Ba
Bị, Ngáo Ộp bắt nạt trẻ con
* * *
Nguyễn
Dư
|
|
Ngày
xưa có ông Ba Bị, ông Ngáo Ộp chuyên đi bắt
trẻ con. Cứ nghe tên hai ông là đám tí nhau đã sợ rồi.
Ngày
nay có thằng ông mãnh Covid-19 doạ bắt người lớn.
Không biết người lớn có sợ thằng này hay không?
Ờ
nhỉ, tại sao không lợi dụng lúc... mắc dịch, đi tìm ông
Ba Bị, ông Ngáo Ộp, nhờ hai ông đuổi bắt thằng
Covid-19,
đập cho chết nhăn răng?
Khốn
nỗi chưa biết hai ông Ba Bị, Ngáo Ộp là thần
thánh hay ma quỷ thì tìm bằng cách nào? Phải mời nhà ngoại
cảm, thỉnh bà đồng hay rước đệ tử của Thái Thượng
Lão Quân nhờ tìm giùm? May mắn có người khuyên không cần
phải vàng nhang, chiêng trống, chỉ thành tâm niệm câu thần
chú "Úm ba la, lật Tự điển ra, tra gần tra xa, cho ra
manh mối, nguồn cội các ông" là xong.
***
-
Đại Nam quốc âm tự vị (1895) của Huỳnh Tịnh Của và
Dictionnaire
Annamite - Français (1898) của J.F. Génibrel không có
hai nhân vật Ba Bị và Ngáo Ộp.
-
Việt
Nam tự điển (1931) của Hội Khai Trí Tiến Đức định
nghĩa Ba bị là giống quái lạ người ta bịa ra để
doạ trẻ con: Ba bị chín quai, mười hai con mắt. Nghĩa
bóng là tồi tàn, xấu xí: Đồ ba bị.
Ngoáo
(hay Ngáo) là Vật tưởng tượng, đặt ra để doạ trẻ
con.
-
Tự điển Việt Hoa Pháp (1937) của Gustave Hue có Ông
ba bị chín quai là một ông già đeo ba cái bị có
chín cái quai. Ông ba bị tiếng Pháp là Ogre, croquemitaine.
Ngáo
ộp (croquemitaine) là vật để dọa trẻ con. Hãi
như trẻ con trông thấy ngáo ộp. Làm ông ngáo nạt người.
Mặt
như mặt ngáo.
-
Tự
điển Việt Nam (1971) của Ban tu thư Khai Trí định nghĩa
Ba
bị là một thứ ông kẹ bịa đặt để doạ con
nít. Ba bị chín quai, ba bị y hà là một thứ ba bị.
Ngoáo
là Vật tưởng tượng đặt ra để doạ trẻ con. Ngoáo
ộp là ngoáo lớn.
Ông
Kẹ là kẻ hung dữ, đáng sợ: Mấy ông kẹ ở nhà quê.
(Ông
Kẹ, được Tự vị Huỳnh Tịnh Của giải thích:
Tưởng là ông Trị, là người có công dày với đức Cao Hoàng,
đến khi phục quấc, người ban cho một cái bài miễn tử;
bổn tánh ông ấy thật thà, hay khi bất bình, ai nấy đều
sợ, cho nên có tiếng nhát con nít rằng: ý hà ông kẹ!).
-
Từ
điển tiếng Việt (1988) của Hoàng Phê cũng định nghĩa
Ba
bị là tên gọi một người có hình thù quái dị bịa
ra để doạ trẻ con. Ba bị còn có nghĩa là Xấu xí,
tồi tàn. Thiếu nhân cách, lăng nhăng, chẳng ra gì.
Anh chàng
ba bị. Đồ ba bị.
Ngoáo
ộp là tên gọi một quái vật bịa ra để doạ trẻ con
; thường dùng để ví vật đưa ra để doạ dẫm, uy hiếp
tinh thần. Con ngoáo ộp. Lấy vũ khí hạt nhân làm
ngoáo ộp doạ mọi người.
-
Bộ tranh Oger (1908) có hai tấm Ông Ba Bị và Ngáo
Ộp doạ trẻ. Ông Ba Bị râu xồm, đeo ba cái bị
đựng trẻ con. Ông Ngáo Ộp mặt mũi méo xệch, xấu
xí.
Mấy
tài liệu kể trên cho thấy:
Ba
Bị và Ngáo Ộp xuất hiện trên giấy trắng
mực đen năm 1908. Hai nhân vật này là Vật tưởng tượng
để doạ trẻ con.
Theo
Gustave Hue thì Ba Bị nghĩa là ba cái bị. Ba Bị,
Ngáo
Ộp của tiếng Việt là Ogre, Croquemitaine của
tiếng Pháp.
(Từ
điển Robert giải thích rằng Ogre, Ogresse (giống
cái) có nguồn gốc từ tên hung thần Orcus của thần
thoại La Mã.
Trong
các truyện thần tiên, Ogre là một ông khổng lồ, mặt
mày xấu xí khủng khiếp, thích ăn thịt tươi, khoái nhậu...
thịt người).
Giải
thích của Gustave Hue mới lạ, sẽ được tìm hiểu sâu hơn
ở phần sau.
|
|
Ông Ba Bị
|
Ngáo Ộp doạ trẻ
|
***
Gấp
Tự
điển lại. Mở đống sách ra...
Ngáo
Ộp của trẻ con
Trò
chơi Ngáo Ộp doạ trẻ của Tranh Oger (1908) vẽ
một người lớn làm Ngáo Ộp doạ trẻ con.
Vào
khoảng năm 1950, trẻ con Hà Nội còn chơi trò Ngáo Ộp.
Hò hét vui nhộn. Không cần phải đuổi bắt nhau. Chỉ cần
cho mấy ngón tay vào miệng, cố kéo cho lệch sang bên phải,
méo sang bên trái. Hai ngón tay trỏ kéo vành mắt xuống. Tròng
mắt trợn ngược. Mặt mũi càng xấu càng hay. Mục đích của
trò chơi là doạ nhau. Càng sợ càng vui.
Tiếc
rằng chẳng cha mẹ nào ưa trò chơi Ngáo Ộp. Vì thiếu
vệ sinh. Người lớn sao mà khó tính thế! Có lẽ vì vậy
mà Ngáo Ộp bị chết yểu.
Sách
biên khảo về Trò chơi của trẻ con Việt Nam (1943)
của Ngô Quý Sơn không có trò chơi Ngáo Ộp.
Ba
Bị của người lớn
Người
lớn có nhiều ông Ba Bị. Mỗi ông một vẻ.
-
Ông Ba Bị của lịch sử:
Sách
Việt
Nam ngoại giao sử cận đại của Ưng Trình thuật lại
sự nghiệp của các chúa Nguyễn tại Đường trong, có đoạn:
(...)
Nguyễn Hoàng có chiến công, có tước Hạ Khê Hầu, sợ bị
ám sát như anh, theo lời dự ngôn của Nguyễn Bỉnh Khiêm:
"Hoành sơn nhất đái, vạn đại dung thân", mới nhờ chị
là Ngọc Bảo, vợ Trịnh Kiểm điều đình với chồng, cho
đi cai trị một xứ dân Chàm; thành thử, được vào Ô châu
làm Trấn thủ.
Đến
Nguyễn Phúc Hoạc là đời thứ tám, trong khoảng 170 năm, nhà
Nguyễn Phúc đã có thổ vũ từ Hoành Sơn đến Hà Tiên
: còn dân chúng là cháu chắt của những trẻ em, năm xưa (Mậu
Ngọ) ngồi trên vai mấy "ông ba bị".
Chú
thích:
-
Ba
bị : theo dã sử thì những tay hào kiệt, bị
Trịnh Kiểm nghi kỵ, đều đi theo Nguyễn Hoàng vào khai thác
Ô châu, mỗi người có mang ba cái bị trên vai,
trong hai bị, ngồi hai trẻ em, còn một bị là chứa đồ lương
thực. Đến đâu cũng nghe tiếng khóc trong bị, người ta đồn
rằng "các ông ba bị, đi bắt trẻ em". Sau người ta
doạ trẻ em thì cứ nói: ông ba bị[1].
(Năm
Mậu Ngọ là năm 1558, Nguyễn Hoàng vào làm Trấn thủ Ô châu.
Nguyễn Phúc Hoạc chính sử chép là Nguyễn Phúc Khoát (còn
có danh hiệu là Võ Vương), cai trị từ năm 1738 đến 1765).
Ba
Bị có nghĩa là ba cái bị. Ông Ba Bị có từ thời
Nguyễn Hoàng.
Dã
sử kể chuyện khá hấp dẫn nhưng chỉ nên... nghe cho vui rồi
bỏ. Khó tưởng tượng được cảnh một đoàn người, mỗi
người vai mang ba cái bị, hai cái đựng con nít, một cái chứa
lương thực... Trẻ con hơi bị nhiều. Nhiều bị quá. Ông
bố nào cũng to lớn, khỏe như Lê Phụng Hiểu ném đao của
ta hay Hạng Võ cử đỉnh của Tàu.
Dân
ta từ xưa quen gồng gánh. Gánh gạo, gánh rau, gánh hàng...
Đôi khi không còn đồ để gánh thì vui vẻ gánh con.
Chuyện
các ông Ba Bị đeo trẻ con trên vai thời Nguyễn Hoàng
khó tin.
-
Ông Ba Bị của Phật giáo:
Sách
Việt
Nam Phật giáo sử lược của Thượng toạ Mật Thể kể
chuyện Trung Đình hoà thượng:
Ngài
không biết người ở đâu, tên gì, vì thường trú ở trong
đình, nên người ta gọi tên ấy. Ngài thường đi khất thực
các làng, trong mình thường đeo ba cái bị. Một cái nếu ai
cho cá thịt gì cũng lấy bỏ vào đó rồi cho kẻ ăn xin khác
; một cái đựng món ăn chay ngài dùng ; còn một cái
lớn để không, hễ tới đâu thì ngài treo lên mái đình mà
ngồi vào. Đêm thì trì tụng, ngày thì lang thang khắp nơi,
trông hình dung nhớp nhúa, tóc xù, áo quần không có phải
đóng khố, trẻ con trông thấy đều sợ hãi (cái danh từ
"ông ba bị" để doạ trẻ con có từ thời ấy, khoảng
đời chúa Nguyễn Phúc Thuần 1765-1777).
Khi
tu hành đã đắc đạo, ngài tâu xin lập hoả đàn ở chùa
Thiên Mụ, bố cáo cho thiên hạ biết. Khi mọi người xin ngài
lưu lại cho một chút di thể, thì ngài đưa lên một ngón
tay. Khi đốt lửa bốc theo gió lệch cái mũ Quan Âm của ngài
đội do vua ban, ngài lấy tay sửa lại, miệng luôn luôn tụng
kinh. Người đi xem đông như kiến, giành nhau lấy trầm hương
liệng vào hoả đàn. Thiêu xong, quả nhiên còn một ngón tay
không cháy. Người ta nhặt tro ấy xây tháp thờ ở bên chùa
Thiên Mụ [2].
Ông
Ba Bị Trung đình hòa thượng đeo ba cái bị, có hình
dung nhớp nhúa, tóc xù,áo quần không có phải đóng khố.
Ông sống vào thời chúa Nguyễn Phúc Thuần.
-
Ông Ba Bị của văn học:
-
Sách Văn đàn bảo giám (1926) của Trần Trung Viên sưu
tầm được câu đối của một
tác giả khuyết danh[3]:
Hai
hạp, ba chủ, một lũ nhà tơ, ngồi chờ quan lớn
Ba
bị chín quai, mười hai con mắt, vào bắt trẻ con
-
Sách Tục ngữ phong dao (1928) của Nguyễn Văn Ngọc chỉ
sưu tầm được câu: Ba bị, chín quai, mười hai con mắt,
hay
bắt trẻ con. Không có câu trên [4].
-
Theo sách Thơ văn Nguyễn Công Trứ (1958) của Lê Thước,
Hoàng Ngọc Phách, Trương Chính thì Nguyễn Công Trứ là tác
giả vế trên của câu đối:
Hai
hạp ba thủ, một lũ nhà tơ ngồi chờ quan lớn
Ba
bị chín quai, mười hai con mắt, hay bắt trẻ con.
Chú
thích: Lúc làm quan, một hôm ông (Nguyễn Công Trứ) ra công
đường hơi chậm đã thấy mấy người dân và nha lại
ngồi chờ, ông tức cảnh đọc đùa câu đối này. Hạp
là chức bát phẩm thơ lại ngày xưa, cũng như đề lại. Thủ
là chức lại thuộc (cửu phẩm) làm ở các ty hồi xưa. Tơ
là Ty, sở làm việc quan hồi xưa. Nhà tơ là nhân viên
trong ty. (Vế thứ hai của câu đối) là câu ca dao
tả một người quái gở dữ tợn, người ta bịa ra để doạ
trẻ con. Câu đối này có ý mỉa mai quan trường, vế trên
tả ông quan có vẻ oai nghiêm, nhưng vế dưới thì tả một
người tham lam (nhiều bị) lại hay lừa dối đòi bắt
nạt kẻ non yếu [5].
Nguyễn
Công Trứ đối lại
câu ca dao "Ba bị chín quai, mười
hai con mắt, hay bắt trẻ con". Ông Ba Bị có từ
thời Nguyễn Công Trứ.
Ba Bị là ba cái bị (nhiều bị).
Nguyễn
Công Trứ là một ông quan lớn, hàng ngày sai bảo đám nhân
viên dưới quyền, làm việc trong ty. Đồng thời, Nguyễn Công
Trứ còn là tác giả của nhiều bài ca trù nổi tiếng. Ông
thích nghe nhà tơ hát. Ông thừa biết rằng nhà tơ
không
phải là
nhân viên trong ty.
Giải
thích rằng "Tơ là ty, là sở làm việc quan hồi
xưa. Nhà tơ là nhân viên trong ty" là không đúng.
Nói
tóm lại, Nhà tơ có nghĩa là... nhà tơ, con hát. Câu
đối (được gán cho Nguyễn Công Trứ) không có ý mỉa mai
quan trường tham lam, bắt nạt kẻ non yếu.
(Trần
Trung Viên không nói Nguyễn Công Trứ là tác giả câu đối).
Còn
một giai thoại khác cũng liên can đến Nguyễn Công Trứ:
Trong
bữa tiệc có tổ chức
ca trù mừng chiến thắng dẹp
được cuộc nổi dậy của Phan Bá Vành, Nguyễn Công Trứ
có nói một câu được mọi người tán thưởng là: Ông
Ba Vành là anh ông Bảy cạp, Ông Bảy cạp lại đạp
ông Ba Vành.
Câu
nói được lưu hành đến nay ở Thái Bình.
Ba
Vành là Phan Bá Vành. Nguyễn Công Trứ tự ví mình là Bảy
Cạp. Thúng bảy cạp chắc hơn thúng ba vành [6].
Ba
Vành bảy cạp, ba bị chín quai, ba đầu sáu tay, ba hồn chín
vía... trẻ con vừa sợ vừa thích là phải.
-
Ông Ba Bị của dân gian:
Tranh
Oger vẽ Ông Ba Bị râu xồm, xấu xí, trán có nhiều
nếp nhăn, quần áo tươm tất, vai đeo ba cái bị. Mỗi
bị đựng một, hai đứa bé con.
***
Rốt
cuộc, câu hỏi ông Ba Bị là ai, từ đâu ra vẫn chưa
được trả lời.
Theo
Gustave Hue thì Ba Bị là Ogre, Croquemitaine.
Ngáo
Ộp cũng là Croquemitaine. Như vậy thì có thể suy
ra rằng Ba Bị có họ hàng với
Ngáo Ộp! Muốn
biết thực hư ra sao có lẽ chỉ còn nước đi hỏi ông tổ
của Ogre, Croquemitaine.
Charles
Perrault (1628-1703) là nhà văn, viện sĩ Viện Hàn Lâm Pháp.
Ông viết nhiều truyện thần tiên nổi tiếng như Thằng
bé tí hon (Le Petit Poucet), Yêu râu xanh (Barbe-Bleue),
Cô
bé quàng khăn đỏ (Le Petit Chaperon rouge) v.v..
Thằng
bé tí hon (Le Petit Poucet):
Ngày
xưa có một cặp vợ chồng tiều phu sinh được bảy đứa
con trai. Thằng út lúc đẻ ra bé tí tẹo, nhỏ như ngón tay.
Lớn lên, tuy thân hình chỉ bằng nửa các anh nhưng nó lại
là đứa thông minh, tháo vát nhất.
Gia
đình bác tiều phu rất nghèo, sống chật vật qua ngày. Gặp
năm đói kém, người cha đành phải đem bầy con bỏ rơi trong
rừng. Thằng bé tí hon phải lần mò, dẫn dắt mấy anh em,
tình cờ đến được nhà một cặp vợ chồng ogre, có
bảy đứa con gái. Gã
ogre này thích ăn thịt tươi, mỗi
bữa nhâm nhi một hai con cừu, con heo. Đánh hơi thấy mùi anh
em thằng bé tí hon, hắn muốn nhậu liền. Mụ vợ khuyên chồng
hãy ăn cho hết con bê, hai con cừu, nửa con heo đang có sẵn.
Ngày mai hãy ăn mấy đứa bé.
Nửa
đêm, thằng bé tí hon dùng mưu làm cho gã khổng lồ giết
nhầm bảy đứa con gái của mình. Cả bọn trốn thoát. Gã
ogre
tức giận dùng
đôi hia bảy dặm đuổi theo. Nhân lúc
gã mệt, ngủ thiếp đi, thằng bé tí hon lấy được đôi
hia bảy dặm. Sau khi chỉ đường cho các anh về nhà bố mẹ,
nó trở lại nhà ogre, lừa mụ vợ, cuỗm hết tiền
của.
Nhờ
có đôi hia bảy dặm, thằng bé tí hon được tuyển làm người
đưa tin đánh giặc cho nhà vua. Được vua ban thưởng rất
hậu.
Thằng
bé tí hon giàu có, ôm tiền bạc trở về sống bên cha mẹ
và các anh.
Yêu
Râu-Xanh (Barbe-Bleue)
Ngày
xưa có một đại gia giàu nứt đố đổ vách. Nào là biệt
thự, lâu đài. Nào là chén bát bằng vàng bạc... Nhưng, không
may bộ râu của đại gia lại xanh lè, làm cho gương mặt xấu
khủng khiếp. Đàn bà con gái ai trông thấy cũng phải bỏ
chạy.
Có
bà hàng xóm có hai cô con gái chân dài xinh đẹp. Đại gia
Râu-Xanh
muốn
xin cưới một cô. Chẳng cô nào chịu. Nhất là lại nghe nói
Râu-Xanh
có nhiều đời vợ, chẳng biết số phận ra sao.
Râu-Xanh
liền mời mẹ con bà hàng xóm tham dự tiệc tùng, vui chơi,
săn bắn, câu cá, kéo dài suốt tám ngày. Cô em thấy Râu-Xanh
cũng hiền lành, dễ thương. Cô bằng lòng lên xe hoa.
Một
hôm Râu-Xanh có việc phải đi xa độ một tuần, dặn
vợ ở nhà muốn làm gì thì làm, tha hồ mời họ hàng, bạn
bè. Nhưng cấm không được vào một căn phòng.
Cô
vợ tò mò. Mở cửa vào phòng. Thấy một dãy xác đàn bà
treo trên tường. Cô bủn rủn chân tay, đánh rơi chiếc chìa
khoá xuống sàn nhà bê bết máu. Mấy vết máu như có phép
lạ, bám vào chiếc chìa khoá, lau không sạch.
Trên
đường đi, Râu-Xanh được tin công việc đã thu xếp
xong, bèn quay trở về. Sáng hôm sau, hắn đòi vợ đưa trả
chìa khoá. Biết vợ đã khám phá ra điều bí mật của căn
phòng, hắn quyết định giết cô.
May
thay cô vợ được hai người anh là lính ngự lâm đến thăm
đúng lúc sắp bị giết.Hai người anh kịp xông vào đâm chết
Râu-Xanh.
Cô
vợ được hưởng gia tài kếch xù của Râu-Xanh. Cô
chia một phần giúp chị đi lấy chồng, một phần giúp hai
anh mua chức cao hơn. Phần còn lại cô tự lo cho mình... đi
lấy chồng khác.
Truyện
Thằng
bé tí hon (Le Petit Poucet), Yêu Râu-Xanh (Barbe-Bleue)
của Charles Perrault được đưa vào Việt Nam khoảng cuối thế
kỉ 19 hay đầu thế kỉ 20. Ogre được Việt hoá thành
Ộp.
Barbe-Bleue
được Việt hoá thành Ba-Bị.
Ộp
thích
ăn thịt trẻ con. Ộp (hay Ngáo Ộp) được dùng
để doạ trẻ con.
Ba-Bị
xấu xí, thích bắt gái đẹp.
Câu
ca dao "Ba bị chín quai, mười hai con mắt, hay bắt trẻ con"
mới có từ khoảng đầu thế kỉ 20. Sau thời Nguyễn Công
Trứ, Nguyễn Phúc Thuần, Nguyễn Hoàng.
Ta
lẫn lộn hai con yêu tinh của Perrault. Cho Ba-Bị đi bắt
cả trẻ con. Đáng tiếc hơn cả là tên Ba-Bị bị hiểu
sai thành ba cái bị. Sai một li bằng đi... hia bảy dặm!
Ba
cái bị đã đẻ ra nhiều giai thoại. Chỉ khổ cho mấy
nhân vật lịch sử bị
ba cái bị quấy rầy.
Tìm
ra được Ba-Bị,
Ngáo Ộp. Nhờ hai ông đập chết
thằng Covid-19. Muốn biết kết quả ra sao, xin đón đọc
hồi sau...
Nguyễn
Dư
(Lyon, 5/2021)
[1]-
Ưng Trình, Việt Nam ngoại giao sử cận đại, Văn Đàn,
1970, tr. 11.
[2]-
Mật Thể, Việt Nam Phật giáo sử lược, Minh Đức tái
bản, 1960, tr. 208.
[3]-
Trần Trung Viên, Văn đàn bảo giám, Mặc Lâm tái bản,
1968, quyển IV, tr. 198.
[4]-
Nguyễn Văn Ngọc, Tục ngữ phong dao, Mặc Lâm tái bản,
1967, tr. 39.
[5]-
Lê Thước, Hoàng Ngọc Phách, Trương Chính, Thơ văn Nguyễn
Công Trứ, Văn Hoá, 1958, tr. 91-92.
[6]-
Vũ Ngọc Khánh, Nguyễn Công Trứ, Văn Hoá, 1983, tr. 117.
Gánh con
ngoài Bắc
Gánh con
trong Nam
|