban ngày đây. Tiếng
đế: Thác ban đêm! Thầy
bói: Ờ ờ . . . nhẽ ra thì thác ban ngày / Thương con nhớ
vợ hồn rày thác đêm!
Ngôi mộ này để ở ruộng cầy đấy. Tiếng
đế: Để trên gò chứ! Thầy
bói: Ờ ờ . . . Nhẽ ra thì để ruộng cầy/ Bỗng dưng nước
lụt khiêng ngay lên gò. Thậm chí
tiếng đế còn tranh cả vai của ông trùm-người chỉ huy đêm
diễn:
Tiếng đế:
Trong buồng trò có thầy bói nào không, cho tôi mượn một
ông nào!
Thầy bói
(cắp tráp đi ra): Thầy bói thì không có, nhưng mà giả thông
manh thì vô khối đây!] ([ ]Trích
trong Tìm về Bản Sắc Văn Hoá VN-Trần ngọc Thêm)
Do đó tiếng đế chính là
hình ảnh truyền thống dân chủ của nền văn hóa làng xã
nông nghiệp.
*/Người
cầm chầu:Khi phường chèo đi đến làng nào
trình diễn thì làng ấy thường đề cử ra một ngườicầm
chầu, thường là người vai vế
trong làng.Người này ngồi ngay
góc chiếu sân khấu để "cầm trịch" suốt buổi trình diễn
với chiếc "trống chầu". Ông là người ngồi chầu (nhìn)
để lên tiếng thưởng, phạt, khen, chê sự trình diễn của
phường chèo bằng cách gõ vào trống chầu. Ông là người
thông hiểu về tuồng tích, sành về nghệ thuật, biết nhiều
làn điệu của chèo. Đêm hát chèo sôi nổi, giòn gĩa hay tẻ
nhạt một phần cũng do người này.
Quy luật khen chê được quy
định bởi cách đánh trống. Quy ước đó được ấn định
như sau: 9 tiếng là trống dục, 1 tiếng là để điểm câu,
2 tiếng là khen vừa, 3 tiếng là khen nhiều; 1 tiếng "tịch"
(một dùi chặn, 1 dùi đánh) là chê, đánh "cắc" vào tang trống
là chê nhiều cần góp ý với ông bầu. Ông cầm chầu có
quyền đòi hỏi "bác" thơ cho thay diễn viên. Sự liên
hệ mật thiết gìữa người cầm chầu, đại diện cho người
xem và phường chèo luôn giữ được sự gần gũi và tạo
được sự cân bằng giữa người thưởng thức có trình
độ nghệ thuật cao với các diễn viên trình diễn chứ không
thể khen chê một cách bát nháo của đám đông được.
Có một câu chuyện kể:
[Tương
truyền trong tư dinh của tả tướng quân Lê Văn Duyệt diễn
vở Võ Thành Lâm. Theo tích, khi trung thần bị giặc đuổi
tới bờ sông, đang lúng túng thì có con cá chép thần nổi
lên cõng người trung thần sang sông. Ngồi trên lưng cá thần,
người kép đóng vai người trung thần xúc cảm cất tiếng
hát:
Cưỡi
ô mã qua miền hải ngạn, Cõng tiên
hoàng tỏ rạng đường non Vẩn vơ
cá lội như cò . . . Họ. . .họ. . . Ngài Lê
văn Duyệt đang cầm chầu bèn đánh "cắc" một tiếng vào
tang trống, miệng lớn tiếng gắt :" Cá chứ đâu phải ngựa
đâu mà "họ" mầy?". Người kép nhanh trí hát tiếp:
Họ. .
.họ. . . Tưởng con ô mã ai ngờ lý ngư! Ngài Lê
Văn Duyệt dù chưa hết bực nhưng cũng phải vung tay đánh
trống hiệu ban thưởng cho người kép hát thông minh.] (Trích trong
Tìm về Bản Sắc Văn Hoá VN-Trần Ngọc Thêm)
*/Thơ
trong chèo. Văn học chèo là văn học thơ
và động tác chèo là động tác thơ. Những lời hát,
những điệu múa, cho dù là múa không lời hát mà vẫn uyển
chuyển, nhịp nhàng mang đầy vẻ đẹp và giúp thăng hoa cho
ý nghĩa của "bài thơ động tác" một cách tuyệt vời. Người
đạo diễn chèo phải là người biết về luật thơ để phối
hợp nhuần nhuyễn giữa thơ và động tác để tạo thành
một vở diễn thơ.
*/Giáo
huấn, khuyến giáo trong chèo: Nội dung của tuồng
tích chèo có tích chất giáo huấn. Đề cao đức hạnh của
người phụ nữ, ca tụng tinh thần trung hiếu, cái thiện thắng
cái ác được thể hiện qua các vai "chín" hay vai thuận. Đả
phá những thói hư tật xấu, cương thường đảo lộn của
một xã hội nháo nhào được thể hiện qua các vai "lệch"
hay vai "nghịch".
Tuy nhiên những vai nữ nghịch
trong chèo, như Thị Mầu lẳng lơ, chúng ta thấy không những
không bị người xem ghét bỏ, căm giận như thường thấy
ở trong tuồng hay trong hát bội mà ngược lại
còn tỏ ra hào hứng hùa theo và yêu thích nữa. Phải chăng
đó là thái độ khoan dung hoặc đồng cảm với vai diễn trong
những hoàn cảnh nghịch lý của xã hội phong kiến ngày xưa.
*/ Vài
làn điệu chèo quen thuộc của Thái Bình
Chẳng biết từ thời nào,
hát chèo, diễn chèo, xem chèo đã ăn sâu vào con tim người
Việt Nam. Với người dân nông thôn ở châu thổ sông Hồng
thì chèo được coi như là món ăn tinh thần dường như không
thể thiếu được. Và cũng vì lý do đó, từ xưa đã thành
hình nhiều thứ chèo như chèo Đông, chèo Đoài, chèo Nam và
chèo Bắc.
Và rồi những năm tháng gần
đây có nhiều thành phố, nhiều địa phương cứ tự nhận
nơi ấy là cái nôi của ngành chèo. Thái Bình cũng khiêm nhường
và trân trọng chỉ tự nhận mình là một trong những cái
nôi chèo ấy trong cả nước mà thôi.
Những làn điệu chèo Thái
Bình mà ta thường gặp:
- Hát Vỡ Nước
- Sa Lệch Chênh. Những
lời hát nhắn nhủ tha thiết, hàm chứa lời trách móc của
người bạn tình
- Du Xuân. Điệu hát Du
Xuân thì êm dịu, uyển chuyển, êm ả và nhớ nhung man mát,
nhẹ nhàng
- Đò Đưa. Làn điệu
Đò Đưa đã phát triển tới hàng trăm lời với tình huống
tinh tế, dí dỏm nhưng vẫn khác nhau.
- Hề Đơm Đó. Là làn
điệu "Hề chèo" có lời thơ mộc mạc, than thân trách phận
nhưng cũng châm biếm và chua chát.
- Hát Cách. Là một trong
những làn điệu có tính cách tươi sáng, lạc quan, trang trọng
(như một đoạn trong vở Quan Âm).
- Quân Tử Vu Dịch. Bằng
tình cảm kín đáo, người hát như nhắn nhủ thiết tha, nhớ
nhung một cách nhẹ nhàng (như đoạn Lưu Bình nhắn nhủ Châu
Long sang nuôi Dương Lễ trong vở Lưu Bình-Dương Lễ).