Bản
đồ Hoàng thành Thăng Long thời Hồng Đức, năm 1490
(Nguồn:
Trung tâm Bảo tồn Di sản Thăng Long - Hà Nội)
Trên Tạp chí Xưa và
Nay số 80B tháng 10 năm 2000 có bài viết "Dấu ấn Thăng
Long Hà Nội (những năm đầu đến giữa thế kỷ XIX) của
tác giả Đinh Xuân Lâm, trong bài viết có đoạn:
"Nhằm mục đích hạ thấp
vai trò kinh đô cũ, để làm mất tư cách "quốc đô" lâu đời
của Thăng Long, năm 1805 triều Nguyễn ra lệnh phá hủy khu
hoàng thành cũ được xây dựng từ đời nhà Lê và cho xây
một tòa thành mới quy mô nhỏ hẹp hơn nhiều ngay trên vị
trí thành cũ..."(tlđd, tr. 10).
"Đến năm thứ nhất đời
Tự Đức 1848, lại hạ lệnh phá dỡ những vật liệu thuộc
cung điện cũ của nhà Hậu Lê ở trong thành, mang hết các
đồ chạm trỗ mỹ thuật bằng gỗ và bằng đá về Huế
để trang trí các cung điện trong đó, các di tích xây dựng
của các triều đại trước, vì vậy mất mác gần hết, chỉ
còn sót lại đôi rồng đá trước thềm điện Kính Thiên"(tlđd,
tr. 11).
Tìm hiểu thêm về quá trình
hình thành và sự tồn tại của thành Thăng Long trong các trang
sử cũ, chúng tôi thấy những nhận định đó rất cần được
nghiên cứu thêm. Dưới đây xin phép được trình bày với
một vài tư liệu gốc:
Về sự tồn tại của thành
Thăng Long, sách Đại Việt sử ký toàn thư bản kỷ tục
biên- Thế tôn Nghị Hoàng đế kỷ cho biết: từ
thời nhà Mạc, thành Thăng Long đã được tu sửa, nhưng đến
khi nhà Mạc bị diệt thì thành đã bị thiêu hủy vào năm
Quang Hưng thứ 15 (1592) . Sách chép:
"Quan quân thừa thắng đuổi
tràn đến tận sông. Phóng lửa đốt cung điện và nhà
cửa trong thành, khói lửa kín trời." (H1 tờ 29a).
|
|
(H1 tờ 29a)
|
(H2 tờ 29b)
|
Ở tờ 29b, sách chép:
"Ngày đấy, quân Mạc xác
chết gối lên nhau, lấp đầy hào rãnh, máu chảy trôi chày.
Chém đến hơn mấy nghìn thủ cấp giặc, tướng Mạc bị
chết đến mấy chục viên. Khí giới chất như núi. Cung điện,
nhà cửa ở kinh thành tiêu điều sạch không." (H2
Tờ 29b).
Trong cuốn "A Description of
the Kingdom of Tonqueen" (Mô tả Vương Quốc Đàng Ngoài) của
Samuel Baron xuất bản khoảng năm 1865, tác giả từng sống
ở Bắc Hà, do đó ông mô tả thành Thăng Long bấy giờ như
sau:
"Ba tầng thành cũ của thành
thị và hoàng cung, xem trong đống đổ nát trông vẫn có vẻ
đã từng là kết cấu chắc chắn. Triều đình của nhà vua,
hoàng tử, tướng lĩnh..., và tòa án được xây ở đây, tôi
chỉ có thể nói, nó được xây trên một dải đất rộng,
kết cấu chủ yếu bề ngoài làm từ gỗ. Tất cả các nhà
khác được dựng từ tre và bùn, không được chắc chắn
lắm, vài nhà gạch ngoại trừ cơ sở của người nước ngoài
nổi bật. Lạ lùng là, 3 tầng thành cũ của thành thị và
hoàng cung, xem trong đống đổ nát trông vẫn có vẻ đã từng
là kết cấu chắc chắn với cửa lớn quý tộc, được lát
bằng loại đá giống cẩm thạch. Hoàng cung rộng khoảng 6,7
dặm chu vi, cổng, sân, nhà... biểu lộ sự tráng lệ phù hoa
cũ của nó." (Sđd, tr.34).
Bên cạnh việc mô tả sự
tan nát của thành Thăng Long, tác giả cũng đề cập đến
phủ chúa:
"Cung phủ của vị chúa đóng
ở Kẻ Chợ, hầu như là ở giữa một thành phố chết. Nó
rất rộng, và có tường bao quanh, có hoặc không có dãy nhà
nhỏ dành cho tiện nghi của quân đội. Những nhà này có 2
tầng, hầu hết mở rộng để lấy không khí. Các cổng rất
lớn và trang nghiêm, tất cả đều bằng gỗ cứng như phần
lớn của cung điện." (Sđd, tr. 36).
Sách "A
Description of the Kingdom of Tonqueen".
Qua đó, ta có thể hình dung
rằng, dưới thời nhà Lê bấy giờ điện Kính Thiên là điện
thờ, và triều đình chỉ sử dụng mỗi điện Cần Chính,
các điện xung quanh sập hết. Cho đến đời Lê Hiển Tông
(174—1787), Hoàng thành ngày càng đổ nát, xuống cấp hơn.
Sách Tang thương ngẫu lục
do Phạm Đình Hổ và Nguyễn Án biên soạn chép lại những
việc từ khoảng cuối Lê trở về trước. Đây là đoạn
chép vào năm Cảnh Hưng, Ất Tỵ 1785 :
"Bấy giờ, việc chầu trong
triều đường bỏ bễ từ lâu; nền điện cũ ở núi Nùng
bỏ làm điện Kính Thiên, thờ Hiệu Thiên Thượng Đế (giời),
Hậu Thổ Địa Kỳ (đất) và phụ phối Đức Thái Tổ Hoàng
Đế. Những ngày mồng một và rằm, vua ra coi chầu ở điện
Cần Chính. Viện Đãi lậu ở hai bên điện ấy nối nhau
sụp đổ, cỏ mọc lên thềm ngập đến đầu gối, cứt ngựa
vấy ra bừa bãi..."(H3 sách Tang thương ngẫu lục).
H3 sách
Tang thương ngẫu lục
Bìa sách
Tang thương ngẫu lục
Thực tế là, sau khi nhà Mạc
bị diệt, Hoàng thành chỉ được sửa trong vòng 1 tháng để
đón vua Lê về. Còn cung điện mới xây đều nhằm vào phủ
chúa Trịnh. Ngoài ra, thời Lê trung hưng, trong hơn 100 năm,
Thăng Long không có cả vòng thành Đại La. Mãi đến thế kỉ
XVIII, để chống lại khởi nghĩa nông dân, Chúa Trịnh mới
cho xây thành Đại Đô theo nền thành Đại La. Sách Tang
thương ngẫu lục cũng cho biết":
"Năm Cảnh Hưng 6 (1745 Tháng
7, mùa thu. Sửa đắp, thành bằng đất ở thành Đại Đô.
…Trịnh Doanh bèn hạ lệnh: Xem xét địa thế trong kinh
kỳ, liệu lượng công trình đắp đất, số dân phu phải
làm; rồi bắt dân các huyện chung quanh kinh kỳ góp sức sửa
đắp. Khi đắp xong, mở tám cửa, mỗi cửa đặt hai ô tả
và hữu, phân phối binh lính canh giữ để phòng bị lúc yên
ổn, lúc nguy cấp."(H4 Tang thương ngẫu lục).
H4 sách
Tang thương ngẫu lục
Đến giai đoạn Tây Sơn lấy
danh nghĩa phò Lê diệt Trịnh, và sau khi chiếm lĩnh Bắc Hà,
nhà Tây Sơn cũng đã tu bổ lại. Sách Khâm Định Việt
Sử Thông Giám Cương Mục Chính Biên quyển 40 chép:
"… Xét thành Thăng Long vốn
là kinh đô cựu triều, lâu năm nghiêng núng, khi nhà Tây Sơn
chiếm giữ, theo nền cũ đắp thành vòng từ cửa Đông
Hoa đến cửa Đại Hưng…"(H5 sách Khâm Định..., phần
khung đỏ).
H5 sách
Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục
Điều đó có nghĩa là 2 vòng
thành cũ đến đây có thể chỉ còn lại… 2 cái cửa, và
nhà Tây Sơn chỉ đắp lại có nửa thành mà thôi. Cho nên
đến thời Gia Long (1802-1820), nhà vua vẫn tiếp tục tu sửa
lại: "Sau khi Quang Toản bị bắt đến đấy mới đắp lại,
chu vị 1295 trượng, cao 1 trượng 3 thước 2 tấc." (H5 sách
Khâm Định..., phần khung cam).
Sau khi thống nhất đất nước,
năm Quý Hợi (1803), Hoàng thành Thăng Long được tiếp tục
sửa sang lại, đồng thời cho đổi tên: Thăng Long (升龍
: rồng bay lên) đổi thành Thăng Long (升 隆 : thịnh
vượng). Sách Đại Nam thực lục chính biên đệ nhất kỷ,
quyển
24, chép:
"Vào năm Bính Tý (1816), vua
Gia Long cho sửa hành cung Bắc Thành và làm lại điện Kính
Thiên. Năm 1819, khi tu sửa thành Thăng Long, vua Gia Long cho tu
sửa thành Thăng Long, sai 5.300 người ở Ngũ quân và Tượng
quân ở Bắc Thành sung vào làm việc, miễn cho năm nay không
phải về Kinh, hưởng tiền 35.000 quan, gạo 35.000 phương. Đến
triều vua Minh Mạng, vào năm Minh Mạng thứ 12 (1831), Vua cho
đặt tỉnh Hà Nội có 4 phủ, 14 huyện: phủ Hoài Đức lĩnh
hai huyện Thọ Xương, Vĩnh Thuận; phủ Ứng Hòa lĩnh 4 huyện:
Sơn Minh, Hoài An, Chương Đức, Thanh Oai; phủ Lý Nhân lĩnh
5 huyện: Bình Lục, Kim Bảng, Duy Tiên, Thanh Liêm, Nam Xương;
phủ Thường Tín lĩnh 3 huyện Thượng Phúc, Thanh Trì, phú
Xuyên. Năm Ất Mùi (1835), vua Minh Mạng cho thay đổi kiến trúc
thành tỉnh Hà Nội. Thành tỉnh Hà Nội ở huyện Thọ Xương,
phủ Hoài Đức, chu vi 1385 trượng 4 thước 2 tấc, cao 1 trượng,
2 thước, 2 tấc, xây bằng gạch đá, 5 cửa, một kỳ đài;
hào rộng 9 trượng 5 thước; nguyên trước là thành Thăng
Long, đắp năm Gia Long thứ 4, năm Minh Mạng thứ 16 chuẩn y
lời đề nghị đổi là thành tỉnh Hà Nội nguyên cao 1 trượng
3 thước, giảm làm 1 trượng 2 thước 2 tấc".
Mộc bản
sách ĐNTL chép việc vua Gia Long cho xây dựng thành Thăng Long,
năm Quý Hợi (1803) ( Nguồn: Trung tâm Lưu trữ quốc gia IV).
Sự việc vua Minh Mạng đã
bớt đi chiều cao của thành cũng được cụ Nguyễn Văn Siêu
chép trong sách Phương Đình Dư Địa Chí :
"Lại thấy thành (Thăng Long)
cũ không đúng khuôn phép, đắp lại. Xét thành Thăng Long vốn
là đô cũ của các triều, lâu năm nghiêng núng, khi nhà Tây
Sơn chiếm giữ, nhân nền cũ đắp thành vòng từ của Đông
Hoa đến của Đại Hưng mới đặt quan trấn giữ. Năm Tân
Dậu quân nhà Nguyễn tiến lấy kinh Phú Xuân, Nguyễn Quang
Toản bỏ thành chạy ra Thăng Long, năm sau bị bắt, đến đây
mới đắp lại, chu vi 1 295 trượng, cao 1 trượng 3 thước
2 tấc. Năm 16 niên hiệu Minh Mạng, bớt đi 1 thước 8 tấc,
trong thành xây dựng Hành cung". ( Phương Đình..., sđd, tr.
365).
Qua đó ta thấy nhà Nguyễn
tự
xây thành cao, rồi tự bớt chiều cao thành, chớ không
phải hạ thấp thành có từ nhà Lê để thấp hơn thành Huế.
Sau đó, lại nhân việc tiếp
sứ Bắc, nhà vua đã lệnh cho xây thêm. Sách Đại Nam thực
lục Đệ Nhất kỷ quyển 19 chép:
"Vua cho sự thể bang giao
là một việc quan trọng, hạ lệnh cho quan Bắc Thành noi theo
việc cũ của triều Lê, xây thêm điện vũ (Đặt điện Cần
chánh ở bên trong năm cửa trước điện Kính Thiên, ngoài
cửa điện Cần chánh dựng một cái rạp dài, đằng trước
đặt cửa Chu Tước) và nhà tiếp sứ ở bên sông". (H
6)
H6 Sách
Đại Nam thực lục
Qua đó ta thấy, giai đoạn
sau khi Nguyễn Ánh đánh bại nhà Tây Sơn và thu phục thành
Thăng Long, hầu như thành đã chẳng còn gì nữa. Mặc
khác, nhà Nguyễn đã tu bổ thành ấy qua nhiều triều vua,
cũng như bổ sung thêm các điện đài. Sách Đại Nam nhất
thống chí soạn thời Tự Đức chép:
"Bản triều đầu đời Gia
Long lấy làm lị sở Bắc Thành... Năm thứ 4, sai quan đốc
sức việc xây đắp, trong thành dựng kỳ đài và hành cung
với 2 điện chính, một tả vu, một hữu vu; mặt sau dựng
3 tòa nội điện, sau điện dựng lầu Tinh Bắc, quanh nội
điện đều xây tường gạch; lại đằng trước chính điện
xây đường ống bằng đá thẳng đến Đoan Môn, có biển
khắc bằng đá hai chữ "Đoan Môn", đây là di tích từ đời
Lý; ngoài cửa dựng đài bia, xây kỳ đài, quy mô rộng lớn."(ĐNNTC
tập 3, sđd, tr. 291-202).
Dưới thời vua Thiệu Trị
(1841-1847), sách Đại Nam thực lục chính biên đệ tam kỷ,
quyển 14 đã ghi chép vào năm Tân Sửu 1841, nhà vua đã cho
"Dựng hành cung ở Hà Nội và quán sứ ở Bắc Ninh và Lạng
Sơn. Hành cung ở Hà Nội: trước điện Kính Thiên dựng điện
Thị Triều, điện Cần Chính, đều lợp ngói. Ngoài cửa Ngũ
Môn làm nhà rạp dài liền nhau, đằng trước là cửa Chu Tước.
Bờ phía nam sông Nhị, làm nhà Công quán, lợp ngói; bờ phía
bắc, từ nhà quán sứ ở Gia Thuỵ đến các trạm tiếp đón
sứ thần ở Lạng Sơn gồm 7 sở, chỗ nào cũng làm một cái
nhà lợp ngói ở chính giữa. Còn các toà nhà ở trước sau
và hai bên tả hữu chỗ hành Cung và quán sứ thì đều dùng
gỗ tạp, lợp cỏ tranh".(ĐNTL T6, sđd, tr. 141); và tháng
Chạp năm đó đã "Cho đổi tên điện Kính Thiên ở Hà
Nội làm điện Long Thiên". (ĐNTL T6, sđd, tr. 276).
Trong suốt thời gian trị vì
của vua Tự Đức (1847-1883), tra cứu trong sách Sử Quốc
Triều chính biên toát yếu, chúng tôi không thấy ghi chép
gì về việc nhà vua hạ lệnh phá dỡ thành Thăng Long cả.
Tóm lại, qua những tư liệu
đó ta thấy việc cho rằng "triều Nguyễn ra lệnh phá hủy
khu hoàng thành cũ được xây dựng từ đời nhà Lê" và
vào năm 1848, tức ngay sau khi lên ngôi, vua Tự Đức đã "hạ
lệnh phá dỡ những vật liệu thuộc cung điện cũ của nhà
Hậu Lê ở trong thành, mang hết các đồ chạm trỗ mỹ thuật
bằng gỗ và bằng đá về Huế..." như tác giả Đinh Xuân
Lâm đã viết ở trên là hoàn toàn suy diễn, không đúng với
sự thật.
******
TÀI LIÊU THAM KHẢO
- Đại Việt sử ký toàn
thư bản kỷ tục biên, Nxb Văn Hóa TT, 2011.
- Mô tả xứ Đàng Ngoài,
Samuel Baron, Hoàng Tuấn Anh dịch, Nxb KHXN, 2019.
-Đại Nam thực lục (T1-T6),
Quốc Sử Quán triều Nguyễn, Nxb Giáo Dục, 2007.
- Khâm Định Việt Sử Thông
Giám Cương Mục T2, Quốc Sử Quán triều Nguyễn, Nxb Giáo Dục,
2007.
- Phương Đình Dư Địa Chí,
Nguyễn Văn Siêu, Ngô Mạnh Nghinh dịch, Nxb VHTT, 2001.
- Đại Nam Nhất Thống Chí
T3, Quốc Sử Quán triều Nguyễn, Nxb Thuận Hóa, 2006.
- Tạp chí Xưa & Nay số
80b, tháng 10/2000. |