Tôi
về trong một buổi chiều hanh nắng. Cơn mưa rào vừa dứt,
thỉnh thoảng vài hạt lắc rắc rơi trên tấm kính xe như
dọa dẫm tôi: "À há, bữa ni mi lại về Huế, tau cho mi biết
tánh tình khắc nghiệt và vô chừng của tau, người mà mi
e sợ, người mà mi khiếp đảm nhìn qua khe ván trong căn nhà
rường nghiêm trang và cô quạnh..."
Tia nắng vàng xuyên qua bụi
trúc thì thầm: "N. ơi, đừng để ý tới mụ O già ế chồng
nớ, ta sẽ dẫn con về trên con đường kiệt xanh tươi, ta
sẽ dẫn con đi trên cái cầu tre lắt lẻo, nắm tay con thật
chặt như con bé ngày xưa lắt lẻo đuôi gà chạy tung tăng
bên ta mỗi lần ra chợ..."
Đám mây xám nhạt cuồn cuộn
bay nhanh sau lũy tre, những mái chùa cong cong rực rỡ, trang
trí hoa mỹ thấp thoáng bên đường lộ.
"Chào cô chú, cô chú lại về
Huế chơi lần nữa..." Tôi mỉm cười bâng quơ không trả
lời, để Tuấn làm các công việc giao tiếp, công việc của
tôi chỉ là mơ mộng. Tuấn cũng hiểu thế, chuyến nào anh
về Huế là cũng vì chiều theo ý tôi.
Sông Hương
"Huế vừa mới lụt xong cô
chú à, lần này không lớn, nước chỉ xăm xắp, tuy nhiên
con sông Hương mình bị đỏ, không biết khi mô mới trong lại
được."
Tôi đưa mắt buồn rầu nhìn
dòng nước đỏ ngầu chảy dưới chân cầu, vài chiếc thuyền
mong manh lướt trôi trên dòng. Từ lan can phòng ngủ, tôi chống
tay lên má, nhìn qua cầu Tràng Tiền, giờ này thiên hạ vừa
bãi sở, trên cầu lúc nhúc xe gắn máy và xe đạp. Bên kia
là chợ Đông Ba, tôi mơ màng tưởng tượng ra dáng mẹ gầy
guộc, mong manh như liễu, tay nắm chặt hai con bé gái tóc thắt
bím hai bên, ngồi trong lòng thuyền. Một con bé ấy là tôi
đấy, bao nhiêu năm về trước, những năm rất ngắn ngủi
nhưng đã thắt chặt đời tôi với xứ Huế oan kiên.
Đường
quê
Mở cửa xe bước xuống, những
đôi mắt chòm xóm láng giềng thấp thoáng ẩn dấu trong những
khe cửa, sau các tấm liếp đã nhận ra tôi. Bầu không khí
tuy âm thầm nhưng những làn điện thông tin đã rèn rẹt chạy
trong không gian. Tôi cảm nhận điều ấy vì đột nhiên có
nhiều bóng người lảng vảng qua lại đầu ngỏ. Tôi thò
đầu vào khung cửa tối tăm nhỏ hẹp gọi vang:
"Chú ơi, chú có nhà không?"
"Ơi, đứa mô rứa? Con N. đó
hỉ? Về khi mô rứa?" Tôi biết chú ngạc nhiên nhưng chú không
tỏ lộ ra. Trí óc chú chỉ có một chiều, mà cái chiều ấy
nó chỉa về phương nào thì không ai đoán được.
Thấy chú lục đục tận trong
xa, tôi rướn cổ nhìn vào căn phòng tối.
"Chú đang làm chi rứa?"
Hai tay chú đang dầm trong thau
nước, cầm một đồng tiền xưa lớn hơn bàn tay tôi, chú
đang chùi rửa, mài giũa một cách thận trọng.
Chú chìa đồng tiền ra cho
tôi xem:
"Nì, mi đoán thử đồng tiền
ni được mấy lượng?"
Tôi thò tay cầm đồng tiền
sáng loáng, màu giống như đồng xu mới của Mỹ.
"Con không biết mô!"
"Thì mi cứ đoán thử."
"Bốn lượng"
"Trật lất, đồng tiền vàng
ni nặng tới sáu lượng, mà mi có biết một lượng vàng là
mấy không?"
Biết ông chú mình có bệnh
tâm thần, tôi tính kế thoát thân một cách khôn khéo, biết
rằng thế nào ông cũng nhờ mình đem đồng tiền kẽm đi
bán cho ông để ông lấy đô la.
"Con không biết giá vàng vì
có đeo vàng vòng chi mô?"
"Mi cứ cầm ra tiệm hỏi cho
chú".
"Thôi chú ơi, đồng tiền ni
có giá trị lắm, chú giữ cho kỷ, con cầm đi lỡ mất thì
phiền".
"Ừ thôi, để tau cho mi thứ
ni, mi đi bán lấy tiền tiêu vặt".
Chú quay vô buồng, lục lọi
mấy phút, cầm ra một cục kim khí màu đồng, móp méo như
ai lấy mấy lá vàng ròng mà vo lại cho nhăn nheo.
"Mi đem cái ni về bên nớ mà
bán".
Tôi lắc đầu từ nan:
"Con không cầm đi được, lỡ
bị quân gian theo dõi, hắn cắt cổ ăn cướp vàng thì mệt
lắm, mà nếu không gặp quân gian, qua phi trường người ta
cũng lấy mất".
Nghe lời tôi chí lí, chú lục
đục đem vàng đi cất.
O Sa, người đàn bà góa chú
cho ở trọ trong góc vườn biết tôi về, bưng qua một khay
trà thơm ngát. O rót cho tôi một tách trà sen trong cái chén
hột mít rất dễ thương nhưng đã sờn cũ lắm. Nhìn cái
chén con thanh nhã trên tay, tôi ngậm ngùi nhớ lại những ngày
xa xưa, tựa bên sập gụ, nhìn ông nội uống trà. Những lúc
ấy đôi mắt ông xa xăm chi lạ, chắc ông cũng đang nhìn vào
một quá khứ nào huy hoàng và hùng tráng lắm.
"Chà, chị lại đem áo quần
về cho ôn nữa, ôn có thiệt nhiều áo quần đẹp".
O Sa nhìn bao quà tôi đem về
cho chú. Chú khoác tay:
"Tau cần chi áo quần mà bây
đem về cho mệt".
"Trong nớ có mấy thứ chú
thích chớ mô phải là áo quần thôi, có mấy cây viết cho
chú viết, có hình ảnh, và có cái cặp bằng da để chú cất
các giấy tờ quan trọng..."
Tôi bông đùa:
"Khi mô chú viết di chúc cho
con thì cất vô trong nớ cho khỏi ướt".
Chú gật đầu:
"Phải rồi, mấy thứ nớ thì
được."
Chú bổng trầm ngâm nhìn tôi:
"Mấy đứa bây có khi mô muốn
về đây ở không?"
Tôi ngẫm nghĩ, nói sự thật
thì sợ chú buồn, tương lai của tôi không có chữ Huế, mà
xứ Huế trong tâm tư tôi thì toàn là các nỗi dằn vặt quá
khứ. Một mai khi chú không còn nữa, tôi còn lưu luyến Huế
hay chăng?
"Bây giờ con chưa biết chú
à, biết mô khi già rồi thì lại có quyết định khác!"
"Rứa còn mấy đứa kia, con
D. thằng H. ???"
Làm sao tôi trả lời cho chú
được khi H. đã nặng nợ vợ con, đang xây dựng cuộc đời
cho mấy đứa con trên vùng đất mới. Làm sao giải thích cho
chú hiểu rằng D. đang thành khẩn nguyện cầu cho chóng được
ra đi, để hy vọng từ bỏ được nếp sống cơ hàn, mấy
mươi năm không ngóc đầu lên nổi.
"Chú ơi, con thật không biết
tụi nó muốn gì cả."
Trong thâm tâm chú, từ một
ngõ ngách sáng suốt nào đó trong trí, chú cương quyết ôm
chầm mảnh đất bà Cố để lại, mấy mươi năm chính quyền
và xóm giềng manh tâm chiếm đoạt nhiều lần nhưng vô hiệu.
Tuy
chú bị trêu ghẹo vì bệnh tâm trí nhưng bệnh của chú là
bệnh "Autistic Savant"(1),
chú chọn lựa cho mình những lối suy tư kỳ lạ, chú thông
thái tiếng Tây, tiếng Mỹ và tiếng Nhật, chú viết những
tập bản thảo dày cộm về kinh tế, chính trị và thị trường
chứng khoán rồi dấu trong cái rương gỗ to có ràng dây xích,
không cho ai thấy trừ tôi ra, vì chú muốn tôi đem đi xuất
bản cho chú. Anh Thu, người cháu rể sống bên cạnh nhà cười
ngặt nghẽo khi kể cho tôi nghe những điều ngộ nghĩnh về
chú:
"Chị biết không, năm ngoái
lụt rất lớn, em bơi xuồng về nhà thấy chú ngồi ôm cái
rương không chịu đi. Chú noái là mi phải đem cái rương ni
đi thì tau mới đi, không thôi tau ngồi đây tau chết".
Thằng Bi, con anh kể:
"Mỗi lần cô gửi tiền về,
cháu đều ký nhận giùm ôn nhưng ôn hay lấy tiền đi mua đồ
tầm bậy phí lắm, mua trái cóc, trái ổi về để cho hư thúi
chơ có ăn uống chi mô. Ôn thương tụi cháu lắm nhưng ôn
chỉ nghe lời con bé Ly thôi. Chỉ có hắn mới kêu ôn đi tắm
rửa được, mấy năm ni hắn lớn, bận học hành bè bạn
nên không tắm cho ôn nữa cho nên ôn không bao giờ tắm. Ôn
dữ lắm, ôn không cho bé Ly có bạn trai, đứa mô tới chơi
thấy ôn cầm cái đùi (2),
đi qua đi lại là bữa sau hết dám tới. Hôm nọ, bạn gái
con Ly, tóc ngắn, tới học bài chung, trời chạng vạng, ôn
không thấy đường, ôn chỉ thấy hai cái đầu chụm vô nhau,
ôn giơ cái đùi lên tính đập, may thay bọn hắn thấy được,
la lên nên ông đập hụt, chút nữa thì bể đầu...
Chuyện tụi nhỏ kể làm tôi
cười chảy nước mắt.
Vẫn loay hoay gọt giũa đồng
tiền, chú ngước mắt nhìn tôi:
"Rứa mi có biết Bác Toàn mất
rồi không? Mi về đám bác Toàn hả?"
"Không, con không biết bác Toàn
chết, con về đây để thăm chú, nhưng chắc phải qua viếng
tang gia".
"Có con bác là anh Hoàng bên
Mỹ về lo đám cho bác, chắc túi ni mới tới".
"Nếu rứa thì mai con qua phúng
điếu". Hôm qua, trước khi đến Huế anh Tuấn nhẹ nhàng nhắc
nhở tôi:
"Lần này về Huế, em nên hỏi
chú cần thứ gì, đem chú đi phố mua sắm cho chú, dẫn chú
đi ra tiệm ăn, chớ mấy lần trước anh thấy em chẳng làm
gì cho chú cả".
Tôi ậm ừ cho anh vui lòng nhưng
hiểu rằng, anh nói thế vì anh không biết chú nhiều. Riêng
tôi, tôi biết chú sẽ không bao giờ đi cùng tôi mua sắm và
ăn uống như những người bình thường khác. Tôi và các em
tôi chẳng phải là những người đã thay ba mạ để lo lắng
cho chú mấy mươi năm qua hay sao. Chúng tôi là ngân hàng của
chú, là những tên chú đem ra dùng như thẻ tín dụng tại
các quán tạp hóa để lấy gạo, lấy mắm, lấy thuốc xịt
muỗi...Trong mấy mươi năm, cái ngân hàng tại Mỹ Quốc của
chú chẳng bao giờ để chú cạn tiền. Tuy nhiên tôi cũng mời
chú đi ăn cho anh Tuấn vừa lòng.
"Không, tau mắc việc không
đi được!"
"Rứa ngày mai chú có muốn
qua nhà bác Toàn không, con cho xe tới rước đi".
"Không, mi đi với anh Thu đi".
Biết tánh chú, tôi không nài
nỉ nữa.
Đò trên
sông Hương
Tối hôm ấy, ngồi ăn bên bờ
sông Hương với gia đình anh Thu, tôi tò mò hỏi anh:
"Có khi mô chú đi ra khỏi nhà
không anh?"
"Có chơ, thỉnh thoảng chú
đi ra chợ Cống mua sắm, khi nào trong họ có ai chết thì chú
đi đưa đám một khúc rồi về."
Thằng Bi cười ngắt nghẻo:
"Mỗi dịp đầu năm ôn đi
cúng trong Tôn Nhân Phủ (3),
ôn mặc áo dài the đen, quần trắng, đội khăn đóng, mang
giày da và xịt nước hoa thơm phức. Ôn kêu một chiếc xích
lô, trả thật nhiều tiền, bắt chở ôn đi chơi cả ngày,
tới tối mới về. Mỗi năm một lần như rứa."
"Nước hoa ôn mua hả?"
"Không, mạ cháu bán còn dư
đem cho ôn dùng".
"Ừ, ôn không tắm nên cần
phải xịt nhiều nước hoa, rứa là ôn giống các người Pháp
ở Paris đó". Tôi trả lời cho Bi và mọi người cười khúc
khích.
Tôi đưa mắt nhìn ra cầu Tràng
Tiền, dạo này vì mục đích làm đẹp cố đô, thành phố
được dọn dẹp khá sạch, các công viên cây cỏ xanh tươi,
ban đêm mười hai nhịp cầu được bắt đèn màu, thay đổi
màu sắc rất đẹp. Tôi hình dung chú tôi, một ông già rất
Huế, thanh nhã và thượng lưu trong bộ áo dài the, quần lĩnh
trắng, khăn đóng chững chạc bước dưới cửa Ngọ Môn,
hoài vọng lại một thời hoàng kim xa tít. Tâm trí chú lúc
ấy nghỉ gì, nhớ gì, tôi không thể nào tưởng tượng ra
cả.
Hòa Nam trước
chùa Diệu Đế
Tôi đi chơi với Hòa Nam, người
con gái Huế tôi vừa gặp qua sự trung gian của cô tiếp tân
trong khách sạn.
"Để em kêu bạn em, đến chở
chị đi chụp ảnh, chiều hắn mới đi làm".
Hòa Nam mặc áo dài hoa cà,
chở tôi trên chiếc xe gắn máy của cô và hai đứa chạy
qua Bao Vinh. Chiếc ba lô máy ảnh và chân ba càng treo trên lưng,
tôi ôm hờ vòng eo bé nhỏ của cô cho khỏi ngã trong khi cô
khéo léo chạy len lỏi trong đám xe gắn máy và xe đạp trên
các con đường nhỏ hẹp. Qua phố Bao Vinh, tôi thất vọng
vì các căn nhà cổ không còn nữa, rải rác một vài nhà còn
sót nằm lạc lõng bên những căn phố tân trang. Qua khỏi cầu
Bao Vinh, chúng tôi ngừng tại một cổng Tam Quan, tôi và Hòa
Nam gửi xe rồi lội bùn vào bờ sông. Thấy không có cảnh
đẹp, tôi băng qua đường vào chùa Ông. Một người đàn
ông câm điếc trong chùa chạy ra múa may loạn xạ, ý muốn
chúng tôi vào chùa lể Phật, nhưng tôi chỉ muốn vãng cảnh
chùa bên ngoài và chụp vài tấm ảnh thôi nên anh ta giậm
chân tỏ ý thất vọng lắm.
Cầu ngói
Thanh Toàn
Rời chùa, tôi và Hòa Nam tìm
thuyền qua sông. Nơi bến thuyền một nhóm phụ nữ đi buôn
đang ngồi chờ thuyền chuyện trò vang rân, mi tau ỏm tỏi.
Mấy đứa học trò cũng kiên nhẫn chờ và đem cả xe đạp
theo. Giá qua sông chưa tới mười xu, thuyền rất bẩn vì chở
đủ thứ kể cả đất cát. Hòa Nam chỉ cho tôi thấy con rắn
nước đang ngoằn ngoèo bơi lội, tôi trèo lên thuyền một
cách thận trọng, không muốn lọt xuống sông để bơi cùng
con rắn ấy. Qua bên kia sông, chủ thuyền bảo tôi:
"Cô có muốn thuê chiếc thuyền
kia đi chơi trên sông không? Hai mươi ngàn thôi". Ông ta chỉ
vào một cái thuyền khác, có mui và băng ghế.
Hai mươi ngàn đồng chỉ tương
đương với 1.25 đô la Mỹ nên tôi đồng ý. Tôi và Hòa Nam
đổi thuyền, thuyền bơi dọc ven hai bờ sông, tôi chụp ảnh
thật là thỏa thích.
Rời Bao Vinh, tôi đi ven sông,
chụp ảnh các đứa trẻ sống trên thuyền. Hòa Nam cho tôi
biết là những đứa trẻ này thường rất nghèo, quanh năm
suốt tháng sống trên thuyền và ít đứa được đi học.
Thấy tôi cầm máy ảnh, bọn chúng vui vẻ leo lên mũi thuyền
vẫy tay và làm điệu bộ. Có những bé gái nhỏ thật xinh
xắn dễ thương nhảy theo tôi thoăn thoắt từ thuyền này
qua thuyền khác. Mấy đứa bé nhỏ xíu mới chập chững biết
đi, không theo chị được, ôm cửa khóc lóc inh ỏi làm các
bà mẹ trong khoan tò mò, chui ra nhìn chúng tôi.
Tôi và Hòa Nam vô chùa Diệu
Đế, một người đàn bà đứng tuổi nhìn Hòa Nam:
"Màu áo dài tím dễ thương
lắm." Nhìn lên khuôn mặt đơn sơ hiền lành của Hòa Nam bà
tiếp lời.." rứa mới tỏ ra cái hạnh (4)
của gái Huế." Tôi mỉm cười nhìn bà cám ơn thay cho Hòa
Nam vì biết cô đang mắc cỡ. Chao ôi, khó cho tôi thật, làm
sao tôi diễn tả được cái hạnh của người con gái Huế
trong tác phẩm mình? hay tôi chỉ tả được những khuôn mặt
ngây thơ của lũ trẻ con nghèo đang sống hồn nhiên một cuộc
đời sông nước.
Tôi và Hòa Nam đi ăn cơm trưa
tại một quán ăn ven đường rất đông khách. Nơi đây Hòa
Nam và các bạn cô thường ghé ăn trưa nên tôi không ngại
ngùng chi mà cũng nhào vô cái bàn trống, kéo hai cái ghế nhựa
xanh. Hòa Nam kêu cá thu kho lạt, rau muống xào, thịt heo, mắm
tôm, dưa giá cho tôi ăn cơm. Cô dịu dàng lau muỗng đũa trong
khi tôi chăm chú tò mò nhìn các món ăn dọn ra cho các thực
khách khác, tôi nhìn những khuôn mặt Huế ấy như hy vọng
tìm thấy hồn mình vương vấn đâu đây. Trên bàn, muỗng
đũa để sẵn, khăn mặt thơm ngát, nước rót sẵn sàng. Tôi
nhìn gương mặt Hòa Nam và chân thành bảo cô:
"Cô làm tôi ước mong có được
cô con dâu Huế".
Cái hạnh của con gái Huế
là như vậy, phải không bà cụ Huế tôi thoáng gặp bên đường?
Hôm nay đi chơi, dù chẳng quen biết chi tôi nhiều, thế mà
Hòa Nam cứ dành trả các khoảng phí tổn lặt vặt bằng những
tờ giấy bạc trong cái ví khiêm tốn của cô. Thấy vậy tôi
bảo cô cứ trả hết mọi thứ rồi tôi sẽ gửi lại cô
sau cuộc đi chơi. Tôi nhờ cô cho tiền những kẻ xin ăn tội
nghiệp, các đứa trẻ vòi tiền ăn kẹo. Có bà cụ già ngồi
đơn côi bên hiên đã vui vẻ cho tôi chụp ảnh. Mấy anh thợ
mộc đang làm hòm thấy vui vui nên ngừng làm việc, họ nhao
nhao trêu cụ:
"Mệ cười đi cho đẹp nghe
mệ..., bữa ni mệ được làm tài tử điện ảnh ..." Nụ
cười mệ hiền lành, nhưng trên khuôn mặt nhăn nheo của mệ
tôi thấy một nỗi u buồn phảng phất.
<> <> <>
Hòa Nam đưa tôi vào thành nội
để mua bánh su sê và bánh ít đen, mấy món tôi ưa thích,
thấy cổng thành cổ kính, tôi nhờ cô ngưng lại cho tôi chụp
ảnh các cô gái đi xe đạp trên đường phượng bay.
Tôi chụp ảnh Hòa Nam trước
cổng thành xám đen rêu phủ, màu áo hoa cà tươi đẹp như
một điểm thanh tú trên nền đá xám cổ xưa. Thì ra tôi đang
mải mê đi tìm cái linh hồn cố đô mà cái hồn ấy đã và
đang bao phủ tôi bằng bàn tay linh diệu, êm ái như những
giọt mưa thu trên tầng tháp cổ, tươi mát như những lá phượng
xanh đang cùng nhau rải lá trên mái tóc thề của Hòa Nam.
Trước khi về khách sạn tôi
dúi vào tay Hòa Nam tờ giấy bạc để trả các phí tổn tôi
đã nhờ cô gánh vác, bảo cô giữ cả tờ giấy bạc, cô
nhìn tôi từ chối:
"Cô cho em nhiều quá không được,
em chỉ muốn giúp chở cô đi chơi cho vui thôi!!!"
Tôi mỉm cười:
"Cô cứ giữ đi, sắm cho mình
một món quà lâu nay cô từng ước mơ nhưng chưa có, cho cô
món quà này cũng như tôi cho con gái tôi, có giữ lại tôi
cũng tiêu đi mất"
"Vậy thì em cám ơn cô".
Tối nay Thảo, cô em họ ở gần
bên chú tôi, đóng cửa hàng, về sớm để đi ăn tối. Nửa
bữa cơm, sau món cá trê đồng nướng ăn với dưa môn, Thảo
nói:
"Chị đừng lo lắng quá cho
Chú, tuy tâm trí chú như rứa mà thể chất chú còn rất khỏe
mạnh. Khi chú bệnh, chú viết tên thuốc ra tờ giấy, biểu
O Sa cầm tiền đi mua, chú cầm từng viên thuốc lên, đọc
tên cẩn thận rồi mới uống, chú sợ người ta bỏ thuốc
độc. Chú ăn cơm nhiều và khỏe, có cái là hay ăn các thứ
tả pí lù, thứ chi cũng trộn đại vô với nhau rồi mới
ăn..."
"À thì ra đó là cái món màu
đen đen chú mời tôi ăn lúc chiều"
"Rứa chị có ăn không? Đau
bụng chết!"
Tôi cười:
"Ai mà dám ăn!"
"Rứa chị thấy mấy chục
chai thuốc xịt muỗi bên chái không?"
"Có, thuốc mô mà nhiều rứa?"
"Chú mua đó, chú xịt lung tung,
hít vô phổi hoài mà sao thấy cũng mạnh khỏe. Hôm nọ chú
bị cái mụt lớn trên lưng, không mặc áo được vì đau lắm,
chú lấy thuốc xịt muỗi xịt vô, rứa mà lại lành".
Thảo rùng mình:
"Thấy chú làm nhiều chuyện
bắt dễ sợ".
Tôi nhìn Thảo:
"Thế nhưng Thảo thấy chú
có vui vẻ không?"
"Thì chú cũng vui vẻ bình thường,
chú hay nhắc tới các anh chị lắm".
Tôi nhìn bâng quơ ra dòng sông
Hương tối đen, vài chiếc đèn hoa đăng còn dật dờ trôi
trên mặt nước, nghe giọng mình rẩy run, vắng xa như từ
miền nào vọng lại:
"Chú vui vẻ là được rồi".
Hoàng Thành
Buổi sáng tôi đến chào chú
ra đi, chú cầm cái áo len của mình ra đưa cho tôi:
"Mi cầm cái áo ni lên máy bay
mặc cho ấm"
"Không, bên ni trời nóng lắm
con không mặc áo len được"
"Cái ni là của tau cho mi, mi
không lấy tau từ mi, lần sau không gặp mi nữa". Đôi mắt
chú ướt nhòe, tôi vội vã cầm cái áo trên tay.
Chợt chú đổi giọng, tươi
tỉnh:
"Mi có biết Bill Clinton là cháu
của chú không? Hắn không đem con Chelsea về thăm chú chi cả,
mi về bên nớ, đem con Chelsea qua đây thăm tau".
"Dạ được rồi, thôi con xin
phép chú con đi, về bên nớ con phải đi làm thêm giờ phụ
trội để lấy tiền mua vé máy bay cho con Chelsea, con nhỏ đó
chỉ đi vé máy bay hạng nhất, con chưa có đủ tiền mua cho
nó".
Tôi nghiêng đầu hôn lên má
chú, chú đưa tay ôm đầu tôi, không biết đang mê hay tỉnh,
chú thầm thì:
"Mi cẩn thận hỉ, coi chừng
hắn (?) cắt cái đầu của mi là coi như vĩnh biệt hỉ???
Lời nói chú đem một luồn
hơi lạnh chạy dọc theo xương sống tôi. Chú đang ở thời
điểm nào? 1945,1954, 1968 hay1975? Tôi bổng nhận ra rằng chú
là một tàn tích của cuộc chiến triền miên trong quá khứ.
Những mảnh sầu đau còn hiện diện đâu đó bổng trồi ra
và hoành hành tâm não chú. Tôi chợt nhớ lời con Ly:
"Ôn đưa cho con coi cục đá,
noái là ôn lượm được cái trứng con rồng, ôn noái là cái
đầu con rồng sắp sửa chui ra..."
Con rồng đâu chẳng thấy,
tôi chỉ những cái đầu rắn chứa đầy nọc độc, ẩn nấp
đâu đó trong tâm não chú, cứ ngoi cái đầu ra mà hành hạ
chú hoài.
Ra khỏi ngõ, tôi ghé lại nhà
O Sa, đưa lại O cái áo len, nhờ O len lén trả lại cho chú.
O nhìn tôi:
"Chị đừng lo, ôn còn mạnh,
em coi chừng ôn cho chị".
Tôi nghẹn ngào quay đi, bụi
trúc đầu hè đang lung linh bóng nắng, con sông An Cựu bình
lặng trôi, các con thuyền nhẹ nhàng lướt theo dòng. Đám
lục bình hoa tím nhạt bồng bềnh trên sông. Đời chú tôi
cũng trước sau như một. Chú yên bình nơi đây với bà con
lối xóm hơn tám mươi năm, như cục đất, như cây mai vàng,
như bức bình phong, như cái nhà rường sắp sập theo dấu
thời gian.
"Núi Ngự Bình trước tròn
sau méo, sông An Cựu nắng đục mưa trong". Thay đổi làm sao
được! Thôi, tôi cũng để "cho dòng đời ấy, cuốn người
theo..." (5)
Tôn
Nữ Thu Nga
(Tháng mười
- 2002)
Chú thích:
(1)
Người bị bệnh tâm thần nhưng có nhiều khả năng về nhạc,
ngôn ngữ, trí nhớ ..ví dụ như anh Raymond trong phim Rain Man.
(2)
Cây gậy
(3)
Nhà thờ của các Tôn Thất, dòng họ Nguyễn Phước trong Đại
Nội.
(4)
Công, Dung, Ngôn, Hạnh
(5)
Nhạc Vũ Thành An |