Loạn
An Sử chỉ dài có tám năm (từ năm 755 đến năm 763) nhưng
gây tổn thất hết sức lớn lao. Trước loạn, dân số Trung
Quốc khoảng 53 triệu. Số người chết do loạn ước lượng
ít là 13 triệu, nhiều là 36 triệu, bởi chiến sự và bởi
nạn đói mà chiến sự làm xảy ra. Không biết bao nhiêu nhà
cửa cháy thành tro, ruộng vườn thành đất hoang, nền kinh
tế thịnh vượng nhất thế giới trở nên suy thoái nghiêm
trọng...
Biến cố lịch sử to như thế
tất nhiên có để dấu trong thơ. Xét riêng từng thi nghiệp,
thì mang "dấu loạn" rõ nhất là trường hợp Đỗ Phủ. Cảm
xúc nổi bật trong những sáng tác về thời loạn của ông
là lòng trắc ẩn trước vô số cảnh khổ quanh mình. Nói
"quanh" là hoàn toàn chính xác, vì Đỗ Phủ sống ngay giữa
nhân dân. Ông biết dân khổ là tai nghe mắt thấy, chứ không
phải chỉ nghe kể. Do thực tế cuộc sống, ông thương dân
là thương "ngang", chứ không phải thương từ trên xuống.
Thương dân với thương thân, đây có khác gì đâu!
Về chủ đề này trong thơ
Đỗ Phủ, chúng tôi chọn dịch hai bài "Thạch Hào lại" và
"Khương thôn". Cái người khách ngủ đêm ở thôn Thạch Hào,
ngẫu nhiên nghe chuyện một bà lão tình nguyện đi lao dịch
thay cho con dâu, có lẽ chính là ông. Mà cái người vợ con
đinh ninh chẳng bao giờ còn gặp lại, bỗng thấy bước vào
nhà, người ấy có lẽ cũng chính là ông, bởi Đỗ Phủ có
lần đã bị loạn quân bắt. Tưởng tượng cái cảnh một
gia đình mừng mừng tủi tủi, sụt sụt sùi sùi, rồi hàng
xóm kéo qua ngắm cảnh đoàn viên bất ngờ cảm động cũng
đua nhau sụt sụt sùi sùi. Trong nhà không có ai làm đổ nước
mà nền có chỗ ướt, trời không mưa mà ngoài sân cũng có
chỗ ướt! Đêm khuya, đèn đã tắt rồi lại được thắp
lên để vợ chồng cùng "trông nhau mà tưởng như còn trong
mơ!" (thơ Tố Hữu, bài "Lại về")!
Cả hai bài trên Ngô Tất Tố
đều có dịch. Chúng tôi xin đăng luôn đây để độc giả
tiện thưởng thức lại.
Thạch
Hào lại
Nguyên văn
Mộ đầu Thạch Hào thôn
/ Hữu lại dạ tróc nhân / Lão ông du tường tẩu / Lão phụ
xuất khan môn / Lại hô nhất hà nộ / Phụ đề nhất hà khổ
/ Thính phụ tiền trí từ: / "Tam nam Nghiệp Thành thú / Nhất
nam phụ thư chí / Nhị nam tân chiến tử / Tồn giả thả thâu
sinh / Tử giả trường dĩ hỹ / Thất trung cánh vô nhân / Duy
hữu nhũ hạ tôn / Hữu tôn mẫu vị khứ / Xuất nhập vô
hoàn quần / Lão ẩu lực tuy suy / Thỉnh tòng lại dạ quy /
Cấp ứng Hà Dương dịch / Do đắc bị thần xuy" / Dạ cửu
ngữ thanh tuyệt / Như văn khốc u yết / Thiên minh đăng tiền
đồ / Ðộc dữ lão ông biệt.
Dịch nghĩa
Chiều tối đến thôn Thạch
Hào / Ðêm có viên lại đến bắt người / Ông lão chủ nhà
trèo tường trốn / Bà lão vợ ông bước ra xem ai ở cổng
/ Viên lại quát tháo rất dữ dằn / Bà già kêu khóc rất
thảm thiết / Nghe bà kể lể, van lơn: / "Có ba trai, đều đi
lính đóng ở Nghiệp Thành / Một đứa viết thư về kể:
/ Hai đứa kia vừa chết trận rồi / Đứa sống mạng bấp
bênh / Ðứa chết thế là hết! / Trong nhà giờ hết sạch
người / Chỉ có đứa cháu còn ấp vú mẹ / Lo con mọn, dâu
tôi chưa đi giúp việc quân / Nó ra vào thiếu cả manh quần
lành lặn / Già này sức tuy đã kém / Xin theo ông đi ngay đêm
nay / Giúp gấp việc quân ở Hà Dương / Còn kịp phụ nấu
bữa sáng" / Ðêm khuya bà lão thôi nói đã lâu / (Mà) như còn
nghe được giọng nghẹn ngào / Trời sáng khách lên đường
/ Chỉ cùng ông lão chia tay.
Dịch thơ
Chiều hôm ghé nghỉ thôn
Hào
Nửa đêm nghe tiếng lại
rao bắt người
Ngõ sau ông lão thoát rồi
Run run bà lão ra mời quan
nha
Một bên lại hét vỡ nhà
Một bên tóc bạc cẩm ca
nằn nì
Lắng nghe, bà kể thế ni:
"Con già ba đứa ra đi cả
rồi
Một con mới kịp nhắn
lời:
Hai anh nó đã về nơi suối
vàng
Ðứa còn mạng chỉ treo
chuông
Ðứa thôi tức tưởi muôn
vàn xót xa
Ðàn ông hết sạch cả
nhà
Chỉ còn cháu bé oa oa suốt
ngày
Thương con, mẹ nó chưa
đi
Làm ăn vất vả kể chi
thân mình
Già này còn chút sức gân
Xin theo ông giúp việc quân
tức thì
Hà Dương gấp trẩy đêm
nay
Tinh mơ đến sẽ thổi ngay
cơm hầu"
Đêm khuya tiếng bặt đã
lâu
Vách như còn dội mấy câu
nghẹn ngào
Sáng ra tìm chủ để chào
Gặp ông mất vợ ra vào
ngẩn ngơ...
Bản dịch thơ khác
Chiều hôm tới xóm Thạch
Hào
Đương đêm có lính lao
xao bắt người
Vượt tường ông lão trốn
rồi
Cửa ngoài mụ vợ một
hai mời chào
Lính gầm mới dữ làm sao!
Mụ kêu như tỏ biết bao
khổ tình
Lắng nghe lời mụ rành
rành:
"Ba con đóng ở Nghiệp Thành
cả ba
Một con mới nhắn về nhà
Rằng: hai con đã làm ma
chiến trường!
Kẻ còn vất vưởng đau
thương
Nói chi kẻ dưới suối
vàng thêm đau!
Trong nhà nào có ai đâu?
Có thằng cháu nhỏ dưới
bầu sữa hoi
Cháu còn mẹ nó chăn nuôi
Ra vào quần áo tả tơi
có gì?
Thân già gân sức dù suy
Cũng xin theo lính cùng về
đêm nay
Hà Dương tới đó sau này
Cơm canh hầu bữa sớm ngày,
còn trôi"
Đêm khuya tiếng nói im rồi
Vẫn nghe nức nở tiếng
người khóc thương
Sáng mai khách bước lên
đường
Chỉ cùng ông lão bẽ bàng
chia tay. (Ngô Tất Tố)
Khương
thôn
Nguyên văn
Tranh vanh xích vân tây / Nhật
cước há bình địa / Sài môn điểu tước táo / Qui khách
thiên lý chí / Thê noa quái ngã tại / Kinh định hoàn thức
lệ / Thế loạn tao phiêu đãng / Sinh hoàn ngẫu nhiên toại
/ Lân nhân mãn tường đầu / Cảm thán diệc hư hi / Dạ lan
cánh bỉnh chúc / Tương đối như mộng mị.
Dịch nghĩa
Phía tây lưng trời có mây
đỏ / Mặt trời đã xuống tận đất / Ngoài cổng sài chim
kêu ríu rít / Người từ ngàn dặm về đến nơi / Vợ con
sửng sốt, không ngờ còn sống / Hết bàng hoàng, lại (luôn
tay) chùi nước mắt / Ðời loạn, bị trôi giạt / Ðược
sống trở về là chuyện tình cờ / Hàng xóm chen chúc đầu
tường / Ai cũng xúc động sụt sùi / Ðêm khuya lại thắp
đèn lên / Nhìn nhau mà tưởng như trong mộng.
Dịch thơ
Xa trông mây rực phương
đoài
Đồng quê le lói một đôi
nắng tàn
Cổng sài chim chóc kêu ran
Như vui đón khách dặm ngàn
về đây
Nhà ra, miệng há mặt ngây
Qua cơn sửng sốt, lệ đầy
chan chan
Đinh ninh hồn đã suối
vàng
Hay đâu còn có hân hoan
phút này
Ngẩn ngơ ngẫu nhĩ sum vầy
Chen nhau chòm xóm cũng lây
sụt sùi...
Mặt kề mặt, lạ chưa
nguôi
Canh khuya thắp lại đèn
soi tận tường!
Bản dịch thơ khác
Mái tây mây đỏ cao dần
Đất bằng thông thống
đường chân mặt trời
Tiếng chim xáo xác cửa
sài
Dặm nghìn, khách đã tới
nơi quê nhà
Vợ con đâu tưởng còn
ta
Tan cơn ngơ ngác, lau qua
giọt hồng
Loạn ly gặp bước bềnh
bồng
Sống về, may lại còn trông
có rày!
Tường bên hàng xóm đứng
đầy
Thở than cũng muốn dãi
bày tình thương
Đèn xanh chong suốt đêm
trường
Nhìn nhau còn tưởng mơ
màng thấy nhau. (Ngô Tất Tố) |