Ngày nay có thằng ông mãnh Covid-19 doạ bắt người lớn. Không biết người lớn có sợ thằng này hay không? Ờ nhỉ, tại sao không lợi dụng lúc... mắc dịch, đi tìm ông Ba Bị, ông Ngáo Ộp, nhờ hai ông đuổi bắt thằng Covid-19, đập cho chết nhăn răng? Khốn nỗi chưa biết hai ông Ba Bị, Ngáo Ộp là thần thánh hay ma quỷ thì tìm bằng cách nào? Phải mời nhà ngoại cảm, thỉnh bà đồng hay rước đệ tử của Thái Thượng Lão Quân nhờ tìm giùm? May mắn có người khuyên không cần phải vàng nhang, chiêng trống, chỉ thành tâm niệm câu thần chú "Úm ba la, lật Tự điển ra, tra gần tra xa, cho ra manh mối, nguồn cội các ông" là xong. *** -
Đại Nam quốc âm tự vị (1895) của Huỳnh Tịnh Của và
Dictionnaire
Annamite - Français (1898) của J.F. Génibrel không có
hai nhân vật Ba Bị và Ngáo Ộp.
*** Ngáo Ộp của trẻ con Trò chơi Ngáo Ộp doạ trẻ của Tranh Oger (1908) vẽ một người lớn làm Ngáo Ộp doạ trẻ con. Vào khoảng năm 1950, trẻ con Hà Nội còn chơi trò Ngáo Ộp. Hò hét vui nhộn. Không cần phải đuổi bắt nhau. Chỉ cần cho mấy ngón tay vào miệng, cố kéo cho lệch sang bên phải, méo sang bên trái. Hai ngón tay trỏ kéo vành mắt xuống. Tròng mắt trợn ngược. Mặt mũi càng xấu càng hay. Mục đích của trò chơi là doạ nhau. Càng sợ càng vui. Tiếc rằng chẳng cha mẹ nào ưa trò chơi Ngáo Ộp. Vì thiếu vệ sinh. Người lớn sao mà khó tính thế! Có lẽ vì vậy mà Ngáo Ộp bị chết yểu. Sách biên khảo về Trò chơi của trẻ con Việt Nam (1943) của Ngô Quý Sơn không có trò chơi Ngáo Ộp. Ba Bị của người lớn Người lớn có nhiều ông Ba Bị. Mỗi ông một vẻ. - Ông Ba Bị của lịch sử: Sách Việt Nam ngoại giao sử cận đại của Ưng Trình thuật lại sự nghiệp của các chúa Nguyễn tại Đường trong, có đoạn: (...) Nguyễn Hoàng có chiến công, có tước Hạ Khê Hầu, sợ bị ám sát như anh, theo lời dự ngôn của Nguyễn Bỉnh Khiêm: "Hoành sơn nhất đái, vạn đại dung thân", mới nhờ chị là Ngọc Bảo, vợ Trịnh Kiểm điều đình với chồng, cho đi cai trị một xứ dân Chàm; thành thử, được vào Ô châu làm Trấn thủ. Đến Nguyễn Phúc Hoạc là đời thứ tám, trong khoảng 170 năm, nhà Nguyễn Phúc đã có thổ vũ từ Hoành Sơn đến Hà Tiên : còn dân chúng là cháu chắt của những trẻ em, năm xưa (Mậu Ngọ) ngồi trên vai mấy "ông ba bị". Chú thích: - Ba bị : theo dã sử thì những tay hào kiệt, bị Trịnh Kiểm nghi kỵ, đều đi theo Nguyễn Hoàng vào khai thác Ô châu, mỗi người có mang ba cái bị trên vai, trong hai bị, ngồi hai trẻ em, còn một bị là chứa đồ lương thực. Đến đâu cũng nghe tiếng khóc trong bị, người ta đồn rằng "các ông ba bị, đi bắt trẻ em". Sau người ta doạ trẻ em thì cứ nói: ông ba bị[1]. (Năm Mậu Ngọ là năm 1558, Nguyễn Hoàng vào làm Trấn thủ Ô châu. Nguyễn Phúc Hoạc chính sử chép là Nguyễn Phúc Khoát (còn có danh hiệu là Võ Vương), cai trị từ năm 1738 đến 1765). Ba Bị có nghĩa là ba cái bị. Ông Ba Bị có từ thời Nguyễn Hoàng. Dã sử kể chuyện khá hấp dẫn nhưng chỉ nên... nghe cho vui rồi bỏ. Khó tưởng tượng được cảnh một đoàn người, mỗi người vai mang ba cái bị, hai cái đựng con nít, một cái chứa lương thực... Trẻ con hơi bị nhiều. Nhiều bị quá. Ông bố nào cũng to lớn, khỏe như Lê Phụng Hiểu ném đao của ta hay Hạng Võ cử đỉnh của Tàu. Dân ta từ xưa quen gồng gánh. Gánh gạo, gánh rau, gánh hàng... Đôi khi không còn đồ để gánh thì vui vẻ gánh con. Chuyện các ông Ba Bị đeo trẻ con trên vai thời Nguyễn Hoàng khó tin. - Ông Ba Bị của Phật giáo: Sách Việt Nam Phật giáo sử lược của Thượng toạ Mật Thể kể chuyện Trung Đình hoà thượng: Ngài không biết người ở đâu, tên gì, vì thường trú ở trong đình, nên người ta gọi tên ấy. Ngài thường đi khất thực các làng, trong mình thường đeo ba cái bị. Một cái nếu ai cho cá thịt gì cũng lấy bỏ vào đó rồi cho kẻ ăn xin khác ; một cái đựng món ăn chay ngài dùng ; còn một cái lớn để không, hễ tới đâu thì ngài treo lên mái đình mà ngồi vào. Đêm thì trì tụng, ngày thì lang thang khắp nơi, trông hình dung nhớp nhúa, tóc xù, áo quần không có phải đóng khố, trẻ con trông thấy đều sợ hãi (cái danh từ "ông ba bị" để doạ trẻ con có từ thời ấy, khoảng đời chúa Nguyễn Phúc Thuần 1765-1777). Khi tu hành đã đắc đạo, ngài tâu xin lập hoả đàn ở chùa Thiên Mụ, bố cáo cho thiên hạ biết. Khi mọi người xin ngài lưu lại cho một chút di thể, thì ngài đưa lên một ngón tay. Khi đốt lửa bốc theo gió lệch cái mũ Quan Âm của ngài đội do vua ban, ngài lấy tay sửa lại, miệng luôn luôn tụng kinh. Người đi xem đông như kiến, giành nhau lấy trầm hương liệng vào hoả đàn. Thiêu xong, quả nhiên còn một ngón tay không cháy. Người ta nhặt tro ấy xây tháp thờ ở bên chùa Thiên Mụ [2]. Ông Ba Bị Trung đình hòa thượng đeo ba cái bị, có hình dung nhớp nhúa, tóc xù,áo quần không có phải đóng khố. Ông sống vào thời chúa Nguyễn Phúc Thuần. - Ông Ba Bị của văn học: - Sách Văn đàn bảo giám (1926) của Trần Trung Viên sưu tầm được câu đối của một tác giả khuyết danh[3]: Hai hạp, ba chủ, một lũ nhà tơ, ngồi chờ quan lớn Ba bị chín quai, mười hai con mắt, vào bắt trẻ con - Sách Tục ngữ phong dao (1928) của Nguyễn Văn Ngọc chỉ sưu tầm được câu: Ba bị, chín quai, mười hai con mắt, hay bắt trẻ con. Không có câu trên [4]. - Theo sách Thơ văn Nguyễn Công Trứ (1958) của Lê Thước, Hoàng Ngọc Phách, Trương Chính thì Nguyễn Công Trứ là tác giả vế trên của câu đối: Hai hạp ba thủ, một lũ nhà tơ ngồi chờ quan lớn Ba bị chín quai, mười hai con mắt, hay bắt trẻ con. Chú thích: Lúc làm quan, một hôm ông (Nguyễn Công Trứ) ra công đường hơi chậm đã thấy mấy người dân và nha lại ngồi chờ, ông tức cảnh đọc đùa câu đối này. Hạp là chức bát phẩm thơ lại ngày xưa, cũng như đề lại. Thủ là chức lại thuộc (cửu phẩm) làm ở các ty hồi xưa. Tơ là Ty, sở làm việc quan hồi xưa. Nhà tơ là nhân viên trong ty. (Vế thứ hai của câu đối) là câu ca dao tả một người quái gở dữ tợn, người ta bịa ra để doạ trẻ con. Câu đối này có ý mỉa mai quan trường, vế trên tả ông quan có vẻ oai nghiêm, nhưng vế dưới thì tả một người tham lam (nhiều bị) lại hay lừa dối đòi bắt nạt kẻ non yếu [5]. Nguyễn Công Trứ đối lại câu ca dao "Ba bị chín quai, mười hai con mắt, hay bắt trẻ con". Ông Ba Bị có từ thời Nguyễn Công Trứ. Ba Bị là ba cái bị (nhiều bị). Nguyễn Công Trứ là một ông quan lớn, hàng ngày sai bảo đám nhân viên dưới quyền, làm việc trong ty. Đồng thời, Nguyễn Công Trứ còn là tác giả của nhiều bài ca trù nổi tiếng. Ông thích nghe nhà tơ hát. Ông thừa biết rằng nhà tơ không phải là nhân viên trong ty. Giải thích rằng "Tơ là ty, là sở làm việc quan hồi xưa. Nhà tơ là nhân viên trong ty" là không đúng. Nói tóm lại, Nhà tơ có nghĩa là... nhà tơ, con hát. Câu đối (được gán cho Nguyễn Công Trứ) không có ý mỉa mai quan trường tham lam, bắt nạt kẻ non yếu. (Trần Trung Viên không nói Nguyễn Công Trứ là tác giả câu đối). Còn một giai thoại khác cũng liên can đến Nguyễn Công Trứ: Trong bữa tiệc có tổ chức ca trù mừng chiến thắng dẹp được cuộc nổi dậy của Phan Bá Vành, Nguyễn Công Trứ có nói một câu được mọi người tán thưởng là: Ông Ba Vành là anh ông Bảy cạp, Ông Bảy cạp lại đạp ông Ba Vành. Câu nói được lưu hành đến nay ở Thái Bình. Ba Vành là Phan Bá Vành. Nguyễn Công Trứ tự ví mình là Bảy Cạp. Thúng bảy cạp chắc hơn thúng ba vành [6]. Ba Vành bảy cạp, ba bị chín quai, ba đầu sáu tay, ba hồn chín vía... trẻ con vừa sợ vừa thích là phải. - Ông Ba Bị của dân gian: Tranh Oger vẽ Ông Ba Bị râu xồm, xấu xí, trán có nhiều nếp nhăn, quần áo tươm tất, vai đeo ba cái bị. Mỗi bị đựng một, hai đứa bé con. *** Rốt
cuộc, câu hỏi ông Ba Bị là ai, từ đâu ra vẫn chưa
được trả lời.
[1]- Ưng Trình, Việt Nam ngoại giao sử cận đại, Văn Đàn, 1970, tr. 11. [2]- Mật Thể, Việt Nam Phật giáo sử lược, Minh Đức tái bản, 1960, tr. 208. [3]- Trần Trung Viên, Văn đàn bảo giám, Mặc Lâm tái bản, 1968, quyển IV, tr. 198. [4]- Nguyễn Văn Ngọc, Tục ngữ phong dao, Mặc Lâm tái bản, 1967, tr. 39. [5]- Lê Thước, Hoàng Ngọc Phách, Trương Chính, Thơ văn Nguyễn Công Trứ, Văn Hoá, 1958, tr. 91-92. [6]- Vũ Ngọc Khánh, Nguyễn Công Trứ, Văn Hoá, 1983, tr. 117. Gánh con ngoài Bắc Gánh con trong Nam |