Minh họa
LTG - Trong kỷ
nguyên lịch sử của loài người, sau khi biết khám phá ra
được giá trị mầu nhiệm của lửa thiêng và có ý thức
vĩnh hằng về sự chết, thì đến phiên Đức Phật đã sáng
suốt thần thông tìm ra chân lý vĩnh cữu để hướng dẫn
đời sống con người đi ra khỏi bóng tối đường hầm ở
địa ngục. Học thuyết Tứ-Diệu-Đế do đó trở thành một
kho tàng văn hóa của muôn loài, vừa
làm bức thành trì kiên cố cho nền tảng phát huy cách mạng
đại qui mô về tâm linh, trí tuệ của con người về sau trên
mặt đất.
Chúng sinh là Phật sẽ
thành
Từ
lâu, trong góc nhìn chung về sự lịch sử tiến hóa của con
người thì các nhà nghiên cứu sử học thường hay lý giải
theo nhận thức của mình trong lãnh vực chuyên môn. Và họ
nhất đán cho rằng ngoài những phát minh khoa học, kỹ thuật,
thì còn phải kể đến công cuộc chuyển hóa quan trọng về
mặt tâm linh do sự xuất hiện của tín ngưỡng tôn giáo trong
cộng đồng nhân loại. Và tùy theo triết lý nồng cốt của
từng tôn giáo mà người ta có thể để tin theo, nếu cho là
phù hợp với quan niệm suy tư của mình trong mục đích muốn
truy tìm đường về hạnh phúc ở cõi đời.
Vả lại, hiện nay trong đời
sống cực đại văn minh của con người không phân chia biên
cương chủng tộc thì người ta đều có quyền tự do hành
sử tinh thần trí tuệ thông minh của mình, để một khi muốn
truy tìm chứng từ về những nguyên nhân đưa đến khổ đau
hay hạnh phúc thường xảy ra hằng ngày cho chính họ. Tuy nhiên,
trong những công trình dày công nghiên cứu đạt thành khả
năng hiệu quả, thì hầu hết mọi người đều biết rằng
mình chỉ là những kẻ hiểu biết muộn màng trước khối
óc thần thông của một vị minh vương đã từng dày công
ứng nghiệm, khám phá ra về chân lý kỳ diệu có giá trị
vĩnh hằng từ hơn hai ngàn năm trăm năm về trước.
Do vậy, cho nên sự kiện bây
giờ đã có một số quốc gia trên toàn châu lục ngày nay,
hằng năm luân phiên nhau tổ chức lễ kỷ niệm ngày trọng
đại "Vesak"* mừng Đức Phật giáng
trần là một ý nghĩa nhằm vào mục đích suy tôn tính ưu
việt xúc tác tinh thần vô cùng quan trọng của đạo Phật
đối với đời sống cá nhân, tập thể của con người qua
những mối dây liên hệ buộc ràng hiện hữu trong cộng đồng
nhân loại.
Thực vậy, đi trước mọi
biến thiên về lịch sử của tôn giáo trên quả địa cầu,
và hiện vẫn còn tiếp tục duy trì ảnh hưởng sâu đậm
trong đời sống tinh thần trong cộng đồng xã hội con người
hằng ngày. Người ta có thể nói rằng, khởi thủy nhân duyên
do yếu tố hoàn cảnh địa lý đặc biệt, rơi đúng vào thời
điểm không gian, mà đạo Phật như đã bắt đầu báo hiệu
mở màn, khai sinh ra một hiện tượng chuyển hóa tâm linh vô
tiền khoáng hậu trong kỷ nguyên lịch sử loài người bằng
sự ra đời của Đức Phật.
Hiện tượng đó dần dần
đã chính thức được tìm thấy bằng hình ảnh thực tế
rõ ràng của một vị Vua uy quyền tuyệt đối. Một vị minh
quân chọn lấy quyết định từ bỏ ngai vàng điện ngọc
của mình, để ẩn dật vào nơi thâm sơn cùng cốc nhằm mục
đích xả thân cầu đạo, để nguyện cứu độ và giải thoát
cho hết thảy chúng sinh.
Về sau, với học thuyết "Tứ-Diệu-Đế"
sau khi đắc đạo, và trải qua bốn mươi lăm năm hành đạo,
giáo lý Thích-Ca đã làm tốt được cá tính con người chứng
nghiệm bằng phương pháp tu tập. Hiện tại, người ta có
thể nói quả quyết không sai, là chính nhờ vào bản tính
hiền từ, nhân hậu mà đạo Phật đã đem đến niềm Vui
cho người đời và mọi nhà tìm thấy con đường cái quan
hạnh phúc.
Cũng trên căn bản của một
thứ tình thương bao la, tuyệt nhiên không bao giờ có sự hận
thù và kỳ thị, cuộc truyền bá tư tưởng của đạo Phật
đã thành công, được đánh giá coi như là có rất nhiều
hậu quả thuận lợi. Nó không những không làm đổ giọt
máu nào của con người mà còn có thêm cơ vận hội, để
hễ mỗi khi bành trướng giáo lý đến đâu, thì cũng gồm
thu trọn vẹn được nhân tâm trong cái thế bất chiến tự
nhiên thành.
Bàn về cuộc cách mạng tâm
linh ôn hòa, tinh diệu đó, các sử gia Tây-phương thường
lấy mô hình thực thể trong triết lý mang sắc thái độc
đáo của tính chất hiếu hòa, bất bạo động của đạo
Phật, để viện dẫn cho nền văn minh tinh thần được phát
huy mạnh mẽ ở phương Đông.
Và nếu đem so với những nhà
hiền triết về vật lý, thông thái của Hy-Lạp tự cổ thời
như Aristote, Platon, Socrate, thì Đức Phật (Sakyamuni) trước
đó cả thế hệ cũng đã là một nhà triết học, thông thái.
Chính Ngài là người đầu tiên đã khám phá ra được những
nguyên tắc căn bản về ý nghĩa cuộc sống của Con Người,
mà ngay đến cả môn khoa học thực nghiệm hiện nay cũng phải
chấp nhận, chứng minh cho cái nền tảng của học thuyết
cao siêu đó, không đi ra ngoài khái niệm và nguyên tắc căn
bản của vật lý, như trường hợp của lý thuyết "Nhân-Quả"
là một trường hợp điển hình.
Cùng với thuyết "Vô-Thường",
đạo Phật có sức bành trướng rộng rãi và đã được sự
đón nhận kỳ diệu của dân gian chào mừng một cuộc cách
mạng tâm linh có tác dụng chuyển hóa tinh thần, tư tưởng.
Với ý nghĩa sáng đạo tốt đời, đạo Phật thủy chung có
mặt bên cạnh người giàu sang, kẻ khốn cùng và lúc nào
cũng luôn luôn nhắc nhở là họ đang tham gia hưởng ứng lời
kêu gọi đi tìm sinh lộ giải thoát cho chính bản thân mình.
Và ngay trong công đức tu luyện đó, họ cũng sẽ làm được
mọi điều phúc lợi khác hơn với tinh thần vô ngã vị tha,
qua biểu tượng của mọi hành động xuất phát từ ở tấm
lòng bao dung, xả kỷ.
Tuy nhiên, nhìn vào sự phát
triển của đạo Phật cho đến cho đến ngày hôm nay (nói
chung) sau khi trải qua bao giai đoạn thăng trầm, hưng phế
thì người ta đều nhận thấy rõ ràng là bất chấp sự thử
thách của thời gian, cái cốt lõi trong thực chất của nguồn
cội Bồ-Đề lúc nào cũng lại là sự thanh tịnh. Chính sự
thanh tịnh là một câu trả lời xác định để giải quyết
cho mọi vấn đề. Còn về phần tích cực hơn, thì ảnh hưởng
tan biến, thấm nhuần của đạo Phật vẫn như một luồng
gió mới thổi vào không gian trí tuệ của chúng sinh, làm thức
tỉnh những cơn ác mộng bàng hoàng của con người, để kịp
thời nhìn lại chân tướng của vạn vật, biết phân biệt
điều hay lẽ phải, biết bênh vực và bảo vệ người hiền
từ không may, vô phước.
Chính cuộc cách mạng tâm linh,
huyền diệu, âm thầm không giới tuyến nầy, từ lâu đã
làm phản ảnh được bằng sự sùng kính, thiết tha của con
người vốn yêu chuộng tự do, công bằng, nhân ái, không đứng
bên lề của trật tự kỷ cương xã hội. Nhờ vậy mà lòng
trắc ẩn của ý nghĩa Từ-Bi, lúc nào cũng là trọng tâm đạo
đức trong hàng quốc sách của các nhà cai trị quốc gia, coi
như là bài toán đầu tiên của phương thuốc chữa trị về
an sinh xã hội, hầu làm giảm thiểu được nhiều bất công,
đau khổ.
Trong lịch sử hoằng pháp lợi
sanh của đạo Phật cũng có lắm khi gặp phải nhiều trở
ngại, vì không hiếm người đời nông cạn hiểu lầm về
ý nghĩa cuộc sống tu hành, phục tùng theo giới luật. Thực
ra, hình ảnh của một vị Tu-sĩ thoát tục đêm ngày tụng
niệm, khấn đức, cầu an cho bá tánh thập phương ở trong
chùa. Hay như hình ảnh của một vị Cư-sĩ khả kính thuận
duyên tu tập, triệt để thi hành theo lời răn dạy, thì ngoài
mục đích đi tìm chân lý giải thoát cho mình, các vị đó
lại còn thể hiện ra được ý nghĩa của tinh thần đại
hùng lực khi quyết định dấn thân bảo vệ móng nền đạo
pháp.
Hành động cao quý đó chẳng
khác nào nguyện ước ra đi bảo vệ non sông của những con
người chiến sĩ hiên ngang, hi sinh lao thẳng vào trận mạc,
đắp lũy xây thành để giữ vững cho quê hương được độc
lập, tự do và đồng bào mình được vui sống yên lành, hạnh
phúc.
Tuy nhiên, chừng ấy những
sự kiện đó vẫn chưa làm nổi bật được hình ảnh của
những con người ngoan đạo, trung thành theo lời Phật dạy,
là tùy duyên tận tụy hầu hạ đấng sinh thành, một vai cõng
cha, một tay đỡ mẹ, sớm hôm săn sóc tại nhà. Phải hiểu
được như vậy thì mới thấy tác dụng của đạo Phật,
là nhằm vào mục đích cố gắng hướng dẫn con người đi
lần tới một nền luân lý nhân tính phù hợp với luật tự
nhiên trong trời đất.
Trong trường hợp khác, ảnh
hưởng của đạo Phật làm chuyển hóa được tính tình của
một con người biết phục thiện không phải vì sự cám dỗ,
mua chuộc. Vì nói cho đúng hơn, mọi hành động của Tăng-đoàn
truyền bá chánh pháp đi rắc gieo hột giống Bồ-Đề của
đạo Phật tuyệt nhiên không hề có mang tính chất đấu tranh,
để đòi hỏi đối phương phải dừng gươm xuống ngựa bao
giờ. Nhưng bởi vì cái triết lý cao siêu, hướng thượng,
mà thực tế từ trong bản chất tinh thần của đạo Phật
tự nó có nhiều khả năng lôi cuốn được con số đông người,
nên họ dễ dàng chấp nhận như là một sự tự nhiên, nhẹ
nhàng, cảm khái.
Chính vì vậy mà người ta
chỉ tìm thấy được rõ ràng cái giá trị ưu việt của đạo
Phật trải dài ra dưới hình thức của chiều sâu hơn là
chiều rộng. Hơn thế nữa, cũng như qua bao nhiêu kinh điển,
giáo lý Thích-Ca để lại cho đời sau sưu tầm từ học thuyết
cách mạng tinh thần sang đến phương thức dấn thân hành
động.
Thủy chung, đạo Phật lúc
nào cũng chứng minh được ước muốn "Sống Chung Hòa-Bình"
giữa người và người, giữa quốc gia nầy và quốc gia nọ
trong cộng đồng quốc tế, mà trong đó, mọi cuộc tranh chấp
về bất cứ nguyên nhân nào cũng có thể dùng đến một loại
vũ khí căn bản duy nhất để giải quyết: đó là Tình Thương.
Trở lại vấn đề Đức Phật
sáng suốt đã dứt khoát từ bỏ lập trường chánh trị nước
nhà để hiến mình vào thiên chức phục vụ văn hóa, nhân
sinh trong cộng đồng nhân loại. Ngài đã hành động bằng
cái thế và cái lực của một công-dân, một tu-sĩ, chớ hoàn
toàn không phải lợi dụng vào quyền năng của một vị Chúa-tể
ở trong nước để mà thành công sự nghiệp ở đời. Hay
nói cách khác cho đúng hơn, thì Ngài đã thành công chính nhờ
vào ở tài năng, đức độ siêu phàm của cá nhân mình.
Điều nầy, có nghĩa là chúng
ta muốn nói đến cái kho tàng pháp điển bao la, vô cùng tận
của triết lý đạo Phật mà Ngài để lại cho tất cả con
người cùng thừa hưởng. Và, một khi đến với đạo Phật,
thì ai ai cũng có những phương tiện bình đẳng giống nhau,
ai ai cũng có tinh thần tự do hành sử lương tâm trước mọi
quyết đoán về chân lý, ai ai cũng có đầy đủ tư cách nhân
quyền để chọn lựa đức tin như bao kẻ khác. Vì, tất cả
cùng đều là những tế bào của chung vũ trụ bao la.
Sau Đức Phật, những nhà làm
chính trị và văn hóa khác đều có chung khuynh hướng dùng
đến bạo lực để mở mang biên cương học thuyết của họ.
Cho nên, vô hình trung đều vấp phải những cái mốc oan nghiệt
của thời điểm không gian, mà chung cuộc phải đi vào bánh
xe lịch sử của định mệnh.
Trong kỷ nguyên lịch sử
của loài người, sau khi biết khám phá ra được giá trị
mầu nhiệm của lửa thiêng và có ý thức vĩnh hằng về sự
chết, thì đến phiên Đức Phật đã sáng suốt thần thông
tìm ra chân lý vĩnh cữu để hướng dẫn đời sống con người
đi ra khỏi bóng tối đường hầm ở địa ngục. Học thuyết
Tứ-Diệu-Đế do đó trở thành một kho tàng văn hóa của
muôn loài, vừa làm bức thành trì kiên cố cho nền tảng
phát huy cách mạng đại qui mô về tâm linh, trí tuệ của
con người về sau trên mặt đất.
Lại ngược dòng thời gian,
trong khi các tôn giáo ở phương Tây chưa từng xuất hiện
thời bấy giờ, thì đạo Phật đã một mình hùng cứ trên
một vùng địa lý lớn lao trong quả địa cầu, song tầm ảnh
hưởng phát huy nền hóa Thích-Ca lúc nào cũng được coi như
là khiêm tốn. Tuy nhiên, sự bành trướng chậm chạp đó phải
hiểu một phần vì do phương châm căn bản hiếu hòa theo con
đường chỉ đạo của lượng hỉ-xả, đức từ-bi. Và một
phần khác, là đạo Phật đã phải tạm dừng chân để khai
sinh ra nền văn hóa Ấn-Độ và làm phong phú thêm cho nền
văn minh Trung-Quốc.
Còn nữa, đạo Phật lại mất
thêm khá nhiều thời gian để chờ tiêu hóa tín ngưỡng vào
khắp cả Á-Châu vào những năm trước Tây-lịch. Do vậy,
nếu ngày nào mà người ta còn được hiểu quá trình văn
minh duy linh ở Ấn-Độ và duy tâm ở Trung-Quốc như là tuyệt
hảo, thì tức là ngày đó người ta còn phải mặc nhiên công
nhận cái giá trị tinh thần thực tế, hiển nhiên của một
nền văn hóa vẻ vang, phát triển đi lên theo đường tung độ
trong lịch sử mở mang của đạo Phật. Vì thế mà đạo Phật
đã từng có dịp bén rễ, ăn sâu vào từng các tế bào của
chúng sinh trong đời sống xã hội dân gian ở phương Đông.
Ngoài trường hợp cực thịnh
của đạo Phật dưới thời kỳ của A-Dục-Vương (Ashoka)
ở Ấn-Độ và đưới đời Đường ở Trung-Quốc. Nói riêng,
chính trong lịch sử xã hội của Việt-Nam dưới triều đại
Lý-Trần, thì cuộc chuyển hóa tâm linh của đạo Phật cũng
đã ảnh hưởng đến biết bao nhiêu về quan niệm nhân sinh
từ thành phần Vua tôi cho tới hàng dân dã và đã cảm hóa,
thấm nhuần, thu phục được tuyệt đại đa số tín đồ
trong cả nước thiên hạ Lý-Trần bán vi tăng.
Cái thế thượng phong của
đạo Phật trong Tam-Giáo đồng nguyên (Thích-Nho-Lão)
từ đó lưu truyền đến mãi về sau hãy còn được dịp chứng
minh hùng hồn qua các tác phẩm văn chương, điêu khắc và
kỹ thuật kiến trúc. Và điển hình là dấu tích của ngôi
Chùa Một Cột, các báu vật của Thăng-Long thành còn sót lại
bây giờ là những chứng từ quốc bảo đã tiêu biểu cho
nền văn hóa đặc thù của đạo Phật hiện diện lâu đời
trên vòm trời đất Việt.
Khoảng cách với thời đại
của chúng ta trên hai mươi lăm thế kỷ dài, mối đại duyên
Đức Phật giáng trần báo hiệu điềm lành đổi thay cuộc
sống tâm linh nhằm cứu độ con người thoát ra khỏi cảnh
trầm luân bể khổ ở trên đời. Do vậy, cho nên sau khi Đức
Phật nhập Niết-Bàn thì các đệ tử của Ngài liền đem
cái kho báu tư tưởng, tinh thần từ trong núi Tuyết ra để
mà tiếp tục sự nghiệp đầu tư vào phúc lợi của chúng
sinh thể theo tấm lòng ước nguyện thương người của Ngài
như non cao biển cả. Trải qua bao lần dâu bể, tang thương
thế sự thăng trầm đã có biết bao nhiêu Phật-tử không
phân biệt quốc tịch, màu da lần lượt đứng lên đóng góp,
hi sinh bảo vệ và phát huy cho Phật-pháp được mãi mãi trường
tồn.
Giờ đây, thừa hưởng được
di sản tinh thần thiêng liêng vô giá đó, người Phật-tử
bốn phương không sao quên được công ơn của Đức Thế-Tôn
trong những ngày đại lễ giáng sinh khắp nơi nơi nghi ngút
hương trầm.
Tuy nhiên, ngoại trừ nhiều
trường hợp vô sở bất tại đặc biệt hiển linh từng
đã có xảy ra trong thế gian, thì phút giây kêu đòi cứu rỗi
của chúng sinh và của riêng mình mong chờ vào sự báo ứng
thị hiện ra ngay tức khắc của Đức Phật sẽ không bao giờ
có, và mãi mãi tuyệt nhiên không bao giờ có!
Bức tượng hình uy vệ trên
bàn thờ nhang khói đó chỉ là chân dung tôn nghiêm, biểu tượng
cho tài năng, đức độ của một đấng siêu phàm.
Thương người đời tục lụy,
Ngài đã ban cho thế gian một con đường cái quan giải
thoát trợ giúp cả thảy chúng sinh cùng đi đến cuối
nẻo cực lạc vĩnh hằng. Phần còn lại, là tùy duyên hạnh
ngộ của mỗi chúng ta mà tôi luyện công phu đạt thành đạo
quả.
Trong tinh thần đó, ánh hào
quang trong ngày trọng đại "Vesak" hôm nay lại còn
có thêm ý nghĩa khác thường là nhằm nhắc nhở ý thức tự
giác, khuyên bảo con người hãy ráng tu hành, cố gắng đứng
dậy tự thắp đuốc mà đi về hướng rạng đông
- nơi
mặt trời vẫn mọc dù không tiếng gà gáy sáng...Cùng
với niềm hi vọng mới bắt đầu, chúng ta hãy nghĩ đến
những hình ảnh của một sự đổi thay lúc nào cũng được
coi như là cần thiết để sám hối diệt ngã, thể hiện tinh
thần bát nhã bao dung, lục hòa, vị tha, công ích.
Và cơ hội thực tế, để
cho cho mọi người Phật-tử Việt-Nam được vui mừng thể
hiện sắt son tinh thần tôn sư trọng đạo của mình. Là hãy
tiếp tục giương cao sứ mạng truyền thống giữ gìn, phát
huy những thành quả đóng góp hài hòa của Phật-Giáo từ
lâu vào những phúc lợi hòa bình thế giới trong ý nghĩa lý
tưởng tự do, và trật tự công bằng trong đại cộng đồng
xã hội văn minh, tiến bộ.
Cư-sĩ
Đông-Phương
MAI-LÝ-CANG
(Paris)
* - Đại Hội Đồng Liên Hiệp
Quốc trong ngày 15-12-1999 công nhận Ngày trọng đạiPhật
Đản ("Vesak") là một lễ hội văn hóa, tôn giáo
quốc tế chính thức của Liên Hiệp Quốc.
***************
Bài tụng
***
Nễ hỷ ngã bất hỷ
Quân bi ngã bất bi
Nhạn tư phi hàn bắc
Yến ức cựu sào
qui
Thu nguyệt xuân hoa
vô hạn ý
Cá trung chi hứa tự
gia tri
-----
Người vui ta chẳng
vui
Người buồn ta chẳng
buồn
Nhạn bay về biển
bắc
Yến nhớ tổ trời nam
Xuân hoa thu nguyệt
vô cùng ý
Lãnh hội sao cho tự
biết mình
(Ngài
Xuyên Thiền-Sư)
***********
|