Chim Việt Cành Nam
Trở về
Trang chủ
Tác giả
Alexandra David Néel 
khám phá Tây Tạng

Võ Quang Yến (*)

Ai đi chơi hè vùng Provence-Alpes-Côte d'Azur cũng thường hay ghé qua Digne-les-Bains (Dinha hay Digno theo tiếng provençal), một tỉnh lỵ nhỏ (17.000 dân) ở cao độ 600 m, thu mình trong Thung lũng Bléone, núp bóng dưới chân dảy Préalpes de Digne, bên bờ sông Bléone (Bléuno, Bléuna, tức Con sông chó Sói). Thích ứng địa thế mấp mô núi non một thung lũng, thành xưa chiếm cứ một ngọn đồi, thành mới kéo dài gần 8km về đồng bằng, sáp nhập vài vùng quê kế cạnh. Trên sườn đồi thấp thoáng sau bóng cây một ngôi nhà không đồ sộ nhưng quét dọn sach sẽ, sơn màu trắng xóa tượng trưng tấm lòng quả quyết của một người phụ nữ có một không hai : bà Alexandra David Néel. Suốt một đời ngang dọc châu Á, đi sâu vào lòng người Phật tử ở nước Tây Tạng, bà về đây nghỉ già với vị lama Yongden đã nối gót bà từ những sườn núi Hy Mã Lạp Sơn. Sau hơn cả chục năm lang bang nơi đất khách, luôn xem xét cặn kẽ, ghi chép mọi chi tiết về đời sống, đạo Phật, giờ đây bà có nhiều thì giờ hơn để tường thuật lại cuộc sống phong phú của bà. Nhà nghỉ của bà trở nên viện bảo tàng biểu dương tấm lòng can đảm, một mai đây có thể trở thành trung tâm hành hương của những lớp thanh niên hâm mộ một cuộc sống hoạt động hướng đến một mục tiêu chính đáng.
Louise Eugénie Alexandrine Marie David, thường được biết qua tên Alexandra David-Néel sinh ngày 24.10.1868 ở Saint-Mandé trong vùng Ile-de-France, mất hơn 100 năm sau, ngày 08.09.1969, là một nhà Đông phương học, Tây Tạng học, ca sĩ opéra, nhà báo, nhà văn, nhà thám hiểm, Phật tử, hội viên Tam điếm, theo chủ nghĩa nữ quyền, vô chính phủ. Có quốc tịch Pháp và Bỉ, bà là mụn gái độc nhất của ông Louis David, một người theo đạo Tin Lành, hội viên Tam Điểm, giáo viên, chiến sĩ cọng hòa trong thời cách mạng 1848. Khi Louis-Napoléon Bonaparte lên ngôi vua, ông chạy trốn qua Bỉ, gặp ở đây và chia sẻ cuộc sống với bà Alexandrine Borghmans. Không dư dả, ông sống nhờ gia tài của vợ, nhưng vợ chồng bắt đầu bất bình khi Alexandra lọt lòng : bà muốn nuôi con trong nền giáo dục Công giáo, ông bí mật rửa tội cho con theo nghi thức Tin lành. Năm 1871, phẩn nộ nhân cuộc hành hình những chiến sĩ Công xã Paris trước bức tường Liên bang trong nghĩa địa Père-Lachaise, ông đem đứa con 2 tuổi lên Paris để nó chứng kiến tính tàn bạo của con người. Năm 1873, ông di tản qua Bỉ. Từ nhỏ Alexandra đã được nuôi dưỡng bằng những nỗi cực hình, tra tấn, những nếp khổ hạnh, tìm đọc trong thư viện của cha mẹ sau nầy kể lại trong cuốn Sous des nuées de nuages (1940). Năm 15 tuổi, nhân đi nghỉ vói cha mẹ ở bờ biển miền bắc Ostende nước Bỉ, nàng bỏ trốn, định chạy qua Hoa Lan rồi lấy tàu thủy qua Anh nhưng thiếu tiền đành bỏ cuộc.
Suốt thời trẻ tuổi, nàng giao du với những người thuộc nhóm vô chính phủ, theo chủ nghĩa nữ quyền, viết trong báo La Fronde, cho xuất bản Pour la vie (1898), dự Hội đồng quốc gia Pháp và Bỉ về nữ quyền, tuy chống đối quyền bỏ phiếu nàng khuyến khích tranh đấu kinh tế. Dần dần nàng xa lánh những bà đến từ xã hội quyền quý mà nàng gọi là nhưng con chim quyến dũ có bộ lông mượt mà. Năm 1888 nàng vào Hội Tam điểm và đạt mức 30° theo nghi thức Êcôt xưa. Năm 1889, vào lúc 21 tuổi, nàng theo Phật giáo, hành đạo kể lại trong La lampe de sagesse (1986). Nàng qua Anh bồi dưỡng Anh văn, đàm đạo với những nhà theo thuyết thần trí, trở về lại Paris học tiếng Phạn, Tây Tạng, theo dõi với tư cách dự thính những bài giảng ở Collège de France và Ecole Pratique des Hautes Etudes. Nhưng chính ở viện bảo tàng Guimet mà nàng đi sâu vào Phật học và nảy ra trong lòng thiên hướng đông phương học. Được cha khuyến khích, nàng ghi tên học đàn dương cầm và học hát. Được giải nhất về môn hát và để giúp gia đình túng thiếu, qua tên Alexandra Myrial, nàng ghi và trở thành đào hát hạng nhất Opéra de Hanoi luôn hai năm 1985-1986 và 1986-1987. Trong hai mùa nầy nàng giao thiệp thư tín với Frédéric Mítral và Jules Masenet. Từ 1897 đến 1900, nàng chia sẻ cuộc đời với người chơi đàn piano Jean Haustot và cùng nhau soạn bản nhạc kịch Lidia. Trong thời gian nầy nàng cũng hát cho Opéra de Tunis và gặp ở Tunis kỷ sư đường sắt Philippe Néel de Saint-Sauveur, ông chồng tương lai. Năm 1902, nàng nghỉ hát và qua làm giám đốc nghệ thuật cho Casino de Tunis những vẫn tiếp tục cuộc trau dồi trí thức.
 

1933

1886

1933

Những biến diễn trong thời trẻ tuổi của bà Alexandra chuẩn bị một cuộc sống phiêu lưu, khó nhọc nhưng biết bao sinh động, phong phú. Ngày 04.08.1904 bà lấy chồng, lúc 36 tuổi, sau bốn năm ăn ở với ông Philippe Néel. Cuộc sống chung lắm khi huyên náo nhưng hai vợ chồng rất kính nể nhau. Họ không có con vì bà bảo có con sẽ cản trở cuộc sống độc lập và công việc học hỏi. Và năm 1911, bà sang Ấn Độ một mình, hứa sẽ trở về 18 tháng sau : thật ra, bà chỉ về nhà 14 năm sau để lại xa nhau ngay, tháp tùng có anh lama trẻ tuổi Aphur Yongden trở thành con nuôi năm 1929. Tuy xa nhau, hai vợ chồng vẫn thư từ đều đặn cho đến ngày 08.02.1941 ông Philippe Néel từ trần. Rất đáng tiếc nhiều bức thư của ông bị thiêu cháy những năm 1940 trong chiến tranh Trung Hoa.Tuy nhiên còn có chứng cớ ông chồng đã giúp vợ nhiều về mặt tài chánh, chăm lo gia tài và khi cần thì gởi tiền riêng. Năm 1912, bà đến Sikkim, hoàng tử Sidkéong Tulku Namgyal đưa bà tham quan nhiều chùa chiền. Chính năm 1914, bà gặp ở đây Aphur Yongden, 15 tuổi, cả hai quyết định cùng nhau vào sống khổ hạnh trong một hang ở cao độ 4000m phỉa bắc Sikkim. Sidkéong là một ông hoàng thích cải tiến, nghe theo những lời khuyên của bà Alexandra và giới thiệu vị lama Kazi Dawa Samdup làm thông ngôn cho bà, đồng thời là người hướng dẫn và giáo sư dạy tiếng Tây Tạng. Ông lama nầy đưa bà đi gặp đức lama thứ 13 sống lưu vong, thích thú biết được cuốn sách thiêng Tây Tạng Gyatcher Rolpa được dịch ra Pháp ngữ.

Tại Lachen, bà ở lại nhiều năm thỉnh giáo vị trù trì Lachen Gomchen Rinpoché. Được hướng dẫn ban đầu các phương pháp yogi trong hang (tsam : cấm phòng nhiều ngày ; tourno : huy động năng lượng nội công để tạo tác nhiệt độ), bà bổ túc ở Lachen và được tặng danh hiệu Yshé Tomé nghĩa là "Ngọn đèn đạo lý'' được thừa nhận trong các chùa chiền Phật giáo Á Đông. Bà khảo cứu về phương cách cải tổ và phổ biến Phật giáo cùng với Sidkéong, ông nầy năm 1913 được kết nạp vào Hội Tam Điểm. Ở Gangtok bà được tiếp đón như một thượng khách, được biêu tặng một chiếc áo lamani (bà lama) chụp ảnh với một cái mủ trùm đầu vàng. Sidkéong lên ngôi vua Maharaja, lấy bà MaLat đã từng liên lạc với Alexandra, bà trở nên cố vấn của vơ chồng vua. Xấu số, ông vua nầy đột ngột băng hà, có lẽ bi đầu độc tháng 12.2014. Ngày 13.07.1916, chẳng xin phép và báo trước ai, bà lên đường đi Tây Tạng với Yondon và một vị tu sĩ, dự kiến viếng hai chùa Chorten Nyima và Tashilhunpo, hai trung tâm Phật giáo gần Sikkim. Hai ngày sau, ở chùa Tashilhunpo, bà được phép tham khảo tài liệu và vào gặp đức lama đại bác học panchen-lama. Bà được giới thiệu với những viên chức trong chùa và bà mẹ đức lama. Đức lama mời bà nán lại nhưng bà không chịu và ra đi vài ngày sau, đem theo mảnh bằng tiến sĩ Ptật giáo Tây Tạng. Nhân tiện bà viếng vùng Tây Tạng, được mời vào một nhà tu kín gần hồ Motetong và viếng lama Tranglung. Sau hơn một tháng, ngày 15.08, bà trở về lại Sikking : những nhà chức trách Anh không bằng lòng bà đã phạm phép vào Tây Tạng, ra lệnh trục xuất bà.
Vì không trở lại Âu châu trong thời thế chiến, bà đưa Yongden đi Ấn Độ, Nhật Bản, gặp nhà triết lý Ekai Kawaguchi : ông nầy thành công hai năm trước ở lại Lhassa 18 tháng, trá hình thành tu sĩ Trung Quốc. Bà có ý định theo dõi tấm gương nầy. Bà và Yongden tiếp đường đi Triều Tiên và Bắc Kinh. Từ đây, với sự hợp tác một tu sĩ Tây Tạng họ muốn xuyên Trung Quốc từ đông sang tây. Sau nhiều năm lang thang ở các nước Gobi và Mông Cổ, họ tạm thời dừng chân ba năm (1918-1921) ở tu viện Kumbum ở Tây Tạng. Với sự góp sức của Yonden, bà bỏ công dịch tập Prajnaparamita. Bây giờ đến lúc bắt đầu cuộc hành trình khó khăn hằng mong. Vì các nhà chức trách Anh rất nghiêm nghị, muốn qua cửa thành cấm Lhassa, Yongden chỉ là tu sĩ nghèo, Alexandra phải trá hình thành bà ăn xin câm điếc. Máy ảnh, đia bàn, dụng cụ thu ghi, một chiếc súng lục, chút ít tiền bạc đều phải dấu kín trong áo quần rách rưới hay trong bị đeo lưng. Trổ tài tháo vát, họ thành công vào được Lhassa năm 1924, lẫn lộn với đám dân hành hương Đại lễ cầu nguyện Monlam. Họ tạm trú ở Lassa hai tháng, thăm viếng khắp nơi, nhưng không gặp được đức dalai-lama vì không dám lộ tông tích. Tuy vậy, vì tuy mặt mày nhem nhúa, bím tóc lông yak, da lông truyền thống, bà đi rửa mỗi sáng ngoài sông, bà bị tố giác nhưng khi nhà chức trách đến nơi, bà và Yongden đã cao chạy xa bay, tiên hướng Gyantsé. Qua tháng tư 1924, bà rời Sikkim đi Ấn Độ, luôn có, Yonden tháp tùng.
Về đến Le Havre ngày 10.05.1925, bà thừa hưởng danh tiếng một chuyên đi có một không hai. Báo chi đăng ngay trang đầu chi tiết hành trình 14 năm của môt phụ nữ Pháp một thân một mình đầu thế kỷ XX. Cuốn sách Vogage d'une Parisienne à Lhassa được xuất bản cùng lúc ở Paris, London và New York. Nhưng cũng có kẻ không tin sự tích của Alexandra, bảo là đặt bày (Alexandra David-Néel au Tibet, une supercherie dévoilée), cũng như tấm ảnh chụp trước Potala chỉ là một lắp ráp của các thợ ảnh. Về Pháp, Alexandra bắt đầu ở tạm trong một nhà nhỏ ở Toulon trước khi mua ở Digne năm 1928, dần dần xây rộng thêm và đặt tên Samten-Dzong có nghĩa là Pháo đài Đinh tâm, đền Tây Tạng đầu tiên trên đất Pháp. Năm 1937, 69 tuổi, cùng với Yonden, Alexandra trở lại Trung Quốc để khảo cứu vể lão giáo. Nhằm lúc chiến tranh Hoa-Nhật, giặc giả, đói kém, cực khổ lắm bà mới đạt được Tây tạng năm 1939 và ở lại Tatsienlou 5 năm. Đến 1946 bà mới trở về lại Digne. Ở tuổi 78, bà bắt đầu viết Textes thibétains inédits (1952), le Vieux Tibet face à la Chine nouvelle (1953). Năm 1955, bà đau đớn mất người bạn thâm niên Yongden, hỏa táng tạm giữ trong nhà thờ Samten Dzong. Giữa 1955 và 1956, bà không viết gì. Năm 1957, bà viết chương ba Initiations lamatiques. Năm 1966, Arnaud Desjardins cho xuất bản Le Message des Tibétains trước khi thức hiện một cuốn phim nhỏ. 2 ngày nhằm hôm lễ sinh nhật 100 tuổi Alexandra, một cuốn phim 12 phút đã được quây tại Digne. Năm 100 tuổi rưởi, Alexandra còn xin gia hạn thẻ thông hành Bà từ trần hôm 08.091969. Hỏa táng được đưa đi Varanasi năm 1973 để cùng rải rác trên sông Hằng với hỏa tán con nuôi Yongeon.
Suốt đời, Alexandra viết và cho xuất bản non 40 tác phẩm về Tây Tạng, về Phật giáo, kể cuộc sồng, hành trình quanh châu Á,...Những nhà khảo cứu viết hơn cả một chục bài về đời sống, suy luận của bà, trong số ấy có những sách về hình ảnh, cũng có vài bài không tin chuyện của bà, cho là phiêu lưu, bja đặt... Ngoài ra còn có nhiều truyện hình vẻ, hai buổi phát thanh, một cuốn phim tài liệu Alexandra David-Néel : du Sikkim au Tibet interdit, của Antoine de Maximy và Jeanne Mascolo de Filippis (1992), một cuốn phim Au pays des neiges với nữ diễn viên Dominique Blanc đóng vai bà, vở kịch Alexandra David-Néel, mon Tibet, của Michel Lengliney với Hélène Vincent trong vai chính (2100), vở kịch Alexandra David Néel, pour la vie của Pierrette Dupoyet (2003, Festival d'Avignon). Mất đi, tên tuổi bà còn ghi lại trên một con đường ở Massy, một bản quán trà cạnh Fondation David-Néel (1995), một giải thưởng văn chương Alexandra-David-Néel/Lama-Yongden, một trường trung học ở Digne-les-Bains, một cuộc viễn chinh xuyên Hy Mã Lạp Sơn của Priscilla Telmon từ Việt Nam qua Calcutta (2006), một đoạn trong loạt phim Il était une fois... les Explorateurs của Albert Barillé (1995), trong ấy bà là nhà thám hiểm phụ nữ độc nhất, khóa 2001 những những nhà bảo quản Viện quốc gia bảo quản, khóa 2001 Viện ngoại giao và lảnh sử bộ ngoại giao, hai trạm tramway ở Paris 20è và Saint-Mandé, một phòng đọc sách ở Nhà quốc tế Ngôn ngữ và Văn hóa Lyon. Cũng là lạ nhưng đang ghi là được tặng giải thưởng Monique Berlioux của Viện Hàn lâm thể thao : bà có mặt trong số 287 vĩ nhân thể tbao Pháp. Người dân Pháp cỏ thể tùy ý toàn vẹn hơn, nhiều hay ít nhân ngày bằng bà Patricia David-Néel ! Bà đi trước thời bà sống. Trong buổi nói chuyện truyền hình độc nhất năm 98 tuổi, bà định nghĩa triết lý : Đức Phật là người đã đạt đến nhận thức. Nhận thức gì ? Nếu tôi nói ra thì là không phải nhận thức nữa mà nhận thức của tôi không phải là nhận thức của mọi người.
 
 Nhà dưỡng lão La Faiencerie
Thành Xô 1.2019

(*) Ảnh ở Digne chup năm 2011 và lấy trong internet.

-Alexandra David-Néel : Une aventurière au musée Guimet 22.02-22.05.2017

-Marie Pujolas, Hommage à l'exploratrice Alexandra David-Néel, dans sa maison de Digne-les-Bains et au musée Guimet@Culturebox31.01.2017