Xuyên
qua từng áng mây chĩu nặng hơi nước, những tia nắng đìu
hiu của một buổi chiều như đang ngập ngừng bên ngoài khung
kính của chiếc Boeing đồ sộ - đang rời thành phố Dalat.
Khung cảnh dưới xa như gợi
lại trong hồn Bảo Trân hình ảnh của một thành phố lạ
lẫm, xa xăm. Nơi thành phố xa lạ đó, khi chiều xuống, những
màn sương trắng đục cũng tỏa ra từ lòng núi; cũng vượt
lên đỉnh núi, hòa lẫn vào mây; cũng vây quanh những tòa
buildings cao nghệu; cũng bay lang thang để tìm xem màn đêm
về từ lối nào; cũng thích lơ lững trên những nhánh sông
cuồn cuộn phù sa.
Từ một trong những nhánh sông
đục ngầu phù sa đó, du thuyền Royal trôi êm ả giữa dòng,
bỏ lại phía xa từng vùng ánh sáng rực rỡ của những thành
phố kỹ nghệ và những khu vực thương mại sầm uất.
Qua khỏi thượng nguồn, Bảo
Trân chỉ thấy núi và núi. Núi chập chùng. Núi vây quanh.
Núi kéo dài đến vô tận. Núi đổi màu tùy theo độ cao và
sự di chuyển của hơi sương cùng ánh mặt trời. Sự biến
dạng và tuổi tác của những trái núi tạo nên sự hùng vĩ/sự
thướt tha/sự cuồng nộ của dòng sông.
Dòng sông này không có sự
mênh mông bát ngát của sông An Giang/sông Triêm Ðức/sông Ðà
Rằng. Dòng sông này thiếu hẳn sự nên thơ nhưng đầy nguy
khốn của sông Cái Lớn/sông Vàm Cỏ trong thời binh lửa;
không mang nặng vết đau lịch sử của cả một dân tộc như
sông Gianh/sông Bến Hải/sông Thạch Hãn; thiếu hẳn sự tươi
trẻ/sự trữ tình của dòng Danube hoặc sông Rhine bên trời
Âu; cũng không có sự kinh khiếp đầy huyền diệu của sông
Hằng. Dòng sông này thâm trầm, như một cụ Ðồ Nho; vì tích
lũy nhiều điều huyền nhiệm của đời/của thời gian/của
thiên nhiên. Dòng sông này mang tên Dương Tử.
Khi ánh nắng mai ló dạng cuối
trời xa cũng là lúc Bảo Trân thích thú nhìn dòng Dương Tử
trườn mình giữa hai vách núi thẳng đứng. Nhìn lên đỉnh
núi, Bảo Trân thấy cây tùng/cây bách chễm chệ một vùng
trời riêng để vui đùa với gió và tự tình với mây. Dưới
chân núi, nhiều người dân lam lũ đang còng lưng vét những
hạt cát hiếm hoi bên bờ sông để đem về xây những ngôi
nhà nhỏ nhắn bên hóc núi cao hoặc xây những cây cầu cheo
leo, nối liền hai triền núi dọc bờ sông.
Trên mặt sông, những chiếc
du thuyền nhỏ vẫn ngược xuôi trong âm thanh vi vu mệt mỏi
của máy tàu. Âm thanh này và màu nước này gợi nơi lòng
Bảo Trân hình ảnh những dòng sông thấm máu và những cánh
rừng tràm đầy mìn bẫy và hầm chông khi chiến tranh còn
lan tràn trên Quê Hương đầy khổ nạn! Nàng tự hỏi, khi
mạch sông Dương Tử được đắp đập để mực nước sông
dâng lên cả trăm thước thì cuộc sống nơi vùng Quê Hương
nghèo khó của nàng, sẽ bị ảnh hưởng như thế nào?
Bảo Trân đang trầm ngâm vì
những ưu tư không thể giải đáp được thì có tiếng gõ
cửa. Nghĩ rằng đó là Phong - người đã theo đuổi nàng từ
khi nàng còn đi học - Bảo Trân hỏi:
- Ai đó?
- Anh. Anh sang rủ em lên sân
tàu ngắm mặt trời lặn.
Hai người lên sân tàu, thấy
sân tàu nhiều du khách đang ngắm cảnh và chụp hình, Phong
bảo:
- Ở đây đông quá! Mình lên
tầng trên, nhé!
Tầng trên ít người. Nhìn
vùng không gian rộng lớn của sườn núi đối diện chan hòa
trong ánh nắng chiều, Phong hỏi:
- Màu nắng này có gợi trong
hồn em chút gì không, Bảo Trân?
- Dạ, màu nắng này làm em
nhớ những buổi chiều êm ả trên núi Pilatus ở Thụy Sĩ.
- Thế thì tâm hồn em có bị
giao động trước khung cảnh này không?
- Dạ, có.
- Tại sao?
- Cảnh đẹp của thiên nhiên
làm thỏa mãn tính hiếu kỳ của em. Nhưng điều làm cho em
xúc động lại là sự nghèo khó và nỗi bất hạnh của con
người. Còn anh, anh nghĩ gì?
- Anh hả? Anh nghĩ đến những
buổi chiều có nắng vàng tỏa rộng trên sườn núi nơi đèo
Rù Rì hoặc lung linh trên rừng dừa nơi bãi biển tại trung
tâm thể dục Ðinh Tiên Hoàng - sau này đổi lại là trung tâm
huấn luyện Biệt Ðộng Quân - ở Ðồng Đế, Nha Trang.
- Anh là bác sĩ Quân Y mà anh
làm chi ở chỗ người ta huấn luyện Biệt Ðộng Quân?
- Vì là bác sĩ Quân Y cho nên
- lúc còn là sinh viên - Hè phải thụ huấn quân sự ở đó.
- Những buổi chiều ở Đồng
Đế anh nghĩ gì?
- Anh cảm thấy cô đơn lắm
và: "Anh nhìn xa vắng, ngàn thương nhớ. Em đã xa rồi,
em biết không?" (1)
Biết Phong muốn gián tiếp
gợi lại Cuộc Tình Xót Xa/muộn màng giữa chàng và nàng,
Bảo Trân thoáng buồn:
- Anh đã hứa với em rồi mà!
- Anh hứa gì?
- Anh hứa sẽ xem em như em gái
thôi.
Im lặng. Một lúc sau, Bảo
Trân chuyển đề tài:
- Từ mấy hôm nay anh có nhận
biết được điều gì khác thường trong không gian mà chúng
ta đã đi qua hay không?
- Có. Anh cảm thấy như thiêu
thiếu cái gì đó, nhưng không biết là cái gì!
-Anh thử tưởng tượng, nếu
có vài cánh chim bay chầm chậm ngang triền núi đối diện
thì...
- Ðúng rồi! Từ hôm đặt
chân đến đất nước này anh chưa hề thấy bất cứ loài
chim nào cả. Tại sao?
- Em không hiểu.
Vừa khi ấy, Jason - hướng
dẫn viên du lịch - bước lên khỏi bậc thang cuối cùng. Phong
gọi Jason, đặt câu hỏi bằng Anh ngữ; vì Phong biết tất
cả hướng dẫn viên du lịch tại Trung cộng đều được
chính phủ đào tạo và Anh văn là sinh ngữ chính. Jason đáp:
- Tôi không nhớ bác sĩ là
người thứ mấy đã hỏi tôi câu này; nhưng tôi nhớ, khi
tình hữu nghị giữa Nga Sô và chúng tôi còn khắng khít, Nga
Sô đã cho chính phủ của chúng tôi vay một món nợ lớn.
Nước chúng tôi đông dân nhưng nghèo, trả nợ không nổi.
Ðến lúc tình hữu nghị giữa hai quốc gia rạn nức, Nga Sô
đòi nợ gắt gao quá, chính phủ của chúng tôi ra lệnh mọi
tầng lớp nhân dân phải chia xẻ những khó khăn với quốc
gia bằng cách dồn tất cả nỗ lực để tăng gia sản xuất,
lấy gạo và ngũ cốc trả nợ cho Nga. Nhưng trở ngại lớn
của chúng tôi là: Sau khi gieo mạ và hạt giống, chim ăn hết.
Thế là chính phủ ra lệnh giết tất cả chim chóc để hoa
màu không bị hao hụt.
Bảo Trân ngạc nhiên:
- Làm sao có thể giết hết
được tất cả chim chóc?
- Chim muông cũng có linh tính
và tiếng nói riêng. Vì vậy, sau vài đợt bị lùng giết,
lũ chim rũ nhau bay đi, không bao giờ trở lại!
Bảo Trân chưa kịp nói chi
thêm thì từ các máy khuyếch đại âm thanh đặt quanh tàu
vang lên lời nhắn của director Charles:
-Thưa quý bà, quý ông! Du thuyền
của chúng tôi sẽ dừng lại trong vài phút nữa. Quý vị nào
đã ghi tên tham dự cuộc du ngoạn vào sông Daning, xin chuẩn
bị để thuyền máy đưa quý vị đi.
Chiếc thuyền máy có cửa kính
bao quanh rời sông Dương Tử để tiến vào sông Daning. Dọc
theo bờ sông Daning, nơi những vùng đất chài dọc theo triền
núi cao, Bảo Trân chỉ thấy những mảnh vườn tàn úa, như
là vết tích của mùa Ðông. Nhóm người đang làm vườn hoặc
làm rẫy trên cao hoặc những người ngồi giặt quần áo ven
sông, vội dừng tay, nhìn đoàn thuyền máy với nét mặt và
ánh mắt tràn đầy ước mơ.
Càng xa giòng Dương Tử bao
nhiêu màu nước càng trong trẻo và đáy sông càng lộ rõ bấy
nhiêu. Trên những phiến đá cuội đó, những đôi chân trần
khẳng khiu của mấy em bé và của vài thanh niên - ngang người
chỉ quấn một mảnh khố - cố chạy theo chiếc thuyền máy
để bán những cái chuông nhỏ bằng đồng, được chạm trổ
chữ Nho và hình tượng các vị Bồ Tát hoặc bán những cây
gậy bằng gỗ được uốn cong một đầu và cũng được chạm
trổ rất công phu.
Thấy mấy em bé trai đen đủi
cùng mấy cậu thanh niên vấn khố, Bảo Trân chạnh nhớ đến
vùng trời mờ sương bên quê nhà; nơi đó đàn ông Thượng
cũng vận khố, phụ nữ Thượng để ngực trần, mặc váy,
và đeo những vòng xoắn bằng đồng nơi cổ, nơi chân và
hai trái tai được căng rộng ra. Họ thường đi từng nhóm
nhỏ. Ngày còn bé, Bảo Trân thích nhìn dáng họ chập chờn
trong ánh nắng chiều, bên những đồi trà xanh biếc của ông
bà Ngoại. Cũng có lúc họ đem măng hoặc ngũ cốc đến nhà
đổi muối. Ngoại không đổi, bảo người giúp việc lấy
muối đem cho họ. Khi nào cũng vậy, nhận được chén muối
họ cười hớn hở, để lộ hai hàm răng đã bị cà thấp
xuống, rồi họ líu lo một thứ ngôn ngữ không thể nào Bảo
Trân hiểu được.
Nụ cười của người Thượng
ngày đó và nụ cười của những người vận khố nơi đây
- sau khi bán được món hàng - đều đượm nét ngây ngô, mộc
mạc mà người thị thành không thể nào có được!
Đang nghĩ về quê cũ, bất
chợ Bảo Trân nghe giọng Jason:
- Những gia đình giàu mới
có tiền chôn người thân trên đó.
Từ nãy giờ chỉ để tâm
ngắm cảnh lạ, Bảo Trân không để ý đến lời dẫn giải
của Jason. Bây giờ nghe ba tiếng "chôn trên đó", Bảo Trân
ngạc nhiên, vội nhìn theo hướng ngón tay trỏ của Jason và
thấy, gần những đỉnh núi cheo leo - nơi những khoảng núi
bị lỡ, lộ ra màu đất đỏ hoặc vàng đậm - là những
cửa hang nho nhỏ; trong hang là quan tài của người chết. Bảo
Trân tò mò:
- Jason! Làm thế nào họ có
thể đưa quan tài lên đến đó để chuyền vào hang?
- Ðưa quan tài lên đến đỉnh
núi rất khó khăn. Nhưng họ trả tiền hậu hỷ thì cũng có
người làm. Lên đỉnh rồi, họ sẽ thòng giây để chuyển
quan tài vào hang.
- Sau đó hang có được đóng
cửa hoặc lấp lại hay không?
- Không.
Nhìn quanh, thấy hầu như nơi
mỗi chỗ núi lỡ đều được dùng làm nhà mồ không cửa,
Bảo Trân lại hỏi:
- Tại sao họ không tìm đất
để chôn mà lại lập những nhà mồ trong lòng núi, không
cửa?
- Vì càng lên cao càng nhiều
đá, không có đất.
- Thế sao họ không chôn nơi
những vùng thấp?
- Ðây là vùng núi đá. Những
vùng thấp đất rất hiếm, chỉ để trồng trọt.
- Tình trạng khai khẩn hiện
nay đã khó khăn như vậy, khi kế hoặch xây đập nước thực
hiện xong, mực nước dâng cao cả hơn trăm thước nữa thì
người dân canh tác bằng cách nào để sống?
- Ðó là câu hỏi tôi không
thể giải đáp được. Tôi nghĩ "Trời sinh trâu, Trời sinh
cỏ."
Bảo Trân thầm nghĩ, đời
sống của con người nơi đầu nguồn thì tùy thuộc vào Trời;
còn đời sống của những dân tộc ở cuối nguồn tại sao
lại tùy thuộc vào người láng giềng hung bạo/hẹp hòi/ích
kỹ - Trung cộng - chỉ thích kiến tạo những đồ án vỹ
đại để phô trương chứ không nghĩ đến nỗi đau khổ của
muôn người do sự thực hiện những đồ án đó tạo nên?
Ðang quan sát và suy nghĩ vẩn
vơ, Bảo Trân chợt cảm biết chiếc thuyền máy đã ủi bãi
và một số ít du khách đang lên bờ.
Bảo Trân thấy triền núi dọc
hai bên bờ sông đã trở thành màu xanh thẫm; trên nền xanh
thẫm đó, những màn sương mỏng chờn vờn trông như những
áng mây, và ánh đèn leo lét phía xa trông như những vì sao
lạc. Nhìn đỉnh núi cao và ánh trăng len lén xuyên qua những
áng mây mờ, Bảo Trân "ngân nga" nho nhỏ, vừa đủ cho Phong
nghe:
"Qua những mùa trăng dáng
em theo thời gian.
Nhẹ lướt mơ hồ khi vàng
úa trăng tàn.
Sông nước mịt mùng xóa
mờ một kiếp tha phương giang hồ.
Lệ tràn lên mi tình trong
giấc mơ…" (2)
Phong lắng nghe, lòng thầm tiếc
là chàng đã mất Bảo Trân suốt thời gian dài cho nên khoảng
đời trai trẻ Phong đã không có được những giây phút lãng
mạn/tình tứ/đầm ấm như thế này! Bất ngờ giọng Bảo
Trân vút cao:
"...Ðêm nay ánh trăng ngà
lã lơi,
trải trên cây rừng nhớ
thương.
Dưới ánh trăng u huyền
thông mơ reo..."
Bảo Trân nhấn giọng ở chữ
"lả" và chữ "trải" rồi chữ "nhớ" rơi vào note Si bémol
của tình khúc được viết cung Ré Majeur khiến người
nghe cảm nhận được tất cả niềm nỗi xót xa/niềm u hoài!
Bảo Trân ngưng hát. Phong đọc
khẽ hai câu thơ vừa lướt qua trong hồn chàng:
-"Anh nghe em hát, lòng xao
xuyến.
Trong cõi hồn em, anh ước
mơ." (3)
Bảo Trân im lặng, cố nén
sự giao động bồi hồi từ trái tim đa cảm của nàng. Phong
nhìn Bảo Trân bằng ánh mắt chan chứa yêu thương.
Cũng với ánh mắt tràn đầy
yêu thương đó, tối đến, trong lúc say mê theo dõi chương
trình nhạc cổ truyền tại The Tang Dynasty, Phong cũng xoay nhìn
Bảo Trân, khi đoàn nữ nhạc công xử dụng nhạc cụ cổ
truyền để cùng tấu lên những hợp khúc cổ điển của
nền âm nhạc Trung Hoa.
Khi Phong và Bảo Trân trở lại
du thuyền Royal, ánh trăng đã khuất, máy tàu đã im; nhưng
tiếng sáo Pai Xiao vẫn như còn vương vấn trong sự trầm mặc
của muôn loài.
Trong sự trầm mặc đó, mạch
nước từ những dòng suối vẫn âm thầm tìm về đây, cùng
nương nhau vượt Three Gorges Dam đang xây để không còn bị
gò bó theo những dãy núi đá - mà sẽ được trải mình trong
những cánh đồng ngát xanh dừa nước và mạ non.
Chiếc Royal đến Three Gorges
Dam khi những hạc sương mai trên cành lá trở nên long lanh
dưới những tia nắng đầu ngày. Công tác đắp đập đã
thực hiện được hơn 2/3 bề ngang của dòng sông cho nên nước
chảy xiết/cuồn cuộn/xoáy sâu, tạo cảm giác bất an cho
những du khách nhát gan. Người Trung Hoa rất hãnh diện vì
đập nước này sẽ là một trong những đập nước lớn nhất
thế giới. Nhưng Bảo Trân không hiểu người Trung Hoa sẽ
nghĩ gì khi những dân tộc ở cuối nguồn, từ thế hệ này
đến thế hệ khác, sẽ ta thán vì mạch sống cứ cạn dần;
và nước mặn từ biển sẽ xâm lấn vùng đất trồng hoa
màu?
Qua khỏi đập nước, lưu lượng
của dòng sông trở nên dịu dàng, đằm thắm giữa những
khu vực đông đúc dân cư. Bất ngờ Bảo Trân nghe huyên náo
cả vùng và rồi, cùng một lúc, hằng triệu triệu tấn khối
nước từ Three Gorges Dam tràn về. Trong âm thanh cuồn nộ của
nước, Bảo Trân nghe không biết bao nhiêu tiếng kêu gào thảm
khốc. Dù hạm trưởng vận dụng tất cả khả năng để cố
đưa chiếc Royal xuôi theo con nước, tránh rơi vào vùng nước
xoáy, Bảo Trân cũng vẫn nghe được tiếng cửa kính vỡ cùng
với tiếng kẻo kẹt của thân tàu. Nước sông dâng nhanh một
cách đáng sợ. Từ phòng ăn, Phong hối hả đưa Bảo Trân
về phòng và dặn:
- Em ở trong này, không đi đâu
hết. Anh ra ngoài xem có ai bị thương, cần cứu cấp chi không,
tý anh trở vào hoặc nhờ người vào thăm chừng em.
Không đợi Bảo Trân đáp,
Phong bước ra ngay. Phong vừa xoay lại đóng cửa, tấm kính
nơi khung cửa sổ vở tan. Nước bắn vào phòng. Trong nỗi
hoang mang tột cùng, Bảo Trân nghe tiếng director Charles
từ máy khuyếch đại âm thanh:
-Tất cả mọi người chú ý!
Chiếc du thuyền của chúng ta không thể tiếp tục chịu đựng
cơn thịnh nộ của thiên nhiên. Chúng tôi buộc lòng phải
tấp thuyền vào một eo núi. Sau khi thuyền tấp vào, bằng
mọi phương tiện, tất cả chúng ta phải rời thuyền ngay
lập tức!
Nghe xong, Bảo Trân gập người
xuống, nước mắt chan hòa với nước sông, lòng quặn thắt
nghĩ đến các con. Ngày trước, những lúc bị đời lừa đảo,
vùi dập hay những lúc buồn/cô đơn/chán nản, Bảo Trân thường
nghĩ đến cái chết như là một lối thoát. Nhưng bây giờ
cận kề với cái chết, Bảo Trân lại hãi sợ, lại muốn
được sống để về gặp lại các con.
Ðang hướng tâm về Phật Bà
Quan Thế Âm với lời cầu nguyện chân thành nhất, Bảo Trân
bỗng giật mình kinh sợ vì sự xô lệch/chồng chềnh của
đồ vật trong phòng. Vừa lúc ấy, Phong xuất hiện, vội vã
kéo Bảo Trân ra ngoài. Nhiều âm thanh lạ vang lên rất lớn
khi thân tàu vặn mình, cố trườn lên khóm đá. Mọi người
xô đẩy nhau rời tàu.
Phong đưa Bảo Trân núp gió
bên hốc đá đen đủi. Một lúc sau, nhìn quanh, Bảo Trân thấy
director
Charles đang đi tìm để đếm và ghi tên từng du khách. Bỗng
Bảo Trân để ý và không hiểu tại sao Charles và một người
đàn ông lạ lại tiến về phía nàng và Phong một cách vội
vã.
Sau khi bắt tay Phong và hỏi
thăm tình trạng sức khỏe của Phong và Bảo Trân, vị thuyền
trưởng nhìn Phong:
- Thưa bác sĩ, cuối đoạn
sông này có một trường tiểu học. Cơn nước lũ vừa rồi
khiến nhiều em học sinh bị nước cuốn đi và nhiều em bị
thương. Ðây là ông hiệu trưởng ngôi trường đó. Ông đến
đây kêu cứu, vì ông nghĩ rằng trên du thuyền của chúng
ta có thuốc và dụng cụ y tế. Jason cho biết ông là bác sĩ
cho nên chúng tôi mừng quá, vội đến nhờ. Mong bác sĩ giúp
cho.
Phong nhận lời ngay. Bảo Trân
tình nguyện theo giúp nhưng Phong trấn an:
- Anh đi vì bổn phận của
người thầy thuốc. Anh không muốn em tháp tùng vì anh không
biết tình trạng nơi anh sắp đến như thế nào. Em ở đây
cơ quan du lịch sẽ tận dụng mọi phương tiện để đưa
du khách về nơi an toàn. Còn anh, một mình anh, anh dễ xoay
trở.
Bảo Trân ủ rũ nhìn chiếc
thuyền nan đưa Phong xuôi theo giòng nước cho đến khi chiếc
thuyền chỉ còn là một chấm nhỏ tý ty trong vùng nước mênh
mông.
Vẫn trong trạng thái bất an,
Bảo Trân thầm mong chấm nhỏ tý ty ấy xuất hiện để rồi
lớn dần, lớn dần trong tầm mắt nàng. Nhưng hai buổi chiều
rồi, chiếc thuyền nan vẫn chưa trở lại!
Hôm nay cơ quan du lịch mới
tìm được phương vị của chiếc Royal và đoàn du khách. Ðây
là chuyến trực thăng cuối cùng di chuyển du khách khỏi vùng
này. Director Charles cố thuyết phục Bảo Trân một lần
nữa:
- Chúng tôi hứa sáng mai công
việc tìm kiếm bác sĩ Phong sẽ được tiếp tục. Xin bà yên
tâm, theo chúng tôi đi về.
- Cảm ơn ông. Nhưng tôi xin
được ở lại đây đợi Phong trở lại hay là cho đến lúc
các ông tìm được Phong.
- Tôi rất tiếc là sự việc
đã xảy ra ngoài ý muốn như thế này. Nhưng bà ở lại đây
cũng không thể thay đổi được sự việc; thế thì tại sao
bà phải tự hành hạ bà? Thôi, bà đi về với chúng tôi.
Sáng mai trực thăng lại sẽ tiếp tục tìm kiếm bác sĩ Phong,
như hai ngày qua chúng tôi đã thực hiện.
- Tôi muốn được yên tịnh
một mình. Các ông về đi.
Chiếc trực thăng nâng mình
lên rồi lượn vòng gộp đá như có ý chào giã biệt Bảo
Trân. Chiếc trực thăng vút lên cao trong khi Bảo Trân từ từ
gục xuống vì gió, và vì đau khổ!
Còn lại một mình, Bảo Trân
đâm ra hối tiếc vì chút đạo lý mà nàng đã không dám sống
theo đà lòng của mình. Nàng đã đạo đức giả, đã cao thượng
không đúng lúc, đã hy sinh không phải cách cho nên không dám
đáp ứng mối tình nồng thắm của Phong...
Trong khi Bảo Trân bị niềm
ân hận và nỗi đau xót dày vò để tự trách mình thì, tự
dưng, theo từng cơn gió lạnh, tiếng hát nức nở của Richard
Marx vang lên:
"Oceans apart day after day,
and I slowly go insane.
I hear your voice on the line.
But it doesn’t stop the pain.
If I see you next to never,
how can we say forever.
Wherever you go, whatever you
do,
l’ll be right here waiting
for you.
What ever it takes,
or how my heart breaks,
I’ll be right here waiting
for you ..."
Bảo Trân nhìn quanh như tìm
kiếm. Không thấy ai cả, nước mắt của Bảo Trân lại tuôn
tràn!
Bất chợt, Bảo Trân cảm biết
như có người đang nhìn lén nàng từ phiến đá bên trái.
Bảo Trân xoay nhìn về phiến đá và nhận ra đó là thanh niên
ngoại quốc đang ngồi cạnh nàng trên chuyến bay của Hàng
Không Việt Nam từ Dalat về Nha Trang!
Bảo Trân bẻn lẻn mỉm cười,
đưa tay quẹt những giọt nước mắt còn ấm. Thanh niên cũng
mỉm cười thân thiện rồi trao nàng vài tờ kleenex.
Bảo Trân nhỏ nhẹ cảm ơn.
Bảo Trân dùng kleenex
chậm nước mắt rồi lại nghiêng một bên má sát vào khung
kính cửa sổ phi cơ. Xuyên qua từng áng mây bàn bạc, Bảo
Trân thấy những lượn sóng trắng xóa di động chầm chậm
trên vùng biển lặng. Bảo Trân thở dài, chợt nghĩ đến
hai câu thơ mà - trong giấc mơ của nàng - Phong đã đọc trên
du thuyền Royal; có điều Bảo Trân đổi chủ từ cho hợp
với tâm trạng của nàng:
Em nhìn xa vắng, ngàn thương
nhớ.
Anh đã xa rồi, anh biết
không? (4)
ĐIÊP MỸ LINH
http://www.diepmylinh.com/
(1)
(3) (4) Trong tập thơ Nửa
Đời Thương Đau của Hoàng Vũ Bảo.
(2)
Trăng Lạnh của cụ Ðiệp Linh Nguyễn Văn Ngữ.
|